ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN
HÀ NỘI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG:
TRƯỜNG HỢP SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN
HÀ NỘI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG:
TRƯỜNG HỢP SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp - người đã tận tình hướng dẫn, động viên, tạo
điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, phòng Đào
tạo trường Đại học Khoa học Thái Nguyên đã dạy dỗ, tạo điều kiện cho tôi
trong quá trình học tập.
Xin cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.
Học viên
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 1
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 9
Chương 1. ĐỀ TÀI HÀ NỘI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ
TRONG SÁNG TÁC NGUYỄN HUY TƯỞNG ........................................ 10
1.1. Hà Nội trong văn học Việt Nam .............................................................. 10
1.1.1. Hà Nội trong văn học trung đại ............................................................. 10
1.1.2. Hà Nội trong văn học từ thế kỉ XX đến nay ......................................... 13
1.2. Hà Nội trong sinh quyển nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng ....................... 19
1.2.1. Hà Nội trong quá khứ xa ....................................................................... 19
1.2.2. Hà Nội trong quá khứ gần ..................................................................... 25
1.3. Các nhân tố tạo nên cảm hứng về đề tài Hà Nội trong sáng tác
Nguyễn Huy Tưởng......................................................................................... 26
1.3.1. Thời đại ................................................................................................. 26
1.3.2. Quê hương ............................................................................................. 28
1.3.3. Gia đình ................................................................................................. 31
1.3.4. Con người Nguyễn Huy Tưởng ............................................................ 32
Chương 2. HÀ NỘI HÀO HÙNG VÀ HÀO HOA TRONG SỐNG
MÃI VỚI THỦ ĐÔ ....................................................................................... 35
2.1. Hà Nội hào hùng ...................................................................................... 35
2.1.1. Ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước .......................................................... 35
2.1.2. Tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ...................................... 42
2.1.3. Tinh thần dũng cảm chiến đấu gắn với truyền thống giữ nước của
Hà Nội nghìn năm ........................................................................................... 51
iii
2.2. Hà Nội hào hoa......................................................................................... 56
2.2.1. Một Hà Nội thanh lịch .......................................................................... 56
2.2.2. Một Hà Nội tinh tế, giàu chất thơ ......................................................... 59
2.3. Hà Nội - sự thấm quyện giữa lịch sử và văn hóa ..................................... 67
2.3.1. Chiều sâu lịch sử Hà Nội ...................................................................... 67
2.3.2. Những dấu ấn văn hóa Hà Nội trong Sống mãi với thủ đô.................. 68
Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT ....................................... 76
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 76
3.1.1. Kiểu nhân vật tư tưởng .......................................................................... 76
3.1.2. Kiểu nhân vật đám đông ....................................................................... 82
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 89
3.2.1. Ngôn ngữ trang nghiêm ........................................................................ 89
3.2.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ ......................................................................... 91
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 94
3.3.1. Giọng hào hùng, bi tráng....................................................................... 94
3.3.2. Giọng trân trọng, ngợi ca ...................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thăng Long - Hà Nội là kinh đô của nhiều vương triều phong kiến
trong lịch sử Việt Nam, là kinh đô cổ kính nhất vùng Đông Nam Á, nơi vua
Lý Thái Tổ nhận định là “Kinh sư bậc nhất của muôn đời”. Nơi đây hội tụ
“hồn thiêng sông núi” với những tinh hoa, văn hóa của người Việt. Miền đất
có bề dày lịch sử hơn một nghìn năm, có truyền thống văn hóa đa dạng và
giàu bản sắc, kết tinh văn minh Việt Nam. Cho nên Hà Nội có một vị trí quan
trọng trong văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Ở thời đại nào vẻ đẹp về đất và
người Hà Nội cũng rất quyến rũ. Đó là một nguồn cảm hứng bất tận của nhiều
văn nghệ sĩ trong đó có Nguyễn Huy Tưởng.
1.2. Có thể nói Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn sinh ra ở Hà Nội, suốt
một đời gắn bó với Hà Nội nên ông có nhiều kỉ niệm và kiến thức uyên bác về
lịch sử mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. Chính vì vậy những trang
viết về Hà Nội của ông luôn thể hiện cái nhìn sâu sắc, độc đáo. Hà Nội hiện
hình trong nhiều thể loại: văn xuôi, kịch, tùy bút, nhật ký,... Ở tất cả các sáng
tác về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng cố gắng làm nổi bật cốt cách hào hoa,
phẩm chất hào hùng của đất và người Hà Nội. Trong đó, Sống mãi với thủ đô
là tác phẩm tiêu biểu, gắn với Hà Nội những năm đầu kháng chiến chống
Pháp. Đây là một trong những tác phẩm làm nên sự nghiệp văn học của ông.
1.3. Với mong muốn làm sáng tỏ hơn nữa những phát hiện mới mẻ của
Nguyễn Huy Tưởng về Hà Nội, chúng tôi lựa chọn đề tài “Hà Nội trong sáng
tác của Nguyễn Huy Tưởng: trường hợp Sống mãi với thủ đô”.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn lớn trên văn đàn Việt Nam, do vậy
đã có nhiều nhà khoa học, nhiều độc giả yêu mến nhà văn đi sâu nghiên cứu,
tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Có thể kể đến các nhà
khoa học như Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Phong Lê, Nguyễn
2
Bích Thu,… hay các nhà văn nổi tiếng đã có những nhận xét, đánh giá về các
sự nghiệp văn học của ông như: Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Anh Đức, Kim Lân,
Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,…
Công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu khá kỹ lưỡng, công phu, toàn
diện về Nguyễn Huy Tưởng là chuyên luận của Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức
mang tên “Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960)” xuất bản năm 1966, chuyên
luận đã nghiên cứu sâu về toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
với cả thành tựu lẫn hạn chế trong phong cách sáng tác của nhà văn. Các tác
giả đã đi sâu nghiên cứu chặng đường sáng tác cả trước và sau cách mạng,
đặc biệt ở hai thể loại: tiểu thuyết và kịch, đồng thời khẳng định những đóng
góp to lớn của Nguyễn Huy Tưởng đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Gần đây, nhà nghiên cứu Bích Thu và Tôn Thảo Miên đã chọn lọc,
tổng hợp và biên soạn các bài tiểu luận nghiên cứu về cả tác giả và tác phẩm
trên nhiều phương diện của giới nghiên cứu, phê bình, sáng tác, của bạn bè
và người thân tác giả, để cho ra đời cuốn “Nguyễn Huy Tưởng về tác gia và
tác phẩm” (xuất bản năm 2000) - Một công trình khá công phu, rất có ý
nghĩa, chứa đựng nhiều thông tin về con người cũng như sự nghiệp sáng tác
của nhà văn, là nguồn tư liệu tham khảo rất hữu ích cho những độc giả muốn
tìm hiểu về Nguyễn Huy Tưởng.
Ngoài ra còn có các bài viết trên tạp chí khoa học chuyên ngành,
những đề tài luận án, luận văn được thực hiện trong thời gian gần đây.
Sau khi tham khảo các nguồn tư liệu quý báu và có ý nghĩa trên, chúng
tôi xin chọn lọc một số ý kiến và phân loại như sau:
2.1. Đánh giá về đề tài Thăng Long - Hà Nội trong sáng tác Nguyễn Huy Tưởng
Là một người bạn thân thiết của Nguyễn Huy Tưởng, chứng kiến quá
trình sáng tác của nhà văn, Tô Hoài thấy rõ được sự thích thú, say mê, những
ấp ủ của Nguyễn Huy Tưởng với đề tài Thăng Long, Hà Nội. Ông cho rằng
hầu hết các sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đều ít nhiều có “bóng dáng” của
Hà Nội, ý thức và tình cảm với Hà Nội là thứ “tự nhiên” trong con người nhà
3
văn: “Trong hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tác nhiều thể
loại văn xuôi, nhiều đề tài khác nhau. Nhưng, với anh, đề tài Hà Nội vẫn là
tiềm lực sức sống liên tục trong tất cả các giai đoạn và là những tác phẩm
chính của Nguyễn Huy Tưởng; Ở mỗi trang văn Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta
đều có thể gặp được bóng dáng của Cổ Loa, của Thăng Long, của Hà Nội”;
“Là cây bút sử thi hết sức hùng tráng, Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng bao
giờ cũng cực kì hùng vĩ, ngay từ những tác phẩm ban đầu” [7, 67].
Khi tìm hiểu quá trình Nguyễn Huy Tưởng sáng tác tiểu thuyết Sống
mãi với thủ đô, Phong Lê cũng chỉ ra mối quan tâm đặc biệt của Nguyễn Huy
Tưởng về mảnh đất “rồng bay”, đáng chủ ý là khoảng thời gian những năm
kháng chiến chống Pháp: “Miêu tả về quá khứ, Nguyễn Huy Tưởng chỉ quan
tâm đến một loạt đề tài về cố đô Thăng Long, về thủ đô Hà Nội (…) Có lẽ
không ai không biết đến niềm thiết tha của Nguyễn Huy Tưởng về đề tài thủ
đô kháng chiến. Anh ấp ủ nó mười mấy năm dài” [32, 285]
Nhà văn Kim Lân đánh giá cao những hiểu biết sâu rộng, những kiến
thức uyên bác về Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng và trong những câu chuyện
của họ, Nguyễn Huy Tưởng thường chỉ xoay quanh đề tài Hà Nội - quê hương
yêu dấu của nhà văn: “Nguyễn Huy Tưởng biết nhiều về Hà Nôi. Hà Nội mới,
Hà Nội cũ, Hà Nội kháng chiến và Hà Nội những năm xa xưa thời Lê, thời
Trịnh... Mỗi lần đi dạo trên các hè phố với anh, tôi thường được nghe anh kể
chuyện Hà Nội. Đi đến một góc đường nào, phố nào anh cũng có chuyện để
nói. Tôi có cảm giác như anh gắn bó với thủ đô Hà Nội từng mỗi bước chân…
Tôi không thể sao nhớ được những chuyện anh kể về Hà Nội, chỉ biết rằng
anh hiểu biết và gắn bó với Hà Nội vô cùng” [32,151].
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng bị lôi cuốn bởi các sáng tác về Hà
Nội của Nguyễn Huy Tưởng, ông đánh giá cao tài năng nghệ thuật của một
cây bút yêu nghề: “Những cái tên sách gợi lên hình ảnh một cái đài tưởng
niệm bằng ngôn ngữ, một vòng nguyệt quế từ bàn tay nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng đặt lên trán những trai thanh, gái lịch của Hà Nội rất giàu lòng yêu
nước” [32,636].
4
Theo Đoàn Trọng Huy: “Đề tài Hà Nội xưa và nay chiếm vị trí quan
trọng trong sáng tác, trở thành một cảm hứng đặc biệt như nét phong cách
riêng của ông”.
Hai tác giả Bích Thu và Tôn Thảo Miên cũng đồng quan điểm với
nhiều nhà nghiên cứu khác khi cho rằng Nguyễn Huy Tưởng gắn bó, am hiểu
sâu rộng về Hà Nội và luôn có một tình yêu tha thiết dành cho quê hương
mình, những trải nghiệm cuộc đời là nền tảng giúp nhà văn có cảm hứng đặc
biệt dành cho mảnh đất Thăng Long: “Kinh thành Thăng Long, thủ đô Hà Nội
xưa và nay thấm trong từng trang văn của Nguyễn Huy Tưởng nhưng Thăng
Long - Hà Nội là trái tim của tổ quốc nên trong sáng tác của nhà văn, thánh
địa Thăng Long, Hà Nội đã vượt qua giới hạn của chính nó hòa nhập vào hồn
thiêng đất nước” [32,13]. “Một phần đáng kể của tiểu thuyết lịch sử liên quan
tới thủ đô. Với một nhà văn hiểu biết sâu rộng về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng
đã tìm thấy mảnh đất riêng của mình, bằng những liên tưởng đối chiếu giữa
kiến thức trong sách vở với những trải nghiệm trong cuộc đời” [32,20].
Như vậy có thể thấy, viết về Hà Nội là niềm say mê, là tâm huyết suốt
một đời cầm bút của Nguyễn Huy Tưởng. Trên mảnh đất này, nhà văn không
chỉ thể hiện được vốn kiến thức, những hiểu biết sâu và rộng của mình về lịch
sử - văn hóa của Thủ đô mà sâu xa hơn, đó là tình yêu quê hương, đất nước,
con người Việt Nam từ xưa đến nay.
2.2. Đánh giá về tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô
Nguyễn Huy Tưởng nảy ra ý định viết về đề tài Trung đoàn Thủ đô vào
những ngày cuối tháng hai năm 1957, nghĩa là viết về cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của Liên khu Một đã lùi về dĩ vãng hơn mười năm trời.
Tác phẩm không đơn thuần là tái hiện lại cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của Trung đoàn thủ đô mà rộng hơn là ông muốn tái hiện một Hà Nội
hào hùng trong chiến đấu. Hơn ba năm trời miệt mài nghĩ và viết về cuốn
sách tâm huyết này, ý định của ông là viết về sáu mươi ngày đêm kháng chiến
của quân dân Thủ đô nhưng ông mới chỉ dừng lại ở năm trăm trang của tập
5
một, mới chỉ dừng lại ở hai ngày đầu của cuộc kháng chiến. Thật tiếc vì tác
phẩm còn dang dở thì tác giả đã phải ra đi vì bạo bệnh. Nhưng tài năng của
ông đã được khẳng định qua nhiều tác phẩm sống mãi với thời gian, trong đó
có Sống mãi với thủ đô. Giờ đây ông có một vị trí xứng đáng trong nền văn
học Việt Nam hiện đại, trong lòng độc giả nhiều thế hệ. Mặc dù Sống mãi với
thủ đô chưa thực sự trọn vẹn nhưng theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, các
đồng nghiệp thì tác phẩm đã đạt được những thành công nhất định.
Nguyễn Tuân trong lời bạt của cuốn tiểu thuyết đã dành nhiều lời ca ngợi
cho Sống mãi với thủ đô. Đây là một trong không nhiều tác phẩm viết về Hà Nội
đúng với tâm hồn của nó, đúng với cái “khí hậu, khí tượng của thủ đô”, đặc biệt
nó chứa đựng “cái tình của một con người văn sĩ thủ đô”: “Đọc lại những tiểu
thuyết lịch sử, kể cả Sống mãi với thủ đô, người đọc vẫn gây gây mùi khói vấn
vương ngàn năm Thăng Long chốn cũ”; “Tôi coi tiểu thuyết này như một bức
tranh có nhiều đức tính truyền cảm mà tôi chỉ mong được làm một người thợ mộc
cố tìm cho tác giả nó một bộ khung tương xứng bằng gỗ tốt, gỗ quý”.
Trong bài viết “Nhà văn Hà Nội Nguyễn Huy Tưởng” đăng trên tạp chí văn
học số 1 - năm 1985, Tô Hoài đã kể lại những hoạt động cách mạng, hoạt động xã
hội của Nguyễn Huy Tưởng khi còn là thanh niên, đồng thời Tô Hoài cũng cho
người đọc thấy được sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng luôn gắn liền với
mảnh đất Thăng Long - Hà Nội từ sáng tác đầu tay đến tác phẩm cuối cùng. Nhà
văn Tô Hoài cho rằng khi viết Sống mãi với thủ đô, ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng
rất sung sức “ như tay đô vật vào gióng còn đương múa vờn ” [5,73], cho nên ông
đã để lại một cuốn tiểu thuyết xuất sắc viết về Hà Nội kháng chiến.
Phong Lê cho rằng viết về Hà Nội thời kì kháng Pháp nhưng tác phẩm
của Nguyễn Huy Tưởng có nhiều nét riêng, độc đáo, bởi nhà văn có đôi mắt
quan sát sắc sảo và am hiểu rất sâu sắc về mảnh đất và người Hà Nội, cùng
với tài năng nghệ thuật, sự lao động miệt mài, Nguyễn Huy Tưởng đã cho ra
đời một cuốn tiểu thuyết giá trị:
6
“Niềm quan tâm và sự thông hiểu cặn kẽ của Nguyễn Huy Tưởng về
cuộc sống, về thái độ và diễn biến tâm trạng của lớp quần chúng trung gian
Hà Nội đó đã đem đến cho thiên truyện một giá trị hiện thực nhất định. Nhờ ở
năng khiếu quan sát có tài, Nguyễn Huy Tưởng đã nắm được những đặc điểm
riêng của cuộc kháng chiến ở Hà Nội, để gợi lên một thứ không khí riêng,
không khí Hà Nội, cho thiên truyện của mình” ; “Trong quá trình sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng, Sống mãi với thủ đô là một cái mốc lớn đánh dấu những
đổi thay về chất lượng” [32,292]. “Sống mãi với thủ đô biểu hiện quá trình đi
đến hoàn thiện những gì tốt đẹp nhất, những gì là của riêng mình trong phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng” [22, 302]; “Chất lượng nghệ thuật và
trữ lượng những suy nghĩ, tìm kiếm nơi Nguyễn Huy Tưởng dường như dồn lại
vào hai đầu mút của cuộc hành trình, với khởi đầu là Vũ Như Tô và kết thúc là
Sống mãi với thủ đô” [23,7]
Tiếp cận cuốn tiểu thuyết trên phương diện nghệ thuật, nhà phê bình
văn học Như Phong nhận xét: “Với tác phẩm cuối cùng này, anh đã tự đổi
mới trong phương pháp nghệ thuật của mình” [32,21].
Nhà văn Kim Lân đánh giá cao cuốn tiểu thuyết cùng với tài năng nghệ
thuật của Nguyễn Huy Tưởng: “Nó có cái đường bệ chín chắn của một tác
phẩm vào tầm cỡ lớn. Được dựng lên bằng một cây bút có nghề, có mực
thước, có sự thận trọng công phu tìm tòi suy nghĩ, có tấm lòng yêu dấu và
chân thành” [30,158].
Nguyễn Khải cũng rất hứng thú và say mê những trang viết về thủ đô,
bởi cuốn tiểu thuyết đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp về một Hà Nội trong
những ngày khói lửa, bom đạn: “Tôi tin rằng chúng ta, những người đã trải
qua cuộc kháng chiến chín năm, và lớp người lớn lên trong hòa bình sau này
sẽ cám ơn nhà văn ở nhiều trang tuyệt đẹp về những ngày thủ đô chuẩn bị
kháng chiến và hai đêm đầu tiên của cuộc chiến đấu đầy ác liệt ấy”
7
Trong bài viết “Nguyễn Huy Tưởng - nhà văn tiên phong tài năng” phát biểu tại buổi hội thảo “Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục
Tú - Đông Anh”, Đoàn Trọng Huy đã nhắc đến người thanh niên yêu nước
Nguyễn Huy Tưởng với những khát khao sáng tạo nghệ thuật, sự lao động
nghệ thuật nghiêm túc đã giúp nhà văn có được những tác phẩm sống mãi với
thời gian. Nhận xét về “Sống mãi với thủ đô”, Đoàn Trọng Huy đặc biệt chú ý
đến phong cách nghệ thuật độc đáo thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Đó
là sự kết hợp giữa cảm hứng sử thi và lãng mạn anh hùng: “Nguyễn Huy
Tưởng còn thành công đặc sắc trên lĩnh vực văn xuôi với tư cách nhà tiểu
thuyết hiện đại mang xu hướng sử thi với tác phẩm quy mô Sống mãi với thủ
đô vào cuối đời. Ở lĩnh vực này, ông là nhà văn có tay nghề và đổi mới mạnh
dạn” [17,98].
Đánh giá về giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết, Bích Thu và Tôn Thảo
Miên cho rằng: “Đặc biệt trong Sống mãi với thủ đô, tiểu thuyết đánh dấu
trình độ trưởng thành của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại, cảm hứng lịch sử
và dân tộc hòa quyện không khí bi tráng của sử thi, với thế giới nhân vật
đông đảo, nhiều dáng vẻ mang tâm trạng, nỗi niềm riêng đã hấp dẫn và lôi cuốn
người đọc từ sự kiện này đến biến cố khác, vừa hiện thực vừa lãng mạn” [32,13].
Nghiên cứu về Nguyễn Huy Tưởng cũng đã có một số luận án, luận
văn tìm hiểu như đề tài “Phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng” - đề
tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Huy Phòng, hay đề tài “Cảm hứng
lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng” luận văn thạc sĩ của tác giả
Nguyễn Thị Phương Thoa, “Đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của
Nguyễn Huy Tưởng” luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang.
Các công trình nghiên cứu cũng đã chỉ ra được phong cách nghệ thuật
Nguyễn Huy Tưởng, những đóng góp to lớn của nhà văn đối với nền văn
học nước nhà đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết.
8
Trên đây là những nhận xét rất có ý nghĩa và giá trị đối với đề tài mà
người viết đang thực hiện.Nhìn chung các bài viết, công trình nghiên cứu về
sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng mới đi sâu về cảm hứng lịch sử, đề tài lịch
sử, phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng, có một số bài viết, công trình
có tiếp cận sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ở đề tài về Hà Nội song mới chỉ
là sự tổng hợp, giới thiệu khái quát các tác phẩm có liên quan đến đề tài Hà
Nội, chưa khai thác sâu về giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật ở một tác
phẩm cụ thể. Cho nên chúng tôi với mong muốn làm sáng tỏ hơn nữa những
cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Huy Tưởng về Hà Nội đã lựa chọn tiểu thuyết
Sống mãi với thủ đô để phân tích.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu cái nhìn độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Huy
Tưởng về Hà Nội giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, từ đó khẳng định những đóng
góp to lớn của tác giả trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục tiêu trên, luận văn sẽ khai thác sâu về đề tài thủ đô Hà Nội
trong một tác phẩm cụ thể, mong muốn sẽ góp phần khắc họa đầy đủ và chân
thực hơn vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội thế kỉ XX.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp hệ thống: Người viết sử dụng phương pháp hệ thống
trong quá trình nghiên cứu để có một cái nhìn hệ thống về đề tài Hà Nội của
Nguyễn Huy Tưởng trong văn học Việt Nam hiện đại.
9
- Phương pháp phân tích tác phẩm: Được sử dụng xuyên suốt luận văn
nhằm phân tích dẫn chứng trong văn bản từ đó đi vào đánh giá, nhận xét, đưa
ra các nhận định ở các phần, các chương.
- Tiếp cận thi pháp học và tự sự học: chúng tôi vận dụng kiến thức thi
pháp học và tự sự học để tìm hiểu về hình thức nghệ thuật và nội dung của
tác phẩm.
- Phương pháp xã hội học: được dùng để làm rõ sự tác động cũng như
ảnh hưởng của bối cảnh thời đại, hoàn cảnh xã hội đối với quá trình sáng tác
tác phẩm.
Những phương pháp này sẽ được chúng tôi vận dụng linh hoạt trong
quá trình nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô
- Để làm sáng tỏ hơn vẻ đẹp Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ
đô chúng tôi tiến hành khảo sát thêm những tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng
và của các nhà văn cùng thời về đề tài Hà Nội.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua luận văn chúng tôi muốn khẳng định những đóng góp to lớn
trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng đối với đề tài về Thủ đô Hà
Nội, tác phẩm đã góp phần làm đầy thêm vẻ đẹp của Hà Nội thế kỉ XX. Hy vọng
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho học sinh, sinh viên, giáo viên các
trường phổ thông khi tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn triển
khai làm ba chương
Chương 1: Đề tài Hà Nội trong Văn học Việt Nam và trong sáng
tác Nguyễn Huy Tưởng
Chương 2: Hà Nội hào hùng và hào hoa trong Sống mãi với Thủ đô
Chương 3: Một số đặc sắc nghệ thuật
10
Chương 1
ĐỀ TÀI HÀ NỘI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
VÀ TRONG SÁNG TÁC NGUYỄN HUY TƯỞNG
1.1. Hà Nội trong văn học Việt Nam
1.1.1. Hà Nội trong văn học trung đại
Với bề dày lịch sử hơn một nghìn năm của mảnh đất Thăng Long - Hà
Nội thì tương ứng với nó cũng là lịch sử của hơn một nghìn năm văn học
Thăng Long - Hà Nội. Ở thời kì nào văn học Thăng Long - Hà Nội cũng nổi
bật hai đặc điểm cơ bản đó là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo.
Ở mảng văn xuôi, bao gồm các thể loại ký - tản văn, tiểu thuyết, truyện
ngắn, dù tồn tại dưới loại hình nào thì văn học về đề tài Thăng Long - Hà Nội
cũng phát triển rực rỡ trong suốt chiều dài ngàn năm văn hiến.
Suốt thời Lý - Trần, những tác phẩm tự sự viết về Thăng Long - Hà Nội
chủ yếu là những tác phẩm mang chức năng hành chính và nghi lễ tôn giáo.
Ta có thể nhắc đến một số tác phẩm tiêu biểu trong thời kì này như: Việt điện
u linh của Lý Tế Xuyên, Thiền uyển tập anh, Thánh đăng ngữ lục, Tam tổ
thực lục ( khuyết danh), Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp. Những tác
phẩm trên hầu hết mang chức năng lễ nghi tôn giáo, mang dấu ấn huyền thoại
dân gian song đều dành nhiều trang viết cho mảnh đất Thăng Long. Đó là
hình ảnh các vị thần trong Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên có 27 truyện kể
về các vị thần linh được thờ ở Việt Nam, gồm các vua chúa (nhân quân), bề
tôi trung liệt (nhân thần), thần sông, thần núi (hạo khí anh linh); trong Lĩnh
Nam chích quái là một tập truyện thần thoại cổ, mang nhiều biểu tượng của
triết lý và tâm linh Việt Nam. Đa số các nhân vật trong Lĩnh Nam chích quái
là thần thoại-Lạc Long Quân Âu Cơ, Tiên Dung Chử Đồng Tử, Trọng Thuỷ
Mỵ Châu, Tháng Gióng Phù Đổng Thiên Vương,…; Nhiều tác phẩm kể về
các anh hùng dân tộc, các vị vua tài đức (Thánh đăng ngữ lục là một tập sách
thuật lại hành trạng tu tập của năm vị vua đời Trần, trong đó, lịch sử của vua
11
Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông được ghi chép đầy đủ), các nhân sĩ trí
thức hay các tăng đồ tôn giáo xuất chúng (trong Thiền uyển tập anh - đây là
một cuốn sách cổ của Phật giáo Việt Nam ghi lại các tông phái thiền học và
sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh,
Lê, Lý, một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu thời Trần. Tam tổ thực lục - cuốn
sách nói về tiểu sử của ba vị tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử gồm Sơ Tổ Trúc Lâm
(1258-1308), Nhị Tổ Huyền Quang (1284-1330) và Tam Tổ Pháp Loa (12541334), được biên soạn vào thời Trần.
Thời Hồng Đức (1460 - 1497), hoàn cảnh dân tộc có những thay đổi
lớn, dẫn đến có những biến chuyển trong cảm quan nghệ thuật về con người
trong văn học. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, đất nước phát triển rực rỡ, hưng
thịnh về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và mở rộng
đáng kể lãnh thổ của mình, đây là thời kì nước Đại Việt trở thành một cường
quốc trong khu vực Đông Nam Á, ở thời kì này vai trò, vị trí của con người
được đề cao. Chính vì vậy trong văn học hình thành quan niệm về con người
cá nhân, nâng cao vị trí, vai trò của con người. Ta có thể kể đến văn bia đề tên
các tiến sĩ trải suốt từ thời Hồng Đức, đã ghi lại các kì thi quan trọng bậc nhất
từng diễn ra tại đất Thăng Long cũng như sự đề cao, bồi dưỡng nhân tài của
quốc gia dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Sau thời Hồng Đức, giai cấp phong kiến suy tàn, đất nước rơi vào
khủng hoảng, bị chia cắt, vì chiến tranh phong kiến diễn ra ác liệt và kéo dài,
quyền sống của con người bị bóp nghẹt, nhân dân điêu đứng, khổ cực. Vì vậy
văn học giai đoạn này đi sâu vào khuynh hướng thể hiện con người và thế tục.
Tiêu biểu là các tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kì tân
phả của Đoàn Thị Điểm,… Qua tác phẩm Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã
cất lên tiếng nói phản kháng mạnh mẽ hiện thực xã hội Việt Nam thế kỉ XVI.
Trong hoàn cảnh xã hội ấy, văn học chính là mảnh đất thuận lợi để các tác giả
bày tỏ những ước mơ, lý tưởng thẩm mĩ của mình. Do thái độ bất mãn tước
hiện thực xã hội đương thời, tác phẩm Truyền kì mạn lục đã phản ánh khá
12
nhiều vấn đề của xã hội: vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, bộ mặt xã hội
rốn ren nhiều tệ nạn, đả kích hôn quân, bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong
bại tục, đồng thời cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con
người trong tình yêu trai gái, tình cảm vợ chồng, hạnh phúc lứa đôi…
Trong Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm, cuốn sách ghi chép
những truyện linh dị và những truyện gặp gỡ được xây dựng từ những nhân
vật có thật trong lịch sử hoặc theo truyền thuyết dân gian, đều có ý thức đề
cao người phụ nữ. Đó là các truyện: Hải khẩu linh từ (Đền thiêng cửa biển),
Vân Cát thần nữ (Thần nữ Vân Cát), An Ấp liệt nữ (Liệt nữ ở An Ấp), Bích
Câu kỳ ngộ (Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở Bích Câu), Nghĩa khuyển khuất miêu (Chó
khôn chịu nhịn mèo) và Hoành Sơn tiên cục (Cuộc cờ tiên trên núi Hoành
Sơn). Tuy nhiên nổi bật hơn cả là truyện “Hải khẩu linh từ” (Đền thiêng cửa
biển), tác giả hướng đến tái tạo hình tượng người phụ nữ tài sắc đất cố đô -nữ
thần Chế Thống, tức Nguyễn Thị Bích Châu, cung phi của vua Trần Duệ
Tông đã hi sinh thân mình để nhà vua được an toàn đưa chiến thuyền vào
đánh quân Chiêm Thành. Cái chết tự nguyện của nàng Bích Châu là kết quả
của một sự suy nghĩ lâu dài về vận mệnh đất nước, dân tộc và hình tượng của
nàng còn có ý nghĩa tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm này được
đánh giá là thành công hơn cả của Đoàn Thị Điểm.
Đến thế kỉ XVIII - XIX, đời sống xã hội có nhiều biến động, đây là giai
đoạn khủng hoảng, suy vong trầm trọng của chế độ phong kiến Việt Nam và
nhà văn đã phản ánh sự biến động ấy vào văn học nghệ thuật một cách sinh
động. Cho nên thời kì này là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền văn học
dân tộc trong suốt thời kỳ phong kiến. Vấn đề trung tâm của văn học giai đoạn
này là vấn đề số phận con người trong chế độ phong kiến suy tàn. Các tác
phẩm văn xuôi đã phản ánh sâu sắc một Thăng Long dâu bể, có cả mặt trái nơi
cung vua phủ chúa, nhà quan, phố chợ và cả hào khí một thời chiến trận.
Khuynh hướng chủ đạo của văn học giai đoạn này tố cáo hiện thực và nhân đạo
chủ nghĩa. Các nhà văn mang trong mình ý thức cá nhân và phản ánh thời cuộc
13
bằng cái nhìn thế sự. Tiêu biểu là các tác phẩm Tang thương ngẫu lục của
Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Thượng
kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái.
Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử chương hổi, ghi lại một
giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội từ khi Trịnh Sâm lên ngôi Chúa đến khi
Gia Long chiếm Bắc Hà (1768 - 1802): loạn kiêu binh, triều Lê - Trịnh sụp đổ,
Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn. Đây chính là
giai đoạn rất nhiều biến động trong lịch sử Việt Nam. Tập ký kể lại cuộc hành
trình từ quê nhà Nghệ Tĩnh của ông về kinh thành Thăng Long để chữa bệnh cho
chúa Trịnh ở phủ Chúa, vì chúa đã biết tiếng tăm lừng lẫy của một đại danh y.
Nhiều trang viết mô tả quang cảnh kinh kỳ, nhất là trong phủ chúa Trịnh, nơi lắm
xa hoa và quyền uy. Tác giả thuật lại những điều tai nghe mắt thấy trong xã hội
hiện lên rất phong phú và sống động. Tuy nhiên, đằng sau những biến đổi sâu sắc
của xã hội, ta vẫn nhận thấy một hình ảnh Thăng Long hào hoa, thanh lịch.
1.1.2. Hà Nội trong văn học từ thế kỉ XX đến nay
Ðầu thế kỉ XX thực dân Pháp cơ bản đã thực hiện xong công cuộc bình
định trên đất nước ta và chuyển sang khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự
mới. Cùng với các cuộc khai thác thuộc địa có quy mô lớn, xã hội Việt Nam
mới có sự phân hóa đáng kể. Lúc này nền văn hóa phương Tây đã được du
nhập vào Việt Nam ồ ạt, trong phạm vi cả nước. Trong bối cảnh ấy, chúng ta
hội nhập với văn hóa Pháp và văn minh Âu Tây, từng bước hòa nhập vào văn
hóa thế giới. Hà Nội được trả về vị trí xứng đáng là trái tim của cả nước, là
trung tâm văn hóa chính trị của đất nước. Đặc biệt sự xuất hiện của tổ chức
Tự lực văn đoàn đã làm nên cả một thời đại văn học, thúc đẩy một bộ phận
văn xuôi hội nhập với nền văn học hiện đại thế giới. Trong bối cảnh chung,
các tác giả Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng,
Tô Hoài đã có những tác phẩm xuất sắc về đề tài Hà Nội và đứng vào đội ngũ
các tác gia hàng đầu của nền văn học hiện đại.
14
Trong hai mươi năm đầu thế kỉ XX, xu hướng của các nhà văn đi vào
phản ánh trực diện cuộc sống và con người Hà Nội. Văn học giai đoạn này
hình thành hai khuynh hướng rõ nét là khuynh hướng lãng mạn và khuynh
hướng hiện thực.
Ở khuynh hướng lãng mạn, các nhà văn viết về Hà Nội với cái nhìn sâu
sắc về những thay đổi tinh vi trong tâm hồn, tình cảm, tâm trạng của con người.
Người đọc có thể cảm nhận được rõ thông qua các tiểu thuyết thuộc nhóm các
tác giả Tự lực văn đoàn như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Nửa chừng xuân
của Khái Hưng. Ở thể loại truyện ngắn Hoa vông vang của Đỗ Tốn, Hoa tigôn
của Thanh Châu, Ba, Thả thia lia của Đỗ Đức Thu. Đặc biệt là hai tác giả
Thạch Lam và Nguyễn Tuân - hai cây bút đương thời tiêu biểu nhất cho thái độ
trân trọng, nâng niu những nét văn hóa đặc trưng của Hà Nội cổ xưa.
Nhìn lại nội dung tập sách, có điều lý thú là các nhân vật chính
trong Tố Tâm đều mang cốt cách Hà Nội khá rõ. Quê họ ở đâu không biết,
nhưng họ lớn lên ở đây, và sống với không khí chung quanh một cách rất hoà
hợp. Năm 1973, trong bài viết nhân dịp Hoàng Ngọc Phách qua đời, nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan cho biết: “Những nhân vật trong Tố Tâm đều phảng phất
giống những thanh niên Hà Nội năm xưa ấy. Tố Tâm “nền” lắm. Cô là con
nhà gia giáo, nên bao giờ cũng đi xe sắt - tức xe kéo bánh sắt - chứ không bao
giờ đi xe cao su như bọn me tây. Cô rất diện nhưng cũng chỉ diện tới mức bịt
khăn lụa đen, thứ khăn mốt nhất thời bấy giờ”. Đây có lẽ là một trong những
lần ít ỏi hình ảnh con người Hà Nội được miêu tả kỹ đến như thế!
Tản văn Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam được đánh giá là
một cuốn bút ký dành riêng cho vẻ đẹp Hà Nội. Vẻ đẹp ấy thể hiện ở nhiều
khía cạnh. Bắt đầu bằng việc giới thiệu các tấm biển ở các cửa hàng Hà Nội,
rồi Thạch Lam nói về lối kiến trúc riêng của các nhà cũ Hà Nội. Trong đó nhà
văn dành phần lớn số trang viết về nét văn hoá ẩm thực của người dân Hà
thành, đặc biệt là các loại quà Hà Nội. Đây là những trang viết đặc sắc nhất
của ngòi bút Thạch Lam. Thạch Lam lần lượt điểm qua tất cả những thức quà
15
hiện thời của đất Thăng Long văn vật. Từ bún chả, bánh cuốn Thanh Trì, ngô
bung, xôi cho đến phở, bún ốc, bún bung, bánh cốm, bánh khảo, kẹo lạc, chè
chén, bánh đậu, cốm… Qua những trang viết ấy, ta thấy một Hà Nội cổ kính,
ngàn năm văn hiến, tinh tế và thanh lịch, nhã nhặn mà thanh tao. Hà Nội trong
sáng tác của Thạch Lam hiện lên quả là “một thành phố rất nhiều vẻ đẹp”,
đúng như lời nhà văn nhận xét. Không chỉ xoay quanh chủ đề ẩm thực,
trong Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch Lam còn thể hiện tình yêu Hà Nội
qua nỗi trăn trở về sự đổi thay của vùng đất này. Dường như nó đang mất dần
đi những giá trị xưa cũ.
Viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân tìm về những nét đẹp đẽ của
thời quá vãng để hoài niệm và tái tạo lại. Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn
lên trong môi trường nho giáo, thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội "kim khí"
xô bồ, thường tìm về những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của
Nguyễn Tuân là những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách như thưởng
trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù... Từng câu chữ được lựa chọn, được chắt lọc
hết sức tinh tế. Tác phẩm Vang bóng một thời được xem như là một tác phẩm
gần như hướng đến sự toàn thiện, toàn mỹ. Đọc tác phẩm, độc giả sẽ cảm
nhận được những nếp sống cũ của người Hà Nội.
Ở khuynh hướng văn học hiện thực, các nhà văn đã tập trung miêu tả
Hà Nội trong cuộc vật lộn, đấu tranh với hai tầng áp bức thực dân và phong
kiến, do đó hiện lên trên những trang văn là một Hà Nội đầy khổ đau và bát
nháo. Do sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, Hà Nội hiện lên như một
bức tranh hỗn độn với những mảng sáng tối đan xen. Văn hóa Hà Nội trước
sự xâm lược của văn hóa phương Tây khiến con người bị tha hóa khủng
khiếp. Tiếp cận Hà Nội dưới cái nhìn hiện thực, tiêu biểu là truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Tô Hoài. Mỗi nhà văn có
cách tiếp cận về Hà Nội ở những khía cạnh khác nhau song tất cả đều hướng
đến phê phán hiện thực xã hội đương thời.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng dùng ngòi bút sắc sảo của mình để đả kích cái
xã hội Âu hóa hiện lên với tất cả sự lố bịch thông qua tiểu thuyết Số đỏ. Bằng
- Xem thêm -