Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hệ thống chính trị nước việt nam dân chủ cộng hòa giai đoạn 1954-1975...

Tài liệu Hệ thống chính trị nước việt nam dân chủ cộng hòa giai đoạn 1954-1975

.PDF
99
756
64

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- NGUYỄN THỊ KIM HOA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA GIAI ĐOẠN 1954-1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chính trị học Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- NGUYỄN THỊ KIM HOA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA GIAI ĐOẠN 1954-1975 Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Hoàng Công Hà Nội – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong bản luận văn này là kết quả thu thập tài liệu và nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa được công bố trên các công trình khác. Tôi cũng xin khẳng định bài luận văn này đã được trích dẫn đầy đủ, cụ thể, chính xác kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Và tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những thông tin, dữ liệu đã công bố trong bản luận văn. Hà Nội, ngày 13 tháng 12 năm 2014 Tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn PGS,TS. Vũ Hoàng Công, với tinh thần trách nhiệm và tấm lòng của một người thầy, thầy đã luôn tận tình hướng dẫn và giúp đỡ để tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô, anh chị, bạn bè đồng nghiệp Khoa Khoa học Chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, nơi tôi đang công tác đã luôn giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn. Đặc biệt, tôi xin gửi tới gia đinh, những người thân, người bạn lòng biết ơn sâu sắc vì sự cảm thông, chia sẻ, động viên trong suốt thời gian tôi học tập và nghiên cứu. Cuối cùng, dù đã có nhiều cố gắng nhưng công trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những khuyết điểm, thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, tôi mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo chân thành để công trình nghiên cứu được sửa chữa, bổ sung và hoàn thiện tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ Nguyễn Thị Kim Hoa MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 6 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................ 6 6. Đóng góp của đề tài .................................................................................. 8 7. Kết cấu của đề tài ..................................................................................... 8 PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 9 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ............................................... 9 1.1. Một số vấn đề lý luận về hệ thống chính trị ....................................... 9 1.1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị ........................................................ 9 1.1.2. Cấu trúc của hệ thống chính trị ....................................................... 12 1.2. Sự hình thành và quá trình phát triển của hệ thống chính trị nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945 - 1954 ........................................... 16 1.2.1. Sự hình thành các thành tố trong hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ...................................................................................... 16 1.2.2. Hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1945-1954 .................................................................................................... 26 Chƣơng 2. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ GIAI ĐOẠN 1954-1975 – CẤU TRÚC VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH ............................................................................................................ 32 2.1. Cấu trúc của hệ thống chính trị nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975 ................................................................................... 32 2.1.1. Hệ thống Đảng chính trị .................................................................. 32 2.1.2. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ......................................... 37 2.1.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội ....................... 57 2.2. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975 .................................................................. 62 2.2.1. Cơ chế lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.............................. 62 2.2.2. Mối quan hệ của Nhà nước với các đảng và đoàn thể của hệ thống chính trị ....................................................................................................... 68 Chƣơng 3. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ GIAI ĐOẠN 1954-1975 – ƢU ĐIỂM, NHƢỢC ĐIỂM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ................................................................... 72 3.1. Ƣu điểm và nhƣợc điểm trong tổ chức và quá trình hoạt động ..... 72 3.1.1. Ưu điểm ............................................................................................. 72 3.1.2. Nhược điểm ....................................................................................... 74 3.2. Một số bài học kinh nghiệm ............................................................... 77 3.2.1. Về tổ chức .......................................................................................... 77 3.2.2. Về hoạt động ..................................................................................... 82 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác xem lịch sử là “bản thân hiện thực khách quan, tồn tại và phát triển theo một logic, không phụ thuộc ý thức của con người”. Nhưng những sự thật tồn tại độc lập đó lại là những gì đã qua và với những mục đích khác nhau nên ngay từ khi chép sử đến sau này, khi nghiên cứu, nhận thức lịch sử, người ta luôn để lại dấu ấn chủ quan trong đó. Bởi vậy, việc tiếp cận lịch sử từ nhiều góc độ khác nhau góp phần nhìn nhận lịch sử một cách toàn diện và chân thực. Giai đoạn 1954-1975 đã được nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu từ nhiều giác độ khác nhau như sử học, xã hội học, kinh tế học, luật học, hành chính học, văn học,… Tuy nhiên lựa chọn đề tài này, tác giả mong muốn được tìm hiểu lịch sử Việt Nam nói chung và hệ thống chính trị Việt Nam giai đoạn 1954-1975 nói riêng dưới góc nhìn chính trị học, để nhận thức những vấn đề mới. Thêm một cách tiếp cận – cách tiếp cận chính trị học, quá trình nghiên cứu lịch sử Việt Nam sẽ thêm phong phú, đa dạng, lịch sử chính trị Việt Nam cũng sẽ có thêm nhiều cứ liệu mới. Trong giai đoạn 1954-1975, trên đất nước ta tồn tại song song hai hệ thống chính trị cách mạng. Đây là một sáng tạo độc đáo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh quốc tế và trong nước đặc biệt phức tạp. Về bản chất, hai hệ thống chính quyền cách mạng chỉ là hai bộ phận hữu cơ của một nền chính trị thống nhất do một Đảng Cộng sản duy nhất lãnh đạo. Tính chất sáng tạo là ở chỗ, hai bộ phận này tuy thống nhất về bản chất, song đã khéo lựa chọn phương thức tổ chức và hoạt động phù hợp với hoàn cảnh chính trị ở từng miền. Nếu như hệ thống chính trị cách mạng miền Nam là hệ thống chính trị cách mạng ngay trên tiền tuyến lớn thì hệ thống chính trị cách mạng miền Bắc, hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lại là hệ thống chính trị vững mạnh ở hậu phương lớn. Đặc biệt, trong những thời điểm gay go, ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ, thống nhất đất nước, hệ thống 1 chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ. Một câu hỏi được đặt ra: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tổ chức và hoạt động như thế nào để khai thác, phát huy đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và thời đại để đứng vững được ở tư thế chiến thắng trong một tình thế vô cùng gian nan, sóng gió ấy. Và chính câu hỏi này là một trong những lý do thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm lời giải đáp cho vấn đề. Bối cảnh đất nước và thế giới không ngừng biến động đã, đang và sẽ tạo ra nhiều cơ hội, thách thức đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Để tranh thủ, nắm bắt kịp thời các cơ hội phát triển và vượt qua những thách thức của thời đại, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới một cách toàn diện từ đổi mới kinh tế đến đổi mới văn hoá, xã hội, trong đó, đổi mới hệ thống chính trị là một trong những nội dung, nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, từ ngày đổi mới, có một số quan điểm nhìn nhận, đánh giá các giai đoạn đã qua một cách quá nghiêm khắc: nhấn mạnh các sai lầm, thiếu sót, phê phán một chiều những hạn chế, khuyết tật mà không chú ý phân tích đầy đủ hoàn cảnh lịch sử cụ thể, không thấy những thành quả vốn có và những yếu tố còn có thể kế thừa. Trong hoàn cảnh khó khăn và phức tạp hiện nay, hệ thống chính trị nước ta cần phải đổi mới như thế nào, học hỏi điều gì từ hệ thống chính trị cách mạng giai đoạn trước để đủ sức chèo lái đất nước. Nghiên cứu, tìm hiểu cấu trúc, hoạt động, cách thức vận hành của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975 sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử và từ đó có những gợi mở góp phần củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam. Từ những lý do cơ bản nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975” làm luận văn thạc sĩ chính trị học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu về hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã có những công trình với những cách tiếp cận khác nhau. Là một đề tài lịch sử2 chính trị, nên trước tiên, phải kể đến những nghiên cứu về lịch sử Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử nói chung và trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói riêng. Tiêu biểu là cuốn Tiến trình lịch sử Việt Nam do Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam của Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn,… Tiếp theo là nhóm những công trình nghiên cứu về từng thành tố cấu thành của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Về đảng chính trị, có thể kể đến các ấn phẩm như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tập II, giai đoạn 1954-1975) do nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia phát hành năm 1995, Đảng Cộng sản – Những vấn đề lý luận và mô hình tổ chức bộ máy của Lưu Văn Sùng được Nxb. Chính trị - Hành chính xuất bản năm 2011, Thể chế đảng cầm quyền – một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Đặng Đình Tân do Nxb. Chính trị quốc gia phát hành năm 2004, Đảng lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc thời kỳ 1965-1972 của Ngô Đăng Tri, Đảng lãnh đạo quá trình thống nhất nước nhà về mặt nhà nước của Nguyễn Quang Liệu,… Qua nghiên cứu, nhận thấy các công trình trên đã khái lược được quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, nhưng chưa thực sự nhấn mạnh và phân tích sâu cấu trúc tổ chức, các nguyên tắc vận hành của Đảng trong giai đoạn 19541975. Về Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, từng ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng có những nghiên cứu chuyên khảo. Về Quốc hội có Lịch sử Quốc hội (tập I, II) của Lê Mậu Hãn, Nguyễn Văn Thư, Một số nét về Quốc hội Việt Nam của Vũ Như Giới, xuất bản năm 1976, Những điều cần biết về Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của Đinh Gia Trinh (Nxb. Phổ thông, 1961), 25 năm hoạt động của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,…. 3 Về Chính phủ, không thể không nhắc đến một số công trình: Lịch sử Chính phủ Việt Nam (bộ 3 tập) và Biên niên Lịch sử Chính phủ Việt Nam do Ban chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ chỉ đạo biên soạn với sự tham gia chủ biên của Lê Mậu Hãn, Trần Đức Cường, Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam (1945-2005) của Nguyễn Trọng Phúc do Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2007, Chính phủ Việt Nam 1945-2000 (Nxb. Chính trị quốc gia, 2000), Chính phủ Việt Nam 1945-2003 của Dương Đức Quảng (Nxb. Chính trị quốc gia, 2004), Chính phủ Việt Nam từ 1945 đến nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII (2007-2011) (Nxb. Thông tấn, 2008), Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và tổ chức hoạt động của Chính phủ Việt Nam của Phan Hữu Tích, Trần Đình Thắng, Khái quát quá trình phát triển của cơ cấu tổ chức Chính phủ Việt Nam từ 1945 đến nay của Nguyễn Phước Thọ đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2007,… Về các đoàn thể nhân dân, có các tác phẩm: Lược sử Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam do Nxb. Chính trị quốc gia phát hành năm 1995, Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam của Trần Hậu, Vũ Đức Hoạt, Khổng Đức Thiêm, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: những chặng đường lịch sử, của Nguyễn Văn Bình (chủ biên) (Nxb. Lao động), Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam của Nguyễn Công Bình xuất bản năm 1963 bởi Nxb. Khoa học, GS.Văn Tạo với bài viết Phát huy truyền thống Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trên Tạp chí Mặt trận, Nxb. Quân đội nhân dân cũng đã phát hành ấn phẩm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào năm 2004,… Các công trình trên đã phân tích được những chặng đường hình thành và phát triển của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, ở khía cạnh đặt Mặt trận dân tộc trong tổng thể hệ thống chính trị, mối quan hệ tác động qua lại của các đoàn thể với Nhà nước, với Đảng chưa thực sự được đề cập sâu sắc. 4 Ngoài những công trình nghiên cứu từng thành tố cấu thành của hệ thống chính trị cũng có những cuốn sách, bài báo viết về hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như cuốn sách Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi mới của Vũ Minh Giang, Nxb. Chính trị quốc gia, 2008, cuốn Thể chế chính trị Việt Nam: Lịch sử hình thành và phát triển của Lưu Văn An, Nxb. Chính trị - Hành chính, 2012, 2 bài viết “Hệ thống chính trị ở Việt Nam những năm 1954-1975- Một số vấn đề nhận thức lý luận lịch sử” và “Hệ thống chính trị cách mạng Việt Nam trước đổi mới - Từ lịch sử suy ngẫm về hiện tại” của GS,TS. Phùng Hữu Phú, đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 2/1993 và số 6/1993,… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra được những cái nhìn rõ nét về sự hình thành của từng thành tố chính trị Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu trong cả một chỉnh thế với những đặc điểm, cơ chế vận hành, mối liên hệ giữa các thành tố, và đánh giá những ưu điểm, hạn chế của hệ thống,… thì dường như chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ và thấu đáo. Chính vì thế, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu về cấu trúc và mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thời kỳ 1954-1975, qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về thành tựu, hạn chế và một số bài học kinh nghiệm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích: Nghiên cứu chuyên sâu về cấu trúc, tổ chức của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975, thấy được những đặc điểm, vai trò, đánh giá được thành tựu, hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm, liên hệ với thực tiễn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: - Làm rõ các vấn đề lý luận chung như khái niệm hệ thống chính trị, quá trình hình thành và xác lập hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. 5 - Mô tả được cấu trúc, tổ chức và cơ chế vận hành của các thành tố trong hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 19541975, qua đó so sánh hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1945-1954 với hệ thống chính trị của một số nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa cùng thời. - Đánh giá được những ưu điểm và nhược điểm trong hoạt động và cách thức tổ chức của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975, từ đó, rút ra những bài học lý luận và thực tiễn, phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng: Tác giả tập trung nghiên cứu hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975 gồm các thành tố Đảng Lao động Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận và các tổ chức chính trị. 4.2. Phạm vi: - Về thời gian, đối tượng được nghiên cứu trong giới hạn thời gian từ năm 1954 đến năm 1975, song có khái lược về giai đoạn 1945-1954. - Về không gian, giới hạn phạm vi nghiên cứu trong luận văn là ở miền Bắc Việt Nam với những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội,… cụ thể. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận chính trị học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn bản pháp lý, các văn kiện liên quan của Đảng Cộng sản Việt Nam Các lý thuyết của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin: Lý luận hình thái kinh tế xã hội, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng, biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là những lý thuyết cơ bản tác giả lựa chọn để làm cơ sở nền tảng triển khai những luận giải nghiên cứu. 6 Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,… là những cơ sở lý luận không thể thiếu khi tác giả thực hiện nghiên cứu này. Các văn bản mang tính pháp lý như Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, các luật, các chính sách của Nhà nước, các văn kiện của Đảng được ban hành trong giai đoạn 1954 – 1975,… cũng là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả có thể triển khai những ý tưởng, luận giải của mình. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên phương pháp luận Mácxít, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể là phương pháp hệ thống: hệ thống chính trị là một chỉnh thế, các thành tố cấu thành tác động, qua lại lẫn nhau tạo nên cơ chế vận hành nhịp nhàng, thuận lợi. Phương pháp lịch sử cụ thể xem xét, phân tích, đánh giá hệ thống chính trị trong những điều kiện nhất định của tình hình thế giới và trong nước, trong những ảnh hưởng của những nhân tố về chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hoá,… Phương pháp so sánh, so sánh cách thức tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị giai đoạn 1954-1975 với giai đoạn 1945-1954, hệ thống chính trị Việt Nam với hệ thống chính trị Liên Xô, Trung Quốc – các nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa cùng thời để thấy được đặc điểm riêng biệt, tiêu biểu và cơ bản của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Phương pháp lôgic để nhìn thấy được nguyên nhân, động lực, bản chất và xu hướng vận động của hệ thống chính trị qua những cứ liệu, hiện tượng chính trị cụ thể. Ngoài ra, trong luận văn cũng sử dụng phương pháp định lượng qua việc khảo sát và xử lý các số liệu và các phương pháp nghiên cứu chung, cơ bản khác trong nghiên cứu ngành xã hội như phương pháp phân tích – tổng hợp,… 7 Xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu lịch sử chính trị, tác giả đã sử dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử với phương pháp nghiên cứu của khoa học chính trị cũng như phương pháp liên ngành chính trị - lịch sử. 6. Đóng góp của đề tài Luận văn góp phần nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống chính trị Việt Nam trong một thời kỳ cách mạng cụ thể, thời kỳ 1954-1975, cụ thể là cấu trúc, tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống. Bên cạnh đó, luận văn còn đánh giá những thành tựu, hạn chế của hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đánh giá những đóng góp của hệ thống chính trị đối với những thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời rút ra một số kinh nghiệm để tiếp tục xây dựng, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Là một công trình nghiên cứu về lịch sử chính trị, luận văn góp phần vào việc phát triển hướng nghiên cứu “lịch sử chính trị Việt Nam”, một bộ phận của ngành khoa học chính trị ở nước ta. Với những đóng góp trên, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến lịch sử chính trị, con đường đấu tranh thống nhất đất nước. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương 6 tiết. 8 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ 1.1. Một số vấn đề lý luận về hệ thống chính trị 1.1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị Hệ thống chính trị là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như khoa học quản lý, triết học, xã hội học,… Trong khoa học chính trị, đây là một khái niệm cơ bản của ngành, là phông kiến thức nền tảng để tiếp cận đến những khái niệm khác của khoa học chính trị, đặc biệt nó có quan hệ chặt chẽ với việc tổ chức và thực thi quyền lực chính trị. Vì vậy, hiểu được hệ thống chính trị là gì có vai trò quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. 1.1.1.1. Một số cách tiếp cận hệ thống chính trị Khái niệm “hệ thống chính trị” rất rộng, gồm hệ thống chính trị quốc gia, hệ thống chính trị quốc tế, hệ thống chính trị khu vực. Mỗi hệ thống có cấu trúc, chức năng và nguyên tắc của mình. Tuy nhiên, trong luận văn, chúng tôi sử dụng khái niệm hệ thống chính trị với hàm nghĩa là hệ thống chính trị trong phạm vi quốc gia. Lịch sử tư tưởng chính trị phương Đông và phương Tây trước Mác chưa có khái niệm “hệ thống chính trị”. Thuật ngữ này chỉ xuất hiện trong nền chính trị hiện đại. Các nhà kinh điển Mác, Ăngghen, Lênin cũng chưa bao giờ sử dụng khái niệm này. Trong lĩnh vực chính trị, các ông có dùng thuật ngữ “hệ thống” vào những trường hợp như “hệ thống hành chính quan liêu”, “hệ thống cai trị”, “hệ thống đẳng cấp chính trị”, “hệ thống trật tự xã hội mới” và một số khái niệm gần với thuật ngữ hệ thống chính trị như “hệ thống cai trị”, “thiết chế chính trị”, “cơ cấu chính quyền”, “cơ cấu chính trị”. Trong các tác phẩm của mình, Lênin cũng chỉ sử dụng khái niệm “cơ cấu chính trị” và đề cập rằng “chính quyền Xôviết là một cơ cấu chính trị”. 9 Sau Mác, vào đầu những năm 50 của thế kỷ XX, ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây mới xuất hiện khái niệm “hệ thống chính trị”. Còn ở Liên Xô, khái niệm này chỉ được các nhà luật học sử dụng phổ biến từ những năm 80 của thế kỷ XX. Hiện nay, quan niệm về hệ thống chính trị cũng còn rất khác nhau, phụ thuộc vào cách tiếp cận, khuynh hướng, trường phái chính trị. Ở phương Tây, hệ thống chính trị có hai cách tiếp cận cơ bản: (1) Cách tiếp cận thể chế, coi hệ thống chính trị là tập hợp các thể chế chính trị (gồm các tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội) và những mối quan hệ giữa chúng; (2) Cách tiếp cận hệ thống, coi hệ thống chính trị không chỉ bao gồm cấu trúc thể chế và các quan hệ giữa chúng, mà còn là những chuẩn mực chính trị, vai trò chính trị, hành vi chính trị. Ở nhiều nước trên thế giới, trong lý luận về chính trị học, hệ thống chính trị thường có 2 cách tiếp cận: (1) Cách tiếp cận hệ thống các đảng phái chính trị hợp pháp. Bàn đến hệ thống chính trị, các nhà chính trị học thường bàn đến hệ thống các đảng phái chính trị, đến các quan hệ chính trị giữa các đảng chính trị trong cuộc đấu tranh giành quyền lực nhà nước hoặc tham gia và chính quyền để trở thành đảng chấp chính (đảng cầm quyền); đảng tham chính hoặc đảng đối lập. Nhà nước được nghiên cứu như là đối tượng tác động của các đảng chính trị; (2) Cách tiếp cận lấy nhà nước như là biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị. Do vậy, bàn về hệ thống chính trị thực chất là bàn đến chính thể nhà nước theo các mô hình quân chủ, chính thể quân chủ lập hiến, cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống, cộng hòa lưỡng tính… Trong cách tiếp cận này, mối quan hệ giữa nhà nước với các đảng chính trị được xác lập thông qua các hình thức tổ chức chính thể, dựa trên mức độ và tính chất của phân quyền quyền lực chính trị và cấu trúc chính trị của chế độ đa dảng (phân quyền cứng hay phân quyền mềm, chế độ nhiều đảng hay chế độ hai đảng (lưỡng đảng)). 1.1.1.2. Khái niệm hệ thống chính trị 10 Trong Từ điển bách khoa Xôviết, hệ thống chính trị được định nghĩa là: một hệ thống các nhân tố bao gồm Nhà nước, các đảng phái chính trị, công đoàn, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức và phong trào theo đuổi mục đích chính trị, các chuẩn mực, truyền thống chính trị và các chế định. Ở Việt Nam, thuật ngữ hệ thống chính trị được Đảng ta chính thức sử dụng trong Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá VI (3 – 1989) để thay thế cho thuật ngữ “hệ thống chuyên chính vô sản” vẫn được dùng trước đây. Sau đó, Đại hội VII, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), thuật ngữ hệ thống chính trị được diễn đạt khá đầy đủ ở các điều 9, 10, 11 và 12. Từ đó trở đi, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi không chỉ trong nghị quyết, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, trong các công trình nghiên cứu khoa học mà cả trong sách báo và sinh hoạt chính trị thường nhật. Việc sử dụng khái niệm hệ thống chính trị đưa lại những nhận thức mới: nhận rõ và nhấn mạnh tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống – điều mà trước Đại hội VI “chưa được cụ thể hoá thành thể chế”[37, tr.110], có sự tách biệt tương đối giữa hệ thống tổ chức bộ máy với các yếu tố khác của nền chính trị; định hình rõ các tổ chức quần chúng, trong đó xác định Mặt trận Tổ quốc và 5 đoàn thể chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị. Điều này không chỉ khắc phục tính chất chung chung, nặng nề về bản chất giai cấp và mặt chuyên chính của khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”, mà còn thoát khỏi sự lúng túng trong việc cụ thể hoá cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân lao động làm chủ tập thể” được xác định từ Đại hội IV của Đảng. “Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thiết chế chính trị (các cơ quan quyền lực Nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và các phong trào xã hội,…) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị”[42, tr.262]. 11 Như vậy, hệ thống chính trị của một quốc gia là cơ cấu chính trị phức tạp bao gồm các tổ chức, thiết chế với tư cách là chủ thể của các quyết định chính trị, cụ thể ở đây là bao gồm đảng chính trị, Nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống chính trị và các tổ chức, thiết chế của nó mang tính hợp pháp, tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ luật pháp hiện hành cùng với quan hệ giữa chúng với nhau và với môi trường chính trị của xã hội. Một điểm đặc biệt nữa là các tổ chức, thiết chế của hệ thống chính trị có mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị, nghĩa là tham gia vào các quyết định chính trị, vào việc hoạch định các chính sách quốc gia. Đây là tiêu chuẩn để phân biệt các tổ chức, thiết chế của hệ thống chính trị với các tổ chức thiết chế có mục đích hoặc chức năng kinh tế - xã hội rất đa dạng khác. 1.1.2. Cấu trúc của hệ thống chính trị Hệ thống chính trị được cấu thành rất đa dạng và phức tạp. Do đó, các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị có thể rất đa dạng về tính chất. Có những thành phần thông thường, phổ biến mà bất cứ hệ thống chính trị nào cũng có như cơ cấu nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các nhóm lợi ích. Nhưng cũng có thành phần đặc biệt, không phổ biến, đó là những tổ chức của giới quân sự, tổ chức tôn giáo. Những thành phần này không phải hệ thống chính trị của nước nào cũng có. Ngoài ra cũng cần tính tới báo chí, hệ thống thông tin đại chúng như là một thành phần đặc biệt, bởi lẽ chức năng cơ bản của chúng là thông tin, song không thể phủ nhận được tính chính trị của nó trên thực tế. Trong xã hội hiện nay, ảnh hưởng của báo chí, truyền thông ngày càng lớn. Do vậy cả nhà nước, các đảng chính trị, các nhóm lợi ích đều sử dụng báo chí như công cụ chính trị của mình. Như vậy, các bộ phận của hệ thống chính trị rất đa dạng, nhưng thuộc về 3 tiểu hệ thống cơ bản: hệ thống đảng chính trị, hệ thống nhà nước và hệ thống các đoàn thể chính trị - xã hội. 12 1.1.2.1. Hệ thống đảng chính trị Trong xã hội hiện đại, quyền lực chính trị thường được đại diện bởi một lực lượng tiên phong, đó chính là các đảng chính trị. Đảng chính trị là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị. Tuỳ thuộc vào cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau về đảng chính trị. Ở Mỹ, ở phương Tây và các nước có chế độ đại nghị, đảng chính trị được hiểu phổ biến là một nhóm cá nhân, được tổ chức lại nhằm giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử, để điều hành chính phủ và quyết định chính sách công cộng. Trong Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Jay M. Shafrits cho rằng, đảng chính trị là “một tổ chức tìm cách nắm quyền lực chính trị bằng cách bầu thành viên của mình vào các cơ quan nhà nước, nhờ đó tư tưởng chính trị của họ có thể được phản ánh trong các chính sách công cộng”[63, tr.701]. Khác với quan niệm của các học giả phương Tây, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ bản chất giai cấp của các đảng chính trị, với tư cách là tổ chức chính trị đại diện lợi ích giai cấp, thể hiện lợi ích cơ bản của giai cấp trong cương lĩnh cũng như trong hoạt động của mình. Tiêu biểu cho quan niệm này, là định nghĩa về đảng chính trị trong Từ điển Bách khoa triết học (Liên Xô): Đảng chính trị là tổ chức chính trị thể hiện những lợi ích của một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội, liên kết những đại diện ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới những mục đích hay lý tưởng nhất định. Dù tiếp cận theo góc độ nào thì vị trí và quyền lực của các đảng rất khác nhau trong các hệ thống chính trị khác nhau. Trong hệ thống chính trị một đảng thì đảng cầm quyền có quyền lực lớn hơn rất nhiều so với đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị đa đảng. 1.1.2.2. Hệ thống nhà nước Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt 13 nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị. Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước xét về bản chất là một hệ thống kiến trúc thượng tầng, tồn tại trên một cơ sở kinh tế nhất định, là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là tổ chức quyền lực đặc biệt có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị trong xã hội có đối kháng giai cấp. Lênin nhấn mạnh rằng nhà nước là bộ máy đặc biệt, phục vụ cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác. Trong hệ thống nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi chức danh nhà nước lại có quyền lực khác nhau và tính chất khác nhau, tùy thuộc vào cách thức tổ chức nhà nước khác nhau ở mỗi quốc gia. Nếu như trong các nhà nước đại nghị, quyền lực của nghị viện và thủ tướng về mặt pháp lý rất lớn so với tổng thống thì trong nhà nước cộng hòa tổng thống lại có quyền lực rất lớn so với nghị viện. 1.1.2.3.Hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội Hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội ở các nền chính trị khác nhau có thể gọi tên rất khác nhau: ở các nước tư bản chủ nghĩa gọi là các nhóm lợi ích, ở các nước xã hội chủ nghĩa thường gọi là các đoàn thể quần chúng. Nhưng nhìn chung, các tổ chức chính trị - xã hội là một thuật ngữ để chỉ một bộ phận cấu thành cơ bản trong mỗi hệ thống chính trị “các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm các tổ chức mà hoạt động của chúng vừa mang tính chất chính trị vừa mang tính chất xã hội”[40, tr.31]. Xét về cấu trúc thành phần, có thể hiểu tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, tổ chức chính trị - xã hội bao gồm cả các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất. Trong điều 9 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan