Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi Đại học - Cao đẳng Hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trong tiếng việt...

Tài liệu Hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trong tiếng việt

.DOCX
48
1340
99

Mô tả:

Hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trong tiếng Việt, đề tài nêu rõ các thuật ngữ liên quan, có lý giải và ví dụ cụ thể, ngữ liệu đa dạng từ lời nói hằng ngày đến văn chương, thơ ca.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ NIÊN LUẬN CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC Đề tài: HÀM NGÔN VÀ HÀNH ĐỘNG MỈA MAI, CHÂM BIẾM TRONG TIẾNG VIỆT CBHD: TS NGUYỄN HOÀNG TRUNG SVTH: MAI THANH THIÊN TRANG LỚP: NGÔN NGỮ K12 MSSV: 1256010181 TP.HCM, ngày 04 tháng 01 năm 2015 Mục lục Mở đầu................................................................................................................3 1. Lí do chọn đề tài............................................................................................3 2. Lịch sử vấn đề................................................................................................4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................6 4. Phương pháp nghiên cứu và tài liệu tham khảo.............................................6 4.1. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................6 4.2. Tài liệu tham khảo...................................................................................7 5. Đóng góp của niên luận.................................................................................7 6. Cấu trúc của niên luận...................................................................................7 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG.....................................9 1.1. Sự khác nhau về tên gọi thuật ngữ hàm ngôn.............................................9 1.2. Hàm ngôn và những thuật ngữ liên quan.................................................10 1.2.1. Nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ngôn..................................................10 1.2.2. Tiền giả định và hàm ý.......................................................................11 1.3. Phân loại hàm ngôn..................................................................................14 1.4. Cơ chế tạo hàm ngôn................................................................................16 1.4.1. Sự vi phạm quy tắc chiếu vật và chỉ xuất...........................................16 1.4.2. Các hành vi ngôn ngữ gián tiếp..........................................................17 1.4.3. Sự vi phạm các quy tắc lập luận.........................................................17 1.4.4. Quy tắc lịch sự....................................................................................18 1.4.5. Quy tắc cộng tác hội thoại của Grice.................................................19 1.5. Chức năng của hàm ngôn.........................................................................20 1.6. Hành động ngôn ngữ................................................................................21 1.6.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ (hành vi ngôn ngữ, hành động phát ngôn) 21 3 1.6.2. Phân loại hành động ngôn ngữ...........................................................22 1.6.3. Hành động mỉa mai, châm biếm........................................................23 1.7. Quan điểm của niên luận..........................................................................24 CHƯƠNG 2: HÀM NGÔN VÀ HÀNH ĐỘNG MỈA MAI, CHÂM BIẾM KHẢO SÁT TRÊN CỨ LIỆU TIẾNG VIỆT................................................25 2.1. TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM..............................................25 2.2. VĂN HỌC VIỆT NAM............................................................................33 KẾT LUẬN.......................................................................................................46 TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................48 DẪN LIỆU........................................................................................................48 4 Mở đầu 1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ có chức năng phản ánh nhận thức của con người về cuộc sống hiện thực. Mà nhận thức của con người thì lại muôn màu muôn vẻ, làm sao để người khác hiểu được đầy đủ và chính xác nhận thức của mình và ngược lại, bằng cách nào mà mình có thể hiểu được những gì người khác đang nghĩ là một điều rất khó khăn. Để hiểu được người khác đang nghĩ gì thông qua lời nói của họ thì chúng ta phải được cung cấp một chìa khóa giải nghĩa. Vấn đề đó được gọi là ngữ dụng học. Ngữ dụng học là một phân ngành mới của ngôn ngữ học – nghiên cứu về việc bằng cách nào mà con người có thể hiểu được nhau thông qua ngôn ngữ. Trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng nói ra những điều mà người ta muốn truyền đạt, và cũng không phải chuyện gì người ta cũng nói ra tất cả. Trong rất nhiều trường hợp vì không tiện nói thẳng, hoặc không muốn chịu trách nhiệm về những điều mà mình đã nói nên người ta thường không nói rõ ra điều mà mình muốn nói, nhưng lại muốn người nghe tự hiểu ra. Nhìn chung, đây là một vấn đề lý thú, nó giúp ta nhận ra được những thông tin ngầm ẩn mà người nói không tiện hoặc không muốn nói ra. Những thông tin ngầm ẩn đó được gọi là ý nghĩa hàm ngôn. Do đó, niên luận đã chọn hàm ngôn để nghiên cứu. 5 Trong hàm ngôn của một người họ có thể thực hiện một hoặc nhiều hành động ngôn ngữ mà họ muốn tác động đến người nghe, trong đó có hành động mỉa mai, châm biếm. Hành động mỉa mai, châm biếm là một loại hành động ngôn ngữ mà người nói luôn nói ngược lại với những gì mà mình nghĩ trong đầu, tạo ra tác động đến người nghe, có thể là phê phán hay răn dạy điều gì đó. Chẳng những trong cuộc sống hằng ngày mà còn trong cả thơ ca, văn học và nhất là truyện cười dân gian, ta luôn thường xuyên bắt gặp những hành động mỉa mai, châm biếm. Với những điều vừa nêu trên, đó là lý do để chúng tôi thực hiện đề tài hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trong tiếng Việt. 2. Lịch sử vấn đề Trong Việt ngữ học, đã có rất nhiều nhà ngôn ngữ nghiên cứu về vấn đề hàm ngôn và các thuật ngữ liên quan như hiển ngôn, tiền giả định, hàm ý,… Rải rác trên một số sách ngôn ngữ và tạp chí chuyên ngành, người ta cũng nói về hành động ngôn ngữ, mà cụ thể là hành động mỉa mai, châm biếm. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đi sâu vào vấn đề hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trong tiếng Việt. Chúng ta có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến niên luận này. Trong công trình “Tiếng Việt – mấy vấn đề ngữ âm – ngữ pháp, ngữ nghĩa”, Cao Xuân Hạo đã đặt ra vấn đề về nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ẩn, theo tác giả, nghĩa hàm ẩn quan trọng hơn cả nghĩa hiển ngôn, nếu chưa hiểu nghĩa hàm ẩn của một câu nói thì cũng tức là chưa thật sự hiểu được nghĩa của 6 câu nói đó, bởi vì nghĩa hàm ẩn là “những gì không có sẵn trong nghĩa nguyên văn của các từ ngữ và trong những mối quan hệ cú pháp ấy, nhưng vẫn thấu đến người nghe thông qua một sự suy diễn”. Ông còn nghiên cứu rất kĩ về tiền giả định và hàm ý, ông đưa ra khái niệm và sau đó là phân tích sự thể hiện của tiền giả định và hàm ý trong ngôn ngữ như: tiền giả định trong nghĩa của từ, hàm ý của từ, tiền giả định trong câu, hàm ý của câu và của phát ngôn. Dựa vào nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice, ông miêu tả tỉ mỉ các phương châm hội thoại và sau đó chỉ ra được những lí do khiến người ta sử dụng hàm ngôn. Đặc biệt, trong công trình của mình, tác giả có một mục nhỏ đề cập đến hành động mỉa mai, ông cho rằng nói mỉa là một trong những lối dùng nghĩa bóng gần với hàm ngôn hội thoại. Công trình “Đại cương ngôn ngữ học – ngữ dụng học, tập 2” , Đỗ Hữu Châu đã đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến niên luận của chúng tôi. Trong Chương VII: Ý nghĩa hàm ẩn và ý nghĩa tường minh (hiển ngôn) tác giả đã dựa trên quan điểm của Grice để phân loại ý nghĩa hàm ẩn, chỉ ra các cơ chế tạo ra ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên. Theo ông, ý nghĩa hàm ẩn bao gồm hàm ngôn và tiền giả định. Trong công trình này, Chương III: Hành vi ngôn ngữ tác giả đã đưa ra định nghĩa và phân loại hành vi ngôn ngữ. Đây là nguồn tài liệu chính mà chúng tôi tham khảo trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Trong Tuyển tập ngôn ngữ học của Hoàng Phê có bài viết Hiển ngôn với hàm ngôn (trong chương trình trung học phổ thông lớp 11 hiện nay), Hoàng Phê đồng tình với quan điểm của Grice và Ducrot, đó là có sự đối lập hiển ngôn với hàm ngôn, Hoàng Phê phát biểu, nghĩa hiển ngôn là nghĩa hiện rõ từ hình thức bề mặt của phát ngôn, còn nghĩa hàm ngôn thì không hiện rõ từ bề mặt của 7 phát ngôn. Trong bài viết, Hoàng Phê cũng đề cập đến các thuật ngữ liên quan đến hàm ngôn là tiền giả định và ẩn ý. Bên trên, chúng tôi đã điểm qua một số ý kiến quan yếu liên quan đến đề tài hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trong tiếng Việt. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm là một vấn đề phức tạp trong ngữ dụng học được rất nhiều nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một sự thống nhất nào về những thuật ngữ này cũng như các thuật ngữ có liên quan. Trong niên luận, chúng tôi cố gắng tìm hiểu về thuật ngữ hàm ngôn, hành động mỉa mai, châm biếm và những thuật ngữ có liên quan như hiển ngôn, tiền giả định, hàm ý,..để có thể hiểu một cách tương đối về những thuật ngữ trên. Hành động mỉa mai, châm biếm thật chất cũng là một dạng sử dụng gần với ý nghĩa hàm ngôn, do đó chúng tôi tập trung tìm hiểu sâu hơn về hàm ngôn, cụ thể là chúng tôi tiến hành phân loại hàm ngôn, chỉ ra các chức năng của ý nghĩa hàm ngôn. Phạm vi nghiên cứu của niên luận là những ý nghĩa hàm ngôn, những hành động mỉa mai, châm biếm trích từ nhiều nguồn khác nhau chủ yếu là từ các tác phẩm văn học và các truyện cười dân gian Việt Nam, nhằm có cái nhìn tổng thể và toàn diện về hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trong tiếng Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu và tài liệu tham khảo 4.1. Phương pháp nghiên cứu 8 Căn cứ vào mục đích và bình diện nghiên cứu, niên luận chọn phương pháp phân tích hệ thống cấu trúc, phương pháp miêu tả và phương pháp ngữ dụng học. Niên luận sử dụng thủ pháp phân tích, phân loại và hệ thống. 4.2. Tài liệu tham khảo Tài liệu lí thuyết là các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học, ngoài ra, chúng tôi còn quan tâm đến một số tài liệu đã được số hóa trên Internet. Chủ yếu là các tài liệu có liên quan đến ngữ dụng học mà trọng tâm là đề tài của bài niên luận: hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trong tiếng Việt. Nguồn dẫn liệu chính là các truyện cười dân gian Việt Nam, và các tác phẩm văn học trong nước. 5. Đóng góp của niên luận Niên luận không có tham vọng giải quyết những vấn đề lí thuyết, mà thông qua những phân tích cụ thể, chúng tôi sẽ khái quát một số phương thức, chức năng của hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm, thông qua đó, tiến hành khảo sát hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm trên một số tác phẩm tiếng Việt. 6. Cấu trúc của niên luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Dẫn liệu, nội dung của niên luận gồm 2 chương. Chương 1: Những vấn đề lí luận chung 9 Chương này chúng tôi tìm hiểu về thuật ngữ hàm ngôn và các thuật ngữ liên quan như hiển ngôn, tiền giả định, hàm ý,… chỉ ra sự khác biệt giữa tiền giả định và hàm ý, phân loại ý nghĩa hàm ngôn và tìm hiểu chức năng của nó, bên cạnh đó chúng tôi còn đưa ra lí thuyết, phân loại hành vi ngôn ngữ và làm rõ hành động mỉa mai, châm biếm. Chương 2: Hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm khảo sát trên cứ liệu tiếng Việt Trong chương này, chúng tôi tiến hành phân tích các ý nghĩa hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm dựa trên một số văn bản tiếng Việt có hàm ngôn và hành động mỉa mai, châm biếm. 10 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG 1.1. Sự khác nhau về tên gọi thuật ngữ hàm ngôn Hàm ngôn là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều trong các công trình nghiên cứu liên quan đến ngữ dụng học, tuy nhiên, loại nghĩa ngầm ẩn này lại được mỗi tác giả đặt cho một cái tên khác nhau. Sự thiếu nhất quán trong vấn đề thuật ngữ có thể khiến người đọc không hiểu rõ các khái niệm này. - Có tác giả gọi là hàm ngôn trong thế đối lập với hiển ngôn (Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Đỗ Thị Kim Liên) Có tác giả gọi là hàm ý trong thế đối lập với một bộ phận khác của hàm ngôn (Nguyễn Đức Dân) Bên cạnh đó, có tác giả phân biệt hàm ý (điều hàm ẩn mà người nghe suy ra từ phát ngôn) với hàm ngôn (điều hàm ẩn mà người nói muốn chuyển đến người nghe) (Cao Xuân Hạo) Phân biệt hàm ý với ngụ ý (ý nghĩa tình thái ngầm ẩn), coi ngụ ý là một tiểu loại của hàm ý (Hồ Lê) Cũng sử dụng hàm ý và ngụ ý, nhưng Hoàng Phê cho rằng hàm ý là nội dung ngầm ẩn chỉ qua một lần suy ý, còn ngụ ý là nội dung ngầm ẩn được rút ra sau hai lần suy ý (Hoàng Phê) (Dẫn theo Nguyễn Thị Tố Ninh – Phạm Văn Tình, Hàm ý và hàm ý hội thoại (quan niệm, phương thức, hướng phân loại)) Trong bài niên luận, chúng tôi sử dụng thuật ngữ hàm ngôn để đối lập với hiển ngôn. 1.2. Hàm ngôn và những thuật ngữ liên quan 11 1.2.1. Nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ngôn Mỗi câu nói đều chứa đựng phần thông tin mà người nói muốn truyền đạt đến người nghe. Thông tin này thường có hai phần: nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ngôn. Hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng nghĩa hiển ngôn là phần nghĩa được hiểu trực tiếp dựa trên nguyên văn, do các yếu tố ngôn ngữ và cấu trúc trong phát ngôn mang lại. Đối lập với nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ngôn là phần nghĩa không được hiểu trực tiếp dựa trên nguyên văn, mà phải dựa vào sự suy ý của người tiếp nhận thông tin mới suy ra được phần thông tin mà người nói muốn truyền đạt. Cụ thể hơn về thuật ngữ hàm ngôn, Cao Xuân Hạo trong bài Nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ẩn có viết: “những gì không có sẵn trong nghĩa nguyên văn của các từ ngữ và trong những mối quan hệ cú pháp ấy, nhưng vẫn thấu đến người nghe thông qua một sự suy diễn: đó là nghĩa hàm ẩn của câu nói”, phần nghĩa hàm ẩn còn quan trọng hơn cả phần nghĩa hiển ngôn vì nó truyền đạt được nhiều thông tin mà người nói đôi khi không tiện nói ra. Theo Đỗ Hữu Châu: một phát ngôn ngoài ý nghĩa được nói ra trực tiếp trên câu chữ thì còn rất nhiều ý nghĩa khác nữa mà chúng ta phải dùng đến phương pháp suy ý dựa vào ngữ cảnh, ngôn cảnh, các quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại v.v…mới nắm bắt được. Các ý nghĩa nhờ suy ý mới nắm bắt được gọi là ý nghĩa hàm ẩn. 1.2.2. Tiền giả định và hàm ý 12 Tiền giả định (TGĐ) và hàm ý là những thuật ngữ được các nhà ngôn ngữ học quan tâm trong việc lý giải nghĩa hàm ngôn. Theo Cao Xuân Hạo: Tiền giả định là “một điều gì phải được giả định là đã có trước khi nói câu đó, vì nếu không có điều này thì không thể nói câu đó được (câu đó sẽ trở thành phi lý hoặc không thể hiểu được)”, còn hàm ý là “một điều gì mà khi nghe câu ấy, người nghe phải rút ra như một hệ quả tất nhiên”. TGĐ và hàm ý có thể được toát ra từ nghĩa nguyên văn của cả câu nhờ sự đóng góp của ngữ cảnh và tình huống. Nhưng trong câu, cũng có những từ mà nghĩa của chúng chứa đựng TGĐ và hàm ý. Hoàng Phê nhận định nghĩa ẩn ý và TGĐ đều hàm ngôn, nhưng giữa hai nghĩa này, vẫn có sự khác nhau quan trọng. Dựa vào các định nghĩa của Kerbrat Orecchioni, Hoàng Phê phát biểu: TGĐ bao gồm những thông tin tuy không được nói ra, nhưng một cách tự động, được ghi vào phát ngôn, và từ phát ngôn được suy ra, còn ẩn ý là những thông tin được chuyển đến bằng một phát ngôn, nhưng sự hiện thực hóa chúng vẫn phải phụ thuộc vào những điều kiện của tình huống cụ thể. Nghĩa ẩn ý đòi hỏi một sự giải mã đặc biệt. Ngoài mã ngôn ngữ, còn phải có mã tâm lý, xã hội,… Đỗ Hữu Châu thì lại dùng thuật ngữ TGĐ và hàm ngôn, ông bước đầu phân biệt TGĐ và hàm ngôn: TGĐ là những căn cứ cần thiết để người nói tạo ra ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của mình. Hàm ngôn là tất cả những nội dung có thể suy ra từ một phát ngôn cụ thể nào đó; từ ý nghĩa tường minh (ý nghĩa theo câu chữ) cùng với TGĐ của đó. 13 Ông thừa nhận giữa TGĐ, hàm ngôn và nghĩa tường minh có mối quan hệ với nhau. Hàm ngôn là những hiểu biết hàm ẩn có thể suy ra từ ý nghĩa tường minh và TGĐ của ý nghĩa tường minh. Nếu không có ý nghĩa tường minh và TGĐ của nó, không thể suy ra được hàm ngôn thích hợp, tuy nhiên, không loại trừ trường hợp hàm ngôn được suy ra từ hàm ngôn do ý nghĩa tường minh của tiền ngôn mà có. Hàm ngôn lệ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp và topos (các lẽ thường), còn TGĐ thì không lệ thuộc vào topos, tuy nhiên trong một diễn ngôn, điều được nói đến trong tiền ngôn có thể làm TGĐ cho phát ngôn sau. Khi xét đến lượng thông tin và tính năng động trong hội thoại, thì TGĐ có lượng thông tin thấp, còn ý nghĩa tường minh và hàm ngôn có tính năng động hội thoại cao. Do đó, hàm ngôn giúp thúc đẩy hội thoại tiến lên đạt đến đích, còn TGĐ có khi lại cản trở hội thoại tiến lên theo đích đã có. TGĐ có tính chất kháng phủ định, tức TGĐ vẫn được giữ nguyên khi phát ngôn chuyển từ khẳng định sang phủ định, ngược lại, hàm ngôn không giữ nguyên khi phát ngôn chuyển từ khẳng định sang phủ định. TGĐ có tính bất biến khi phát ngôn thay đổi về hành vi ngôn ngữ tạo ra nó, còn hàm ngôn thì lại không giữ nguyên khi hành vi ngôn ngữ thay đổi với ý nghĩa tường minh. TGĐ không thể loại bỏ ngay trong cùng một phát ngôn bởi cùng một người nói ra. Việc khử TGĐ bằng những kết tố lập luận nghịch hướng sẽ dẫn 14 tới sự vô nghĩa hoặc mâu thuẫn, trong khi đó, hàm ngôn có thể khử dễ dàng nhờ kết tử đối nghịch.1 Tóm lại, TGĐ là một loại nghĩa ngầm ẩn, nó là điều kiện cần phải được thỏa mãn để câu nói có thể hành chức được. TGĐ là điều mà được người nói và người nghe ngầm ẩn là đã hiểu, đã biết trước hoặc ngay trong lúc phát ngôn, TGĐ không có chức năng thông báo, nhưng nó là điều kiện để ý nghĩa tường minh của câu nói đó là đúng hay sai. Khi TGĐ là sai thì câu sẽ trở nên vô nghĩa, không có giá trị. Ngược lại, hàm ý lại là những gì mâu thuẫn với ý nghĩa tường minh, nó khác với những gì mà người nói đang nói ra buộc người nghe phải ngầm ẩn một cách sáng tạo. Để xác định TGĐ, ta dựa vào cơ chế ngôn ngữ (từ từ, cấu trúc của câu), tuy nhiên, để xác định hàm ý thì ta phụ thuộc vào lời nói, kinh nghiệm của người nghe, và phụ thuộc cả vào ý nghĩa của câu và tình huống giao tiếp. Chẳng hạn như trong ví dụ sau: Ba thi lại những 2 lần Phát ngôn này có: Ý nghĩa hiển ngôn: Ba thi lại 2 lần Ý nghĩa hàm ngôn, trong đó: Tiền giả định: 1 Kết tử là yếu tố tác động vào một hoặc nhiều phát ngôn để làm thành một lập luận. Kết tử liên kết luận cứ với kết luận 15 - Có một người tên Ba - Ba đã từng thi rớt Hàm ý (tùy theo ngữ cảnh, ý định của người nói và tư cách của người nói): thi lại như vậy là nhiều. 1.3. Phân loại hàm ngôn Kế thừa quan điểm của P.Grice, Đỗ Hữu Châu đưa ra 2 tiêu chí để phân loại hàm ẩn: (1) (2) Bản chất của chúng (ngữ nghĩa hay ngữ dụng) Chức năng của chúng trong diễn ngôn (là đối tượng hay không phải đối tượng của diễn ngôn) Xét theo (1), ý nghĩa hàm ẩn được chia thành: ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học và ý nghĩa hàm ẩn ngữ dụng học - Ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học: là ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ nội dung với mệnh đề đó. Ý nghĩa này chỉ có quan hệ với các nhân tố ngôn ngữ biểu thị nội dung mệnh đề. - Ý nghĩa hàm ẩn ngữ dụng học: là những ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ với các quy tắc ngữ dụng học như các quy tắc chiếu vật, quy tắc lập luận, các hành vi ngôn ngữ, các quy tắc hội thoại,… Ý nghĩa hàm ẩn có thể được tách ra thành hai loại: tiền giả định và hàm ngôn: Hàm ngôn nghĩa học Hàm ngôn Hàm ngôn ngữ dụng học Hàm ẩn 16 Tiền giả định nghĩa học Tiền giả định Tiền giả định ngữ dụng học Xét theo (2), hàm ẩn được phân biệt thành: ý nghĩa hàm ẩn tự nhiên và ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên2 (như cách phân biệt của Grice). Trong giao tiếp, có nhiều trường hợp ý nghĩa tường minh không phải là ý nghĩa truyền báo chính mà là ý nghĩa hàm ẩn. Trong trường hợp này, TGĐ và hàm ngôn đều có thể trở thành ý nghĩa không tự nhiên – là nội dung thông báo chính. Đối tượng chính của ngữ dụng học là các ý nghĩa hàm ẩn - TGĐ và hàm ngôn không tự nhiên. Đỗ Hữu Châu chấp nhận quan điểm của Grice, xem TGĐ và hàm ngôn thuộc cùng 1 phạm trù lớn hơn là: phạm trù ý nghĩa hàm ẩn. Ông chia hàm ngôn thành 2 loại: hàm ngôn ngữ nghĩa và hàm ngôn ngữ dụng. - Hàm ngôn ngữ nghĩa: là hàm ngôn suy ra từ nghĩa hiển ngôn (từ câu chữ), tức là từ các luận cứ hoặc kết luận không được nói ra một cách tường minh, để cho người nghe dựa vào quan hệ lập luận mà rút ra. 2Ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên: ý nghĩa hàm ẩn đó phải nằm trong ý định của người nói, và phải được người nghe nhận biết 17 - Hàm ngôn ngữ dụng: là hàm ngôn do sự vi phạm các quy tắc ngữ dụng mà có (quy tắc chỉ xuất, chiếu vật, quy tắc lập luận, quy tắc chi phối các hành vi ngôn ngữ, quy tắc hội thoại). 1.4. Cơ chế tạo hàm ngôn Muốn tạo ra ý nghĩa hàm ngôn, một mặt người nói phải tôn trọng các quy tắc ngữ dụng học và giả định rằng người nghe cũng biết và tôn trọng các quy tắc ấy. Mặc khác, người nói lại cố ý vi phạm các quy tắc ngữ dụng học và giả định rằng người nghe cũng nhận ra chỗ vi phạm đó. Ý nghĩa hàm ngôn không tự nhiên xuất hiện và được lí giải ở chỗ vi phạm các quy tắc ngữ dụng học. 1.4.1. Sự vi phạm quy tắc chiếu vật và chỉ xuất Vi phạm quy tắc chiếu vật: người nói sử dụng một biểu thức chiếu vật nhưng ứng với một hoặc nhiều sự vật khác. Ví dụ: Trong bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, hình ảnh con cò vừa miêu tả con cò, vừa là tượng trưng cho hình ảnh người mẹ trong cuộc đời mỗi con người. Vi phạm quy tắc chỉ xuất: tiếng Việt có hệ thống từ xưng hô rất phức tạp, tế nhị. Mỗi cặp xưng hô đều tiền giả định những kiểu quan hệ vị thế hội thoại nhất định và việc sử dụng cặp từ xưng hô nào sẽ quy định quan hệ giao tiếp cần giữ trong suốt cuộc thoại. Để tạo ra ý nghĩa hàm ngôn, người ta sử dụng các từ xưng hô không theo quy ước hoặc thay đổi cách xưng hô. Ví dụ: Cách xưng hô mình/tớ của Chí Phèo với Thị Nở - người không có quan hệ huyết thống hay gắn bó nào nhằm ngầm ý tăng cường quan hệ tình cảm 18 giữa 2 người: “hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” (Chí Phèo, Nam Cao) 1.4.2. Các hành vi ngôn ngữ gián tiếp Sử dụng các hành động ngôn ngữ gián tiếp là cách phổ biến để tạo ý nghĩa hàm ngôn Ví dụ: Người mẹ nói với con gái của mình “trời sắp mưa rồi”, câu nói đó không nhằm mục đích thông báo lại điều mà ai cũng biết là trời đang chuyển mưa, điều mà người mẹ muốn truyền đạt là cái ngầm ý sau câu nói đó, tùy theo ngữ cảnh mà ngầm ý có thể là (1) mang quần áo vào nhà đi, hoặc (2) mau vào nhà kẽo trời mưa,…. 1.4.3. Sự vi phạm các quy tắc lập luận Đôi khi người nói đưa ra luận cứ để người nghe tự suy ra kết luận hoặc ngược lại, đưa ra kết luận buộc người nghe tự suy ra luận cứ. Lập luận không đầy đủ là một trong những cách tạo hàm ngôn thông dụng. Ví dụ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” (Hồ Chí Minh) Trong phát ngôn trên kết luận bị ẩn đi, nhằm tạo ra nghĩa ngầm ẩn: hãy chiến đấu vì độc lập tự do. 1.4.4. Quy tắc lịch sự Lịch sự là có thái độ nhã nhặn, lễ độ khi tiếp xúc phù hợp với quan niệm phép tắc xã giao của xã hội. (Từ điển tiếng Việt – Hoàng Phê chủ biên) 19 Nguyên tắc về phép lịch sự được nhà ngôn ngữ học G.N.Leech nghiên cứu và đưa ra 6 phương châm sau đây: (dẫn theo Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ, tập 2, Ngữ dụng học) (1) Phương châm khéo léo a. Giảm thiểu tổn thất cho người (other) b. Tăng tối đa lợi ích cho người (2) Phương châm rộng rãi a. Giảm thiểu lợi ích cho ta (self) b. Tăng tối đa tổn thất cho ta (3) Phương châm tán thưởng a. Giảm thiểu sự chê bai đối với người b. Tăng tối đa khen ngợi người (4) Phương châm khiêm tốn a. Giảm thiểu khen ngợi ta b. Tăng tối đa sự chê bai ta (5) Phương châm tán đồng a. Giảm thiểu sự bất đồng giữa ta và người b. Tăng tối đa sự đồng ý giữa ta và người (6) Phương châm thiện cảm a. Giảm thiểu ác cảm giữa ta và người b. Tăng tối đa thiện cảm giữa ta và người Ví dụ: thành ngữ “nói mồm loa mép giải” là chỉ những người tham gia hội thoại vi phạm phương châm lịch sự. 1.4.5. Quy tắc cộng tác hội thoại của Grice Thông thường, để đảm bảo cuộc thoại diễn ra một cách bình thường và đạt được kết quả thì các nhân vật tham gia hội thoại phải tuân thủ những nguyên tắc cộng tác hội thoại. Tuy nhiên, điều này không phải là tuyệt đối, trong một số trường hợp, người nói vì muốn tuân thủ nguyên lý cộng tác này mà phải vi phạm nguyên lý 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan