GƯƠNG DANH NHÂN
Nguyễn Hiến Lê
Tên sách: Gương Danh Nhân
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê
Thể loại: Tâm lý - Giáo dục
Nhà xuất bản: Văn Hoá
Năm xuất: 2000
Khổ: 13x19 cm
--------------------Đánh máy (TVE): bobo, binhnx2000,
Okal, ngbichthuy, chụt
Sửa chính tả (TVE): rfidquyen,
tovanhung
Chuyển sang ebook (TVE) : tovanhung
Ngày hoàn thành: 16/9/2006
http://www.thuvien-ebook.com
TỰA
HEINRINCH SCHLIEMANN
QUẢN TRỌNG
BENJAMIN FRANKLIN
MAHATMA GANDHI
LÉON TOLSTOI
VƯƠNG DƯƠNG MINH
ABRAHAM LINCOLN
TỰA
Tôi ngờ rằng hết thảy các nhà lập
chương trình giáo dục hiện nay ở
phương Tây cũng như ở phương Đông sở
dĩ không bỏ bộ môn luân lý ở ban trung
học, là vì chưa nỡ lòng nào, chứ trong
thâm tâm thì không ông nào không nhận
rằng giờ luân lý ở trường học khó có
hiệu quả được lắm.
Có hiệu quả làm sao được kia chứ?
Một ông giáo nào đó, tư cách, nhân
phẩm ra sao không biết, mỗi tuần tới lớp
một giờ, bắt học sinh trả bài, rồi chép
bài về nhà học, hễ ai học thuộc thì được
nhiều điểm, rồi tan giờ ra, thầy trò
không liên can gì tới nhau cả, như vậy
mới gọi là đức dục thì thật là mỉa mai
quá lắm!
Bây giờ nhớ lại mười mấy năm cắp
sách tới trường, tôi học cả mấy trăm giờ
luân lý, mà không có giờ nào để lại cho
tôi được một chút ấn tượng, chứ đừng
nói là ảnh hưởng đến tâm hồn tôi nữa.
Đức dục của tôi hoàn toàn không do
những bài học luân lý ở nhà trường mà
do những tấm gương sáng của các người
thân. Vâng, đúng như vậy.
Tôi may mắn được sinh vào một gia
đình nghèo mà giữ được nền nếp. Ngày
nay tôi mới nghĩ vậy chứ hồi 15-16 tuổi,
thú thực là thấy bạn bè và anh em trong
họ, vì có cha làm ông thông, ông phán,
mà được ngồi xe nhà gọng đồng bóng
nhoáng, đi giày Gia Định, quấn “phu
la”, tôi cũng nhiều lúc hậm hực, tự hỏi
sao cha tôi lại gàn dở, không thèm làm
việc với Pháp để anh em chúng tôi phải
chịu biết bao điều thiếu thốn. Xin hương
hồn người tha cho tôi cái tội dại dột đó.
Người mất hồi tôi mới tám tuổi,
nhưng đã kịp khắc trong đầu não tôi một
lời khuyên cần học vì người đã săn sóc
sự học của chúng tôi một cách tận tâm và
cảm động. Tôi nhớ một lần người phải
nhịn tiêu một món để mua cho tôi cuốn
Nam Hải dị nhân. Hồi đó lương ông
phán chỉ có ba chục đồng mà cuốn đó tới
bốn hào, bằng hai trăm đồng bây giờ.
Một tấm gương sáng nữa là mẹ tôi.
Con một ông phú nhưng sa sút, người
phải buôn bán lặt vặt, nhẫn nại cần cù,
từ mờ sáng tới khuya để nuôi một mẹ già
và bốn con côi. Năm tôi đậu tiểu học, bà
con khuyên người cho tôi phá ngang, đi
làm giúp nhà, người không chịu, hy sinh
cho tôi học thêm tám năm nữa: Hỡi ơi!
Người nuôi tôi hai mươi bốn năm mà tôi
nuôi người không được hai mươi bốn
ngày!
Ở trường, tôi được soi cái gương
nghiêm cẩn của cụ Nguyễn Gia
[1]
Tường , hiện còn sống, và nhất là
gương quân tử của cụ Dương Quảng
Hàm. Cụ Dương rất khiêm tốn, hòa nhã,
giản dị, quanh năm đạp một chiếc xe máy
cũ từ Hàng Bông tới Trường Bưởi, bận
những bộ đồ vật, mốt tuy cũ nhưng bao
giờ cũng ủi kỹ và sạch sẽ, và suốt đời hễ
miệng thôi giảng bài thì tay cầm cuốn
sách hoặc cây viết.
[2]
Tôi cũng mang ơn ông C nguyên
hiệu trưởng trường cao đẳng công chính.
Đức ngay thẳng, quang minh chính đại
của ông thì chỉ những triết nhân La Ma
thời xưa mới sánh kịp. Tôi còn nhớ,
trước khi chúng tôi ra trường, ông hùng
hồn khuyên chúng tôi đạo liêm khiết, vì
ông thừa biết rằng nghề tham tá công
chính thời nào mà chẳng dễ làm cho con
người trụy lạc.
Còn những bạn bè tôi nữa chứ: Anh
Thiều và anh Nghiêm. Anh Thiều thông
minh mà “lơ mơ”, lúc nào cũng mỉm
cười bí mật, giữa năm thứ tư bỏ học, làm
thư ký ở ga Việt Trì, tổ chức một trạm
đưa đón các bạn đồng chí muốn xuất
ngoại hoặc hồi hương. Anh Nghiêm cao
lớn, hồng hào, học tầm thường mà đá
banh giỏi, nghỉ hè năm 1929 hay 1930
làm cho tôi sửng sốt. Anh giả trang thành
một thợ nề có đại tang, lặn lội tới thăm
tôi ở làng Phương Khê cùng với một
người bà con của tôi, ngủ với tôi một
đêm rồi sáng hôm sau ngược đường lén
qua Tàu.
Đó, chính những tấm gương sống đó
đã lãnh phần đức dục của tôi chứ không
phái là những bài học luân lý của các
giáo sư trung học.
Ở trường ra tiếp xúc với đời, có lẽ
tình cảm của tôi cũng nhụt đi vài phần,
nên ít khi xúc động mạnh như hồi nhỏ
mặc dầu đã gặp những tấm gương rất
rực rỡ. Nhưng tôi đã tìm thêm cảm xúc
trong văn học thế giới, nhất là trong tiểu
sử danh nhân, và tôi thấy rằng những
tiểu sử đó khi viết với một tấm lòng nhiệt
thành, thì bổ ích cho đức dục hơn hết
thảy các loại khác trong văn học.
Tôi yêu Nguyễn Công Trứ, một người
hào hùng mà khoáng đạt, tôi ngưỡng mộ
Phan Đình Phùng, một nhà nho mấy chục
năm lấy cái chết để giữ chữ tín, tôi khâm
phục Vương Dương Minh băn khoăn tìm
chân lý, khí hạo nhiên sáng rực ở trong
tâm...
Có lẽ vì sinh trong một gia đình Nho
học cho nên tôi thấy Thích Ca và Giê Su
cao quá, mà chỉ thích đọc tiểu sử Khổng
Tử.
Vị “vạn thế sư biểu” đó mới gần
chúng ta làm sao. Hăng hái, hoạt động,
nhũn nhặn, nghiêm trang mà ôn hoà, và
yêu đời, rất yêu đời! Ông không nhận
mình là ông thánh, bảo ai cũng có thể
làm thầy ông được cả, từ người hay tới
người dở. Mấy ai đã có được một tinh
thần như vậy?
Tâm hồn của ông rất nghệ sĩ: Ba
tháng say mê học nhạc Thiều, rồi về già,
san Kinh Thi, giữ lại hàng trăm bài hát
vô cùng tình tứ!
Đáng yêu nhất là nhà giáo đạo mạo
đó có óc trào phúng có lần tự ví mình với
con chó hoang, và ví cả đoàn thầy trò bơ
vơ ba năm từ Trần sang Thái với “một
bầy, không phải trâu, không phải cọp,
lang thang ngoài sa mạc”.
Và mối tình thầy trò của ông với
Nhan Hồi mới đẹp làm sao! Nhan Hồi
bảo: “Thầy còn đó, làm sao Hồi dám
chết!”. Khi Nhan Hồi chết, ông khóc rất
thảm thiết “Ôi! Trời hại ta! Trời hại
ta!”.
Đọc tiểu sử các danh nhân như các vị
đó, tôi thấy mê hơn đọc tiểu thuyết.
Nhiều tiểu thuyết hồi nhỏ ta ham mà lớn
lên ta chán. Tiểu sử danh nhân thì trái
lại, tuổi càng cao, càng thấy nghĩa lý,
càng rút được nhiều bài học về nhân sinh
quan. Và hôm nay đây, tôi vụng về chép
lại những điều đã đọc, tuy mục đích là để
giúp bạn trẻ, mà thâm ý cũng là mong
được gần gũi thêm cổ nhân, soi lại tấm
gương của cổ nhân một lần nữa.
Độc giả có thể trách tôi không chép
tiểu sử danh nhân nước nhà. Tôi xin
thưa: Những vị gần đây thì nhiều người
đã chép rồi, còn những vị ở thế kỷ trước
thì tôi thú thực không biết tài liệu ở đâu.
Đã từ lâu, tôi mong có cơ hội tra khảo
trong các thư viện về Nguyễn Công Trứ,
rồi tới những nơi đã lưu lại di tích để tìm
tòi, điều tra viết một cuốn như cuốn Life
and times of Su Tungpo (đời sống và
thời đại của Tô Đông Pha) của Lâm Ngữ
Đường, nhưng hai chục năm nay, cái
mộng nhỏ đó vẫn chưa thực hiện được.
Tôi cho rằng trong cái nghề cầm bút
sự may rủi chiếm một phần quan trọng,
có lẽ lớn hơn phần học thức và chí
hướng của tác giả. Nhà văn cũng gần
như một người tìm mỏ. Trong đời sống,
may mà gặp được những tài liệu quý giá
thì tức là đào được những mỏ vàng,
chẳng may thì phải dùng những tài liệu
tầm thường như vậy. Rừng sách vô cùng
mênh mông, phương pháp tìm kiếm chỉ
giúp ta được một phần nào thôi, huống
hồ nhiều khi biết chắc ở nơi nào đó có
tài liệu, mà không sao tới được, chỉ còn
cách tự an ủi và mừng giùm cho những
bạn đã may mắn hơn mình.
Cho nên trong bộ tiểu sử này, gần
như không có sự lựa chọn gì cả, sở dĩ tôi
chép đời nhà này mà không chép đời
khác chỉ là do kiếm được tài liệu.
Tôi đã gom những nhà có tài có đức
trong mọi giới vào cuốn thứ nhất, tức
cuốn này, các nhà bác học và phát minh
trong cuốn thứ nhì, hiện đã soạn xong.
Và tôi hy vọng sẽ tiếp tục hai cuốn nữa,
để lần lần lập một tủ sách thanh niên.
Sài Gòn, ngày mùng 1 tháng 2 năm
1958
HEINRINCH
SCHLIEMANN
Một người trong non 40 năm chỉ ước
ao được đào đất
Con người đó thực kỳ dị: sinh trưởng
ở Đức, định đi lính cho Hòa Lan, rồi nhập
tịch Huê Kỳ, làm giàu ở Nga, học ở Pháp,
nổi danh ở Hi Lạp, du lịch khắp phương
Tây và phương Đông, có lần ghé thăm Sài
Gòn, và thông trên một chục thứ tiếng, vừa
sinh ngữ, vừa cổ ngữ, từ tiếng Anh, tiếng
Pháp đến tiếng Hi Lạp, La Tinh, tiếng Ba
Lan, Á Rập…
Kỳ dị hơn nữa là ông nuôi một cái
mộng từ hồi tám tuổi, rồi quyết chí làm
giàu để có phương tiện thực hiện mộng đó,
và khi đã thành tỉ phú, tuổi đã gần năm
mươi, mà không chịu hưởng cảnh an nhàn
phú quý như người khác, ông đem tất cả
sản nghiệp, sinh lực ra để làm một việc mà
nhiều người cho là điên khùng, việc Đào
Đất. ông đào đất không phải là để tìm mỏ
đồng, mỏ sắt, mà chỉ để tìm một cổ tích,
tức di tích thành Troie, một thành ở bờ
biển Tiểu Á.
Rồi chẳng những ông tìm được di tích
thành Troie mà còn tìm được nhiều dấu vết
của một nền văn minh cổ - nền văn minh ở
[3]
miền biển Egée - do đó ông chép lại
cho nhân loại được nhiều trang cổ sử và
nổi danh là nhà khảo cổ bực nhất ở thế kỷ
trước. Những tìm tòi của ông và những
người nối gót ông đã giúp cho sử học có
tính cách khách quan hơn, khoa học hơn.
Về phương diện đó, công của ông với nhân
loại không kém công của Fustel de
Coulanges, vị sử gia Pháp đồng thời với
ông, người đã đặt nền tảng cho khoa sử
học hiện thời.
Đời của ông chia ra làm hai thời kỳ rõ
rệt:
- Thời kỳ dự bị, tức tuổi thơ và nhũng
năm buôn bán (từ năm 1822 đến năm
1867).
- Thời kỳ thực hành, tức thời ông đào
được những cổ tích ở Ithaque, Troie,
Mycenes và Tyrinthe (từ năm 1868 đến
năm ông mất 1890).
***
Đọc tiểu sử Heinrich Schliemann tôi
thấy rằng hoàn cảnh có ảnh hưởng lớn đến
tâm hồn, hành vi con người, nhưng con
người cũng phải có đủ khả năng để tiếp
nhận hoàn cảnh rồi sửa đổi, có khi tạo
thêm những hoàn cảnh mới nữa thì mới
làm được những việc lớn. Schliemann bẩm
sinh đã có tánh yêu thích cái gì bí mật kỳ
dị, cổ kính; nhờ sinh ở một miền nhiều cổ
tích, lại nhờ được thân phụ và một người
bạn gái khuyến khích, lòng yêu thích đó
phát triển mạnh mẽ thành một lòng ham mê
nồng nhiệt, nhưng muốn thỏa mãn lòng ham
mê đó, cần có hai phương tiện: học rộng
và có nhiều tiền, nên ông tạo ra những
phương tiện này bằng cách vừa kinh
doanh, vừa tự học. Vậy ông vừa được nhờ
- Xem thêm -