ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
CHU THỊ PHONG LAN
HÀNH ĐỘNG DẪN NHẬP
TRONG PHẦN MỞ ĐẦU CUỘC THOẠI MUA BÁN
(Trên cứ liệu ghi âm tại các chợ và một số trung tâm mua sắm ở Hà Nội)
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số
: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. CHU THỊ THANH TÂM
HÀ NỘI – 2009
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
1. Lí do chọn đề tài .........................................................................................................................4
2. Mục đích và nhiệm vụ ................................................................................................................6
2.1. Mục đích ..............................................................................................................................6
2.2. Nhiệm vụ ..............................................................................................................................6
3. Tư liệu .........................................................................................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................................................6
5. Bố cục luận văn ...........................................................................................................................7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................................. 8
1.1. Những vấn đề lý thuyết hội thoại liên quan đến đề tài ........................................................8
1.1.1. Khái niệm hội thoại ..........................................................................................................9
1.1.2. Cặp thoại........................................................................................................................ 10
1.1.3. Tham thoại..................................................................................................................... 11
1.1.4. Hành động ngôn ngữ .................................................................................................... 13
1.1.4.1. Khái niệm................................................................................................................. 13
1.1.4.2. Phân loại.................................................................................................................. 14
1.2. Cuộc thoại và hành động dẫn nhập ..................................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm và cấu trúc cuộc thoại .................................................................................. 15
1.2.1.1. Khái niệm cuộc thoại ............................................................................................... 15
1.2.1.2. Cấu trúc cuộc thoại.................................................................................................. 16
1.2.2. Hành động dẫn nhập .................................................................................................... 17
1.2.2.1. Khái niệm................................................................................................................. 18
1.2.2.2. Vị trí và vai trò của hành vi dẫn nhập trong cuộc thoại và trong phần mở thoại ... 18
1.3. Hành động dẫn nhập trong phần mở đầu cuộc thoại mua bán ......................................... 19
1.3.1. Hội thoại mua bán ......................................................................................................... 19
1.3.1.1. Khái niệm................................................................................................................. 20
1.3.1.2. Các nhân tố tham gia vào cuộc thoại mua bán ...................................................... 21
1.3.1.3. Cấu trúc và phân loại (Dựa vào tư liệu thu thập).................................................... 22
1.3.2. Hành động dẫn nhập mua bán trong phần mở đầu cuộc thoại mua bán................. 32
1.3.2.1. Vị trí và { nghĩa của phần mở đầu trong cuộc thoại mua bán ............................... 32
1.3.2.2. Hành động dẫn nhập mua bán ............................................................................... 34
CHƯƠNG 2: HÀNH ĐỘNG DẪN NHẬP CỦA NGƯỜI BÁN VÀ NGƯỜI MUA
TRONG PHẦN MỞ ĐẦU CUỘC THOẠI MUA BÁN................................................ 41
2.1. Hành động dẫn nhập của người mua .................................................................................. 43
2.1.1. Dẫn nhập bằng sự thăm dò hoặc nghi vấn về hàng hóa............................................... 44
2.1.2. Dẫn nhập bằng việc đưa ra những đề nghị ................................................................... 49
2.1.3. Dẫn nhập bằng việc nêu nhu cầu, mong muốn .............................................................. 56
2.2. Hành động dẫn nhập của người bán .................................................................................. 61
2..2.1. Dẫn nhập bằng chào mời khách hàng .......................................................................... 62
2.2.2. Dẫn nhập bằng việc đưa ra lời khen với Sp1 hay xác tín mặt hàng của Sp2 ................ 66
2.2.3. Dẫn nhập bằng việc đưa ra gợi { cho người mua .......................................................... 69
2.3. Một vài so sánh về cách sử dụng hành động dẫn nhập của người mua và người bán. .... 74
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ XƯNG HÔ TRONG HÀNH ĐỘNG DẪN NHẬP CỦA
NGƯỜI MUA VÀ NGƯỜI BÁN .................................................................................. 77
3.1. Các vấn đề về xưng hô ......................................................................................................... 78
3.1.1. Khái niệm xưng hô ........................................................................................................ 78
3.1.2. Phân biệt xưng hô và hô gọi ......................................................................................... 80
3.1.3. Xưng hô trong tiếng Việt .............................................................................................. 81
3.1.4. Mối quan hệ giữa xưng hô và lịch sự ........................................................................... 83
3.2. Cách xưng hô trong hành động dẫn nhập của người mua ................................................. 83
3.2.1. Kiểu xưng hô có cả xưng của sp1 và gọi sp2 .................................................................. 84
3.2.2. Kiểu xưng hô sp1 không tự xưng nhưng gọi sp2............................................................ 85
3.2.3. Kiểu xưng hô có phần hô gọi sp2 và sp1 tự xưng.......................................................... 87
3.2.4. Kiểu xưng hô: sp1 không xưng, không gọi sp2 nhưng có thể có ạ (nhé) ở cuối hành
động. ........................................................................................................................................ 89
3.2.5. Kiểu xưng hô sp1 tự xưng (không gọi Sp2) đi cùng cấu trúc: Cho + tự xưng trong các
hành vi dẫn nhập đề nghị hoặc mong, muốn + tự xưng trong các hành vi dẫn nhập mong
muốn. ....................................................................................................................................... 91
3.2.6. Kiểu xưng hô có phần hô gọi nhưng sp1 không gọi sp2 cũng không tự xưng. .............. 93
3.3. Cách xưng hô trong hành động dẫn nhập của người bán .................................................. 96
3.3.1. Kiểu xưng hô có cả tự xưng của sp2 và gọi sp1. ............................................................ 96
3.3.2. Kiểu xưng hô sp2 không tự xưng và gọi sp1 (cô, em, cháu …) ...................................... 98
3.3.3. Kiểu xưng hô có phần hô gọi, không gọi sp1, sp2 tự xưng. ........................................... 99
3.3.4. Kiểu xưng hô sp2 không tự xưng cũng không gọi sp1 mà chỉ ngay đến mặt hàng. ... 101
3.3.5. Các kiểu khác ................................................................................................................ 102
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 109
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hội thoại là một hình thức phổ biến trong giao tiếp của tất cả các ngôn
ngữ. Thông qua đó con người có thể truyền tải và tiếp nhận những nội dung,
thông tin cần thiết. Hội thoại là nơi các yếu tố ngôn ngữ ở dạng trừu tượng
được cụ thể hóa và thể hiện rõ vai trò của nó. Từ trước đến nay, nghiên cứu
hội thoại là một vấn đề được các nhà ngữ dụng học cũng như các nhà ngôn
ngữ học xã hội rất quan tâm. Việc nghiên cứu hội thoại do đó không chỉ vận
dụng đơn thuần các kiến thức của ngôn ngữ học mà còn cần đến cả những
kiến thức của các ngành xã hội khác như: tâm l{ học, xã hội học, văn hóa
học… Hội thoại là hình thức hoạt động ngôn ngữ trong giao tiếp của con
người với nhau. Ở đó có sự tương tác giữa các lời nói trong hoàn cảnh nhất
định từ phía người nói và người nghe.
Mua bán là một hoạt động giao tiếp mà thông qua việc sử dụng ngôn
ngữ người bán và người mua muốn truyền đi các thông điệp của mình. Hiện
nay, nghiên cứu ngôn ngữ trong hội thoại mua bán được nhiều người quan
tâm với một số công trình đã công bố. Trong luận văn “Bước đầu tìm hiểu
cấu trúc hội thoại: Cuộc thoại - đoạn thoại (Trên cơ sở tìm hiểu một số cuộc
thoại mua bán ngày nay và thời bao cấp)”, tác giả Nguyễn Thị Đan đã xác lập
các tiêu chí về một cuộc thoại mua bán, đồng thời tiến hành phân loại các
kiểu thoại mua bán tiêu biểu. Từ những cơ sở l{ thuyết đó, Nguyễn Thị Đan
trong hai chương của luận văn tiến hành miêu tả cấu trúc của cuộc thoại và
đoạn thoại mua bán. Với “Tham thoại trong giao tiếp mua bán hiện nay”,
Nguyễn Thị L{ tìm hiểu về cấu trúc, chức năng của các tham thoại trong ba
phần mở, thân và kết của cuộc thoại mua bán. Đến với “Cặp thoại trong giao
tiếp mua bán ngày nay”, tác giả Dương Tú Thanh đi vào tìm hiểu cặp thoại
trong các cuộc mua bán. Tác giả này đã phân loại các cặp thoại, nêu hiệu quả
giao tiếp của các cặp thoại. Sau đó, Dương Tú Thanh phân tích cụ thể cặp
thoại trong các phần mở thoại, thân thoại và kết thoại trên tiêu chí số lượng
các cặp thoại cũng như hình thức tổ chức lượt lời của cặp thoại. Hà Thị Sơn
trong “Đoạn dẫn nhập trong hội thoại mua bán hiện nay” đã tìm hiểu riêng
đoạn dẫn nhập trong hội thoại mua bán đồng thời ở cả người bán và người
mua với các vấn đề: vị trí, tiêu chí phân loại. Cũng thuộc nhóm đề tài này, tác
giả Mai Thị Kiều Phượng lại đi vào chi tiết hơn khi quan tâm đến ngôn ngữ
song thoại của người mua và người bán trong luận văn thạc sĩ năm 1996
“Những đặc điểm của cấu trúc ngôn ngữ song thoại giữa người mua và
người bán”.
Có thể nói, hội thoại mua bán là một phạm vi được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu. Trên cơ sở những vấn đề các tác giả đi trước đã đặt ra,
chúng tôi nhận thấy để hiểu sâu hơn một cuộc thoại mua bán thì có lẽ nên
bắt đầu từ đơn vị nhỏ nhất là hành động ngôn ngữ - đơn vị cơ sở tạo lập hội
thoại. Với mong muốn góp phần làm cho bức tranh về cuộc thoại mua bán
thêm toàn diện, luận văn này lấy “Hành động dẫn nhập trong phần mở đầu
cuộc thoại mua bán” làm đối tượng nghiên cứu. Trong khuôn khổ có giới
hạn của luận văn, chúng tôi mới chỉ tìm hiểu được về hành động dẫn nhập
trong phần mở đầu với mục đích từ cơ sở này tương lai chúng tôi sẽ mở rộng
để triển khai tiếp ở các phần còn lại của hội thoại mua bán.
2. Mục đích và nhiệm vụ
2.1. Mục đích
Thông qua việc tìm hiểu, phân tích hành động dẫn nhập trong phần
mở đầu hội thoại mua bán, luận văn mong muốn hướng đến:
- Phân loại các kiểu hành động dẫn nhập trong phần mở đầu của cuộc
thoại mua bán.
- Xem xét { nghĩa của các yếu tố tác động đến hành động dẫn nhập
trong phần mở đầu hội thoại mua bán.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được các mục đích trên, luận văn đề ra một số nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những l{ luận về hội thoại và các vấn đề liên quan.
- Xác lập thế nào là hành động dẫn nhập đồng thời phân tích các kiểu
cấu trúc đã có trên cơ sở tư liệu thu thập.
- Phân tích { nghĩa của nhân tố tác động đến hành động dẫn nhập.
3. Tư liệu
Toàn bộ tư liệu của luận văn được thu thập tại các chợ của Hà Nội như
chợ Đồng Xuân, chợ Hàng Da, chợ Ngã Tư Sở … và các trung tâm thương mại
lớn của thành phố chẳng hạn: Tràng Tiền plaza, Big C …
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng hai phương pháp khoa học cơ
bản là quy nạp và diễn dịch. Ngoài ra, chúng tôi cũng vận dụng các phương
pháp của phân ngành ngữ dụng học và ngôn ngữ học xã hội trong đó phân
tích hội thoại là phương pháp chủ đạo.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số, phương pháp và thủ pháp
khác như:
- Miêu tả
- Thống kê
- So sánh
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được chia làm 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Hành vi dẫn nhập của người mua và người bán trong phần mở
đầu cuộc thoại mua bán
Chương 3: Vấn đề xưng hô trong hành vi dẫn nhập của người mua và người
bán ở phần mở đầu cuộc thoại mua bán
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Những vấn đề lý thuyết hội thoại liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm hội thoại
Ngữ dụng học là một lĩnh vực đang phát triển, mở ra nhiều hướng đi
mới cho các nhà ngôn ngữ học. Nhiệm vụ của ngành này là nghiên cứu mối
quan hệ của ngôn ngữ và xã hội, chức năng giao tiếp của ngôn ngữ trong xã
hội. Do đó, ngữ dụng học sẽ đi sâu tìm hiểu các hình thức ngôn ngữ được
dùng để hiện thực hóa hành động ngôn từ và ngược lại các hành động ngôn
từ được hiện thực hóa bằng ngôn ngữ như thế nào. Để làm được điều này,
các nhà ngữ dụng học đã chọn cách phân tích hội thoại làm phương pháp
khoa học của mình.
Hội thoại là “hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn
ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”1. Các
cuộc hội thoại có thể khác nhau về thoại trường, số lượng người tham gia, tư
cách và vị trí của những người tham gia hội thoại hay tính có đích của cuộc
thoại, tính hình thức của cuộc thoại nhưng đều có điểm chung thống nhất đó
là sự tương tác giữa người nói và người nghe.
Tính phổ biến thường xuyên và căn bản trong giao tiếp của hội thoại
thể hiện ở tính hai chiều tức là sự tương tác giữa người nói và người nghe
với sự luân phiên lượt lời. Hội thoại có thể chỉ gồm hai người đó là song
thoại, gồm ba người đó là tam thoại và nhiều người tham gia đó là đa thoại.
Hội thoại cũng như các đơn vị cú pháp với tổ chức tôn ti gồm:
Cuộc thoại
Đoạn thoại
Cặp trao đáp.
1 Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học (tập 2, ngữ dụng học), NXB Giáo dục, 2001, tr201.
Các đơn vị này được hình thành trong quá trình vận động trao - đáp của các
đối tượng tham gia giao tiếp nên có tính chất lưỡng thoại. Hai đơn vị khác là:
Tham thoại
Hành vi ngôn ngữ
lại có tính chất đơn thoại bởi do một người nói ra (có thể là người nói hoặc
người nghe).
Tựu chung lại, trong ngữ dụng học, hội thoại là một mảnh đất màu
mỡ, mà ở đó, có thể xem xét sự hành chức của ngôn ngữ dưới nhiều góc độ
khác nhau. Sự khác nhau ấy khiến cho lĩnh vực hội thoại càng trở nên có sức
thu hút mạnh mẽ đối với các nhà nghiên cứu, đồng thời mở ra nhiều triển
vọng phát triển của các chuyên ngành mới liên quan.
1.1.2. Cặp thoại
Trong một cuộc thoại có thể có nhiều đoạn thoại. Nói đến đoạn thoại
không thể không nói tới cặp thoại - đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất gồm một
hành vi mang tính chất mở đầu và một hành vi có { nghĩa hồi đáp hoặc hơn
hai hành vi. Cặp thoại là “hai phát ngôn có quan hệ trực tiếp với nhau”2,
chẳng hạn như chào - chào, hỏi - trả lời, trao - nhận, xin lỗi - chấp nhận……
Cặp thoại hay cặp trao đáp là do những người nói khác nhau nói ra, mà có
thể gọi là vế thứ nhất và vế thứ hai. Bình thường hai vế trong cặp thoại liền
kề nhau.
Ví dụ:
Người mua (Sp1): Rau hôm nay thế nào hả bác?
Người bán (Sp2): Rau tươi đấy em ạ. Lấy đi. 3500 đồng một mớ.
2 Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ, NXB ĐHQG, 2000, tr70.
Tuy nhiên, có những trường hợp hai cặp thoại chủ hướng lại bị tách ra
bằng hai hoặc nhiều cặp thoại chêm xen khác.
Ví dụ:
A:
Em có thể xem phim này không?
B:
Em đến 18 tuổi chưa?
A:
Chưa ạ.
B:
Thế thì không. [Dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp]3.
Như vậy, dù liền kề nhau hoặc xa nhau thì cặp thoại vẫn là hai phát
ngôn có quan hệ tương thích nhau về chức năng.
Trong luận văn này, chúng tôi quan tâm đến cặp thoại, vì khi xét hành
vi dẫn nhập để cho trọn vẹn còn phải chú { đến hành vi hồi đáp nhằm tạo
nên tính chỉnh thể cho một cặp thoại. Trên cơ sở dẫn nhập có thể tìm hiểu
được các cách hồi đáp và ngược lại.
1.1.3. Tham thoại
Có thể nói, nòng cốt của hội thoại chính là những cặp trao - đáp. Đơn
vị tạo nên cặp trao - đáp là các tham thoại. Mỗi cặp thoại bình thường chỉ
cần hai tham thoại là đủ, tuy nhiên, có những cặp thoại lại được cấu tạo trên
hai tham thoại.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, tham thoại là “phần đóng góp của từng
nhân vật hội thoại vào một cặp thoại nhất định” [2, tr316]. Tham thoại do
một hoặc một số hành vi ngôn ngữ tạo nên. Có hai loại hành vi ngôn ngữ tạo
nên khung của tham thoại là hành vi chủ hướng và hành vi phụ thuộc. Tham
thoại có thể có một hành vi chủ hướng và một, hay một số hành vi phụ
3 Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ, NXB ĐHQG, 2000, tr71
thuộc. Tuy nhiên, có những tham thoại có hơn một hành vi chủ hướng nên
người nghe lúc đó phải nhận diện được hành vi chủ hướng nào mạnh hơn để
hồi đáp vào đó. Hành vi chủ hướng ở tham thoại “quyết định hướng của
tham thoại cũng như hành vi hồi đáp thích hợp của người đối thoại”4. Như
vậy, hành vi chủ hướng là hành vi có hiệu lực ở lời và người tiếp nhận phải có
chiến lược để hồi trả.
Khi nói đến tham thoại, chúng ta cũng cần phân biệt nó với lượt lời.
Tham thoại và lượt lời đều là phần đóng góp của một người vào cuộc thoại
nhưng chúng không phải là một. Lượt lời “là một lần nói xong của một người
trong khi những người khác không nói, để rồi đến lượt một người tiếp theo
nói”5. Như vậy, một lượt lời có thể có nhiều tham thoại và một tham thoại
có nhiều lượt lời.
Ví dụ: Một lượt lời có nhiều tham thoại:
Sp2 *1+: Bác ơi, mua gì vào đây em bán cho!
Sp1 *2+: Cô bán cho tôi cái bật lửa tốt nhé!
Sp2 *3+: Vâng, bác chờ em t{ nhé…..Của bác đây ạ.
Trong cả hai lần người bán nói, lượt lời của người này đều có trên hai
tham thoại trở lên. Trong lượt đầu tiên, có hai tham thoại là: tham thoại gọi
và tham thoại mời mua hàng. Trong lượt lời thứ ba, có ba tham thoại. Đó là
tham thoại đồng {, tham thoại đề nghị và tham thoại xác nhận mặt hàng đưa
cho khách.
Ví dụ: Một tham thoại gồm nhiều lượt lời:
Sp1*1+: Cái bật lửa này bao nhiêu tiền hả cô?
4 Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học (tập 2, ngữ dụng học), NXB Giáo dục, 2001, tr303.
5 Nguyễn Đức Dân, Ngữ dụng học T1, NXBGD, 1998, tr87.
Sp2*2+: Đồ tốt, giá rẻ. Chỉ tám nghìn thôi bác ạ.
Sp1*3+: Đắt thế, bốn nghìn nhé….
Sp2*4+: Không được đâu ạ. Bác trả hơn cho em đi.
Sp1*5+: Sáu nghìn nhé.
Sp2*6+: Thôi được, còn một cái bán nốt cho bác vậy.
Trong ví dụ trên, ta thấy tham thoại mặc cả của người mua được tách
ra làm hai lượt lời *3+ và *5+.
Như vậy, tùy thuộc vào mục đích, hoàn cảnh của cuộc thoại mà giữa
tham thoại và lượt lời có sự thể hiện một cách linh hoạt và sinh động.
1.1.4. Hành động ngôn ngữ
1.1.4.1. Khái niệm
Trước khi đi vào khái niệm, chúng tôi muốn nói tới tên gọi của hành
động ngôn ngữ. Tên gọi này xuất phát từ thuật ngữ tiếng Anh speech act. Khi
đi vào Việt Nam, nó được các nhà nghiên cứu chuyển dịch bằng các khái
niệm tương ứng như: hành động ngôn từ, hành vi ngôn ngữ, hành vi nói
năng… Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tên gọi hành động ngôn ngữ,
nhưng vì l{ do để tránh trùng lặp nên có thể ở một số câu chúng tôi vẫn sử
dụng các tên gọi khái niệm tương ứng.
Trong ngữ pháp hội thoại, hành động ngôn ngữ là đơn vị nhỏ nhất.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, khi nói năng là chúng ta đã thực hiện một hành
động đặc biệt mà phương tiện biểu đạt bằng ngôn ngữ. Hành động ngôn ngữ
theo đó là hành động được thực hiện khi người nói (hoặc viết) nói ra phát
ngôn U cho người nghe (người đọc) trong ngữ cảnh.
Hành động ngôn ngữ nằm trong mạng lưới hội thoại với vai trò và
chức năng không chỉ giới hạn trong quan hệ một lần giữa người nói và người
nghe mà hơn thế nằm trong quan hệ giữa lời thoại tổ chức nên cặp thoại,
tham thoại…và tác động đến các nhân vật hội thoại ở từng thời điểm của
cuộc thoại.
1.1.4.2. Phân loại
Trong hoạt động giao tiếp, khi chúng ta nói nghĩa là chúng ta đã thực
hiện một loại hành vi đặc biệt. Hành vi đó trong bất kz trường hợp nào cũng
có ba kiểu hành vi được thực hiện đồng thời (theo sự phân biệt của Austin)
là: hành vi tạo lời, hành vi tại lời và hành vi mượn lời.
- Hành vi tạo lời sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, ngữ
pháp, từ…để tạo ra một phát ngôn đúng về hình thức và nội dung.
- Hành vi mượn lời là hành vi mượn phương tiện ngôn ngữ, hay nói cách
khác là mượn các phát ngôn để gây ra tác động hay hiệu quả ngoài
ngôn ngữ với người nghe, người nhận hoặc ở chính người nói.
- Hành vi tại lời là hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu
quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, nghĩa là chúng gây
ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với người nghe.
Có thể nói, l{ thuyết hành vi quan tâm nhiều đến hành vi tại lời bởi
người ta luôn cố gắng tìm cách truyền đạt được nhiều nhất cái người ta
muốn đề cập.
Trong giao tiếp nói chung, hay trong các cuộc thoại nói riêng, hành vi
ngôn ngữ là một nhân tố giúp duy trì, phát triển cuộc thoại, giúp cho các
nhân vật giao tiếp truyền đi thông điệp của mình, giúp người ngoài cuộc
thoại hiểu được đích giao tiếp là gì.
1.2. Cuộc thoại và hành động dẫn nhập
1.2.1. Khái niệm và cấu trúc cuộc thoại
1.2.1.1. Khái niệm cuộc thoại
a. Khái niệm
Theo l{ thuyết hội thoại Thụy Sĩ - Pháp, hội thoại là một tổ chức tôn ti
như tổ chức đơn vị cú pháp. Vì thế, trong cấu trúc hội thoại sẽ có các đơn vị
từ lớn đến bé là: cuộc thoại - đoạn thoại - cặp trao đáp - tham thoại - hành vi
ngôn ngữ. Trong luận văn này, cuộc thoại là một trong những đối tượng mà
chúng tôi quan tâm đầu tiên, đi vào phân tích nó trước khi đi đến các đơn vị
nhỏ hơn.
Cuộc thoại là “đơn vị hội thoại bao trùm lớn nhất”6. Trong quá trình
giao tiếp của con người đã sản sinh ra một số lượng rất lớn những lời đối
đáp về các chủ đề. Mặc dù, những lời đối đáp ấy có thể có mối liên hệ logic
nào đó với nhau nhưng rõ ràng người ta không thể để chúng tồn tại ở dạng
những chuỗi dài bất tận. Việc phân tách các lời đối đáp và hợp chúng thành
các đơn vị gọi là cuộc thoại là việc làm cần thiết được giới nghiên cứu quan
tâm. Như vậy, cuộc thoại được hình thành do sự vận động trao - đáp giữa
các nhân vật tham gia quá trình giao tiếp.
b. Tiêu chí xác định cuộc thoại
Để xác định một cuộc thoại, có nhiều cách phân chia khác nhau, nhưng
tựu chung đều phải thỏa mãn các tiêu chí sau đây:
- Một đơn vị trong hội thoại chỉ được gọi là cuộc thoại khi ít nhất phải có từ
hai người trở nên tham gia.
- Cuộc thoại có thể kéo dài hoặc rút ngắn nhưng quan trọng là phải có chung
một chủ đề, phải có sự thống nhất về đề tài diễn ngôn từ mở đầu cho đến
6 Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học (tập 2, ngữ dụng học), NXB Giáo dục, 2001, tr312.
khi kết thúc. Cuộc thoại phải đạt đến điều đó thì mới đạt được mục đích giao
tiếp của mình.
- Thông thường, mỗi cuộc thoại sẽ diễn ra ở một địa điểm nhất định trong
một thời gian cụ thể. Tuy nhiên, không phải bao giờ điều này cũng cứng
nhắc, vì tùy từng trường hợp cụ thể do ảnh hưởng của một nhân tố khách
quan nào đó, cuộc thoại có thể chuyển không gian hoặc tạm gác lại về thời
gian.
- Khi số lượng hay tính chất của người tham gia hội thoại thay đổi thì thường
làm cho cuộc thoại thay đổi chủ đề và đây là một cơ sở cho ta cuộc thoại
mới.
Như vậy, rõ ràng là, các tiêu chí đưa ra nhằm phân lập ranh giới cuộc
thoại chỉ có tính tương đối và nhiều khi không tránh khỏi sự cứng nhắc.
C.K.Orecchioni đưa ra một định nghĩa về cuộc thoại khá mềm dẻo: “để có
một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện cần và đủ là có một nhóm nhân vật có
thể thay đổi nhưng không đứt quãng trong một khung thời gian - không gian
có thể thay đổi nhưng không đứt quãng nói về một vấn đề có thể thay đổi
nhưng không đứt quãng” (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu)7.
Nói chung để phân định ranh giới cuộc thoại đến nay chưa có những
tiêu chí đủ tin cậy và xác đáng được dùng mang tính phổ niệm. Thế nhưng
các cuộc thoại trong giao tiếp hàng ngày là có thật và việc phân định chúng
phục vụ trong nghiên cứu là cần thiết dù có thể sự phân định đó vẫn còn
mang tính võ đoán.
1.2.1.2. Cấu trúc cuộc thoại
Mặc dù việc phân chia một cuộc thoại vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh
cãi, nhưng tổng quát chung, một cuộc thoại thường có ba phần:
7 Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học (tập 2, ngữ dụng học), NXB Giáo dục, 2001, tr313.
Mở thoại
Thân thoại
Kết thoại
Mỗi phần (đoạn) trong cuộc thoại có những chức năng khác nhau
nhưng vẫn phải hướng đến phục vụ chủ đề của cuộc thoại.
Đoạn thoại mở đầu phần lớn là công thức hóa, mang tính chất “đưa
đẩy”, không chỉ có chức năng mở đầu một cuộc thoại mà còn manh nha tiến
hành “thương lượng hội thoại” về đề tài diễn ngôn, thăm dò đối phương về
mọi mặt.
Đoạn thân thoại thực hiện đích chính của cuộc thoại. Các nhân vật
tham gia hội thoại đều cố gắng trao - đáp để thiết lập mối quan hệ giao tiếp
tốt nhất cũng như đạt được mục đích giao tiếp của mình. Nếu hai bên đều
đạt được đích như mong muốn thì phần thân thoại sẽ kết thúc để chuyển
sang phần kết thoại.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, đoạn kết thúc cuộc thoại không những có
chức năng tổ chức sự kết thúc cuộc gặp gỡ mà còn tìm cách xác định cái cách
mà người ta phải chia tay. Trong giao tiếp thường đề cao tính lịch sự nên ở
phần kết thoại người ta cố gắng tránh những cách kết đột ngột, bất ngờ,
nhưng không loại trừ nhiều trường hợp có cách kết thúc khiến người đối
diện phải ngỡ ngàng.
Một cuộc thoại, từ khi bắt đầu cho đến kết thúc, muốn thành công
không chỉ đơn giản dựa vào ngôn ngữ mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố
phi lời như: cử chỉ, thái độ, động tác để các bên tham gia giao tiếp thể hiện
những xúc cảm của mình.
1.2.2. Hành động dẫn nhập
1.2.2.1. Khái niệm
Bất cứ một vấn đề gì, trước khi đi vào những nội dung chính, ngoài
phần đưa đẩy, vòng vo thì cần có phần dẫn dắt trực tiếp đến nội dung chính.
Cái đó người ta gọi là dẫn nhập. Như vậy, trong hội thoại, dẫn nhập luôn là
phần quan trọng và dường như không thể thiếu. Tối thiểu nhờ nó, cả hai bên
giao tiếp tránh việc bị “sốc” khi đi vào nội dung chính.
Dẫn nhập là lượt lời đặc biệt với chức năng dự báo trực tiếp về một
hành động hoặc sự việc sắp xảy ra trong cuộc thoại. Dẫn nhập không chỉ xuất
hiện và tồn tại trong phần mở đầu. Các thành phần khác của cuộc thoại cũng
có thể có phần dẫn nhập.
Dẫn nhập là hành động có { nghĩa trọng tâm trong một phần hoặc
toàn bộ cuộc thoại mà ở đó người ta liệu đoán được cái gì sắp xảy ra, cũng
như dẫn nhập hầu như đảm bảo được sự hợp tác của người tiếp nhận. Đưa
ra lời dẫn nhập, chắc chắn sẽ có lời hồi đáp (có thể bằng ngôn ngữ hoặc phi
ngôn ngữ).
1.2.2.2. Vị trí và vai trò của hành vi dẫn nhập trong cuộc thoại và trong phần
mở thoại
Một cuộc thoại luôn luôn có ba phần, trong mỗi phần trước khi đi vào
vấn đề chính, hầu như sẽ luôn có cái gọi là dẫn nhập. Dẫn nhập của những
người giao tiếp đều có { nghĩa chung là chuẩn bị về tinh thần, khả năng tiếp
nhận của các bên. Chính vì điều đó nên trong giao tiếp, hành động dẫn nhập
có vai trò quan trọng. Mỗi hành động dẫn nhập được tạo lập trong từng
phần của cuộc thoại, giúp cuộc thoại tự nhiên và uyển chuyển hơn. Mặt
khác, tạo điều kiện cho cuộc thoại có cơ sở phát triển sau này.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, lời dẫn nhập có chức năng quy định “quyền
lực và trách nhiệm đối với nhân vật hội thoại”8. Dẫn nhập có thể là yêu cầu
về thông tin, yêu cầu được tán đồng…. Quan trọng hơn, ngoài việc dẫn người
giao tiếp đi vào nội dung sắp được bàn luận, thì dẫn nhập còn ngầm quy định
việc phải (nên) hồi đáp lại. Đó là trách nhiệm của người tiếp nhận lời dẫn
nhập. Vì thế, dẫn nhập thường thuộc về các tham thoại chủ hướng trong mỗi
phần của cuộc thoại. Tuy nhiên, không phải cứ là tham thoại chủ hướng thì
coi nó có vai trò dẫn nhập và ngược lại. Vấn đề đến đây đặt ra là, trong cuộc
thoại, mỗi phần thường có dẫn nhập.
Mở thoại cũng không phải là trường hợp đi ngược lại điều đã nói trên.
Mở đầu là bộ phận quan trọng trong cấu trúc cuộc thoại. Nó cho phép các
nhân vật giao tiếp có thể tiếp xúc với nhau, gợi ra chủ đề chính cần bàn luận.
Việc bắt đầu đi vào chủ đề chính cần bàn luận đó gọi là hành động dẫn nhập.
Theo E.Goffman (1973) “mọi diễn biến của tương tác chủ yếu phụ thuộc vào
thời điểm đầu tiên này ”. Hay như Kallmeyer (1986) cũng nhìn nhận đoạn mở
đầu như sau: “tất cả các bình diện cơ bản của tương tác được xác định một
cách chặt chẽ hay ít ra là lâm thời để tạo ra một cơ sở cho sự tiến triển của
sự kiện”. *Dẫn theo Thanh Hương+9.
Qua những { kiến trên, có thể thấy rằng, phần mở đầu rất quan trọng
trong cả cuộc thoại. Một điều là, không phải tự nhiên hành động nào của
phần mở đầu cũng gọi tên là hành động dẫn nhập. Hành động dẫn nhập là
khi nó phải trực tiếp gợi đến vấn đề chính của đề tài để các nhân vật trên cơ
sở đó xây dựng và phát triển cuộc thoại.
1.3. Hành động dẫn nhập trong phần mở đầu cuộc thoại mua bán
1.3.1. Hội thoại mua bán
8 Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học (tập 2, ngữ dụng học), NXB Giáo dục, 2001, tr330.
9 Thanh Hương, Bước đầu tìm hiểu các hành vi giao tiếp mở đầu tương tác bác sĩ – bệnh nhân, T/c NN, số 3,
1990, tr6.
1.3.1.1. Khái niệm
Mua bán là một hoạt động giao tiếp hàng ngày của con người ở các
chợ, các cửa hàng hay các trung tâm mua sắm lớn. Từ l{ thuyết hội thoại nói
chung, hiểu một cách đơn giản, cuộc thoại mua bán là kiểu hội thoại được
hình thành do sự vận động trao - đáp giữa hai nhân vật: người mua hàng và
người bán hàng.
Trong cuộc thoại mua bán, hoạt động ngôn ngữ của các nhân vật tham
gia giao tiếp xoay quanh nội dung chào mời, xem xét chất lượng, mẫu mã sản
phẩm, hỏi giá, mặc cả, thỏa thuận hoặc không và kết thúc mua bán. Nếu
cuộc mua bán thành công thì sau khi thỏa thuận người mua - người bán sẽ
trao tiền - trao hàng cho nhau. Những cuộc mua bán kiểu như vậy gọi là tích
cực. Ngược lại khi thỏa thuận về giá cả không được ngã ngũ người bán và
người mua sẽ kết thúc cuộc thoại một cách tiêu cực, mục đích hội thoại
không hoàn thành.
Cuộc mua bán có thể được kéo dài hay rút ngắn tùy thuộc vào sự
thương lượng giữa người bán và người mua. Tuy nhiên, mỗi cuộc thoại dù
dài hay ngắn vẫn phải hướng về một chủ đề chung từ khi bắt đầu cho đến
diễn biến và kết thúc lần mua bán hàng hóa.
Hội thoại mua bán cũng giống như bất kz cuộc giao tiếp nào, để đạt
được mục đích của mình, những người tham gia không chỉ sử dụng phương
tiện là ngôn ngữ mà còn kèm theo các động tác, cử chỉ, nét mặt…..Tất cả
những vấn đề này nhằm đi đến một điều quan trọng là sao cho đích của cuộc
thoại được thực hiện.
Mua bán là hoạt động thường xuyên và phổ biến, cần thiết trong đời
sống của con người. Chính vì vậy, các dạng mua bán có rất nhiều, để phân
loại chúng người ta thường căn cứ vào đích chính của cuộc mua bán, vào
- Xem thêm -