Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật việt nam luận văn ths. luật...

Tài liệu Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật việt nam luận văn ths. luật

.PDF
115
126
56

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM TUẤN ANH GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM TUẤN ANH GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƯƠNG Hà Nội – 2009 Mục lục Trang Lời cam đoan 3 Mục lục 4 Mở đầu 6 Chương 1. Khái luận về góp vốn thành lập công ty 10 1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của góp vốn thành lập công ty 10 1.1.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty 10 1.1.2. Bản chất pháp lý của góp vốn thành lập công ty 13 1.2. Hệ quả pháp lý của việc góp vốn thành lập công ty 15 1.2.1. Tạo lập ra một thực thể độc lập 15 1.2.2. Hệ quả đối với những người góp vốn 21 1.3. Hình thức và thủ tục thỏa thuận góp vốn 24 1.3.1. Hình thức thỏa thuận góp vốn 24 1.3.2. Thủ tục góp vốn thành lập công ty 27 1.4. Các hình thức của vốn góp thành lập công ty 31 1.4.1. Góp vốn bằng tiền 31 1.4.2. Góp vốn bằng hiện vật 33 1.4.3. Góp vốn bằng quyền sử dụng đất 37 1.4.4. Góp vốn bằng quyền hưởng dụng 43 1.4.5. Góp vốn bằng sản nghiệp thương mại 47 1.4.6. Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ 50 1.4.7. Góp vốn bằng tri thức 55 1.4.8. Góp vốn bằng công sức 57 1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn 59 Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công 64 ty 2.1. Cấu trúc và sự phát triển của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập 64 công ty 2.2. Quy định hiện hành của pháp luật việt nam về góp vốn thành lập công 72 ty và các khiếm khuyết 2.3. Nguyên nhân của những khiếm khuyết trong quy định của pháp luật 81 Việt Nam về góp vốn thành lập công ty Chương 3. Những kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật Việt 87 Nam về góp vốn thành lập công ty 3.1. Nhu cầu hoàn thiện 87 3.2. Phương hướng hoàn thiện 88 3.3. Kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện 91 Kết luận 107 Tài liệu tham khảo 110 PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Sự phát triển của khu vực kinh tư nhân và việc cải cách khu vực kinh tế nhà nước đã thúc đẩy mạnh mẽ việc thành lập công ty ở Việt Nam. Thành lập công ty với sự đảm bảo an toàn pháp lý cao đặc biệt là về vốn góp là mục tiêu quan trọng của pháp luật về doanh nghiệp. Tuy nhiên, góp vốn thành lập công ty là một vấn đề mang tính hai mặt. Một mặt, quy định của pháp luật phải đảm bảo an toàn vốn góp của người tham gia góp vốn thành lập công ty. Mặt khác, quy định của pháp luật phải đảm bảo lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch với công ty, đảm bảo lợi ích của công ty với tư cách là một chủ thể độc lập sau khi được thành lập. Thành lập công ty, trong đó một việc không thể thiếu là góp vốn có ảnh hưởng lớn tới không chỉ quyền lợi của các thành viên trong công ty mà còn ảnh hưởng tới hoạt động của công ty sau này. Mặc dù hiện nay pháp luật cho phép sự thoả thuận của các thành viên trong việc thoả thận góp vốn, xác định vốn góp. Tuy nhiên pháp luận cần có những dự liệu, những quy định để tạo cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các bên. Ngoài ra vấn đề góp vốn trong trường hợp các công ty thực tế. Pháp luật cũng cần có các quy định để giải quyết trong trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên. Vì thế khía cạnh pháp lý của vấn đề góp vốn thành lập công ty đang là một vấn đề thực tiễn đặt ra, đặc biệt là chúng ta đang cố gắng tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập với mong muốn thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tác giả chọn đề tài nêu trên để nghiên cứu vì những lý do sau đây: 8 1. Mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ những quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty. Nội dung mà tác giả hướng tới nghiên cứu bao gồm: các vấn đề lý luận về góp vốn thành lập công ty, các hình thức của vốn góp, thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty, những hạn chế và phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty. Hiện nay, thực tiễn về việc góp vốn thành lập công ty diễn ra rất phong phú và đang dạng. Có những trường hợp đang diễn ra trên thực tế mà pháp luật chưa dự liệu trước được. Trước những đòi hỏi của thực tiễn phải cố gắng trước hết hoàn thiện các quy định pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia thành lập công ty, cũng như những ảnh hưởng trong quá trình hoạt động của công ty sau này, trong đó có cả vấn đề giải quyết về vấn đề tài sản khi giải thể, phá sản công ty. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần vào việc thực hiện mục tiêu trên. 2. Hiện nay, việc áp dụng các hình thức vốn góp thành lập công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào hình thức của tài sản. Việc nghiên cứu các hạn chế trong quy định về hình thức vốn góp thành lập công ty một cách thấu đáo sẽ giúp khắc phục các hạn chế và đem lại hiệu quả thiết thực đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm giúp cho việc thành lập công ty được thuận lợi, thúc đẩy hoạt động kinh doanh. 3. Thông qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về các hình thức vốn góp thành lập công ty, việc góp vốn thành lập công ty trên thực tế và so sánh với quy định của pháp luật một số nước, sẽ giúp đưa ra những nhận xét và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh lĩnh vực này để không những có thể áp dụng được đối với việc góp vốn thành lập công ty trong nước mà còn áp dụng đối với việc góp vốn thành lập 9 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hoạt động đầu tư, bảo vệ được một cách hợp pháp quyền lợi của các bên trong thành lập công ty. II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sở lý luận về góp vốn thành lập công ty. Từ các quy định của pháp luật đến những vấn đề thực tế đang diễn ra và tham khảo các quy định của pháp luật một số quốc gia. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn cũng như đánh giá xu hướng diễn ra trên thực tế về góp vốn thành lập công ty. Qua đó nêu lên những kiến nghị để hoàn thiện các quy định về góp vốn thành lập công ty. III. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VẤN ĐỀ NÀY Ở VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA LÝ LUẬN CỦA ĐỀ Hiện này ở nước ta, ngoài một số bài báo đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề góp vốn thành lập công ty, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về vấn đề: góp vốn thành lập công ty. Trong xu thế phát triển của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay, có nhiều vấn đề đặt ra trong việc góp vốn thành lập công ty, nó đòi hỏi sự hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo sự an toàn về pháp lý cho những người đầu tư thành lập công ty. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, việc nghiên cứu sẽ đạt kết quả tốt. IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Tác giả sẽ sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp với nhiều phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống. 10 Với các lý do trên, luận văn bao gồm các nội dung cơ bản sau: Chương 1. KHÁI LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của góp vốn thành lập công ty 1.2. Hệ quả pháp lý của việc góp vốn thành lập công ty 1.3. Hình thức và thủ tục góp vốn 1.4. Các hình thức của vốn góp 1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 2.1. Cấu trúc và sự phát triển của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty 2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty và những khiếm khuyết 2.3. Nguyên nhân của những khiếm khuyết trong quy định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty Chương 3. NHỮNG KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 3.1. Nhu cầu hoàn thiện 3.2. Phương hướng hoàn thiện 3.3. Những kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập công ty 11 Chƣơng 1 KHÁI LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 1.1. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 1.1.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty Công ty ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử nhất định. Lịch sử phát triển của công ty gắn với lịch sử phát triển của hoạt động thương mại và sự phát triển của lực lượng sản xuất với những tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sự ra đời của công ty là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế hàng hoá. Theo quan niệm chung, có thể hiểu: Công ty kinh doanh là một thực thể kinh doanh được tạo lập trên cơ sở vốn góp của một hay nhiều người. Thông thường Công ty được chia làm 2 loại chính là Công ty đối nhân và Công ty đối vốn. Loại thứ nhất, Công ty đối nhân là công ty được thành lập trên cơ sở sự liên kết giữa những người có uy tín, quen biết và tin cậy lẫn nhau, yếu tố nhân thân được đề cao trong quá trình liên kết thành lập Công ty [18, tr.34]. Công ty đối nhân thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Đối với công ty hợp danh, các thành viên cùng tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của Công ty. Còn ở công ty hợp vốn đơn giản có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên nhận vốn), còn những thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong số vốn góp vào Công ty (thành viên góp vốn). Loại thứ hai, Công ty đối vốn là loại công ty mà những thành viên tham gia phải góp một phần vốn xác định tạo nên vốn, tài sản riêng của Công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. ở Công ty đối vốn yếu tố nhân thân của 12 người góp vốn thường ít được quan tâm mà vấn đề vốn góp được đề cao. Các thành viên Công ty đối vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của Công ty nghĩa là họ chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn mà họ góp vào Công ty [18, tr.34,35]. Các công ty đối vốn thông thường có công ty cổ phân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp vốn cổ phần. Nói chung ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các loại hình công ty đã ra đời từ rất sớm, các công ty thương mại đối nhân đầu tiên ra đời vào khoảng thế kỷ thứ XIII ở các thành phố lớn ở Châu Âu, sang thế kỷ XVII xuất hiện các công ty đối vốn. Ban đầu chúng được hình thành một cách tự nhiên xuất phát từ nhu cầu kinh doanh và lập hội của các thương gia sau đó Luật Công ty đã ra đời để ghi nhận và điều chỉnh hoạt động của các loại hình công ty nhằm đảm bảo an toàn cho quá trình kinh doanh. Hiện nay, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, ở Việt Nam có 3 hình thức Công ty là Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn (gồm 2 loại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên) và Công ty hợp danh. Sự phát triển của công ty trước tiên xuất phát từ nhu cầu tự nhiên. Ban đầu các thương nhân hoạt động kinh doanh đơn lẻ, nhưng với sự phát triển và mở rộng của hoạt động thương mại và sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt đòi hỏi các thương nhân phải có sự liên kết hùn vốn với nhau để kinh doanh nhằm tăng sức cạnh tranh và mở rộng hoạt động kinh doanh. Hoạt động thương mại phát triển đòi hỏi các thương gia phải có sự liên kết hùn vốn với nhau để buôn bán. Việc tích lũy vốn, “hùn vốn”, “gom vốn” cho hoạt động kinh doanh đã thúc đẩy các nhà tư bản phải tìm đến những hình thức tổ chức kinh doanh mới. Sự góp vốn theo hình thức công ty chính là đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế. Hơn nữa, nền kinh tế ngày càng phát triển thì 13 càng có nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh doanh mới ra đời, tạo ra những cơ hội và khả năng thu hút nhà đầu tư gặp gỡ hợp tác kinh doanh với nhau trên cơ sở góp vốn thành lập một thực thể kinh doanh - đó chính là công ty. Như vậy, góp vốn trước hết là nhu cầu tự nhiên để phục vụ hoạt động kinh doanh của một nhóm người. Sau đó, mới tạo nên một thực thể mới là công ty. Khi pháp luật có sự điều chỉnh đối với việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty, thì công ty phải được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật. Công ty trở thành một thực thể pháp lý, mang các quyền và nghĩa vụ pháp lý do pháp luật quy định. Sự quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty trong đó có việc góp vốn thành lập công ty đã đưa việc góp vốn thành lập công ty từ quan hệ xã hội trở thành quan hệ pháp luật với sự điều chỉnh của pháp luật về góp vốn thành lập công ty. Vậy, góp vốn thành lập công ty ban đầu xuất phát từ nhu cầu tự nhiên của các thương gia mang tính riêng lẻ, sau đó được pháp luật về công ty quy định chung cho hoạt động góp vốn thành lập công ty trong một cộng đồng chính trị nhất định. Vậy góp vốn thành lập công ty là gì? Theo Bộ luật dân sự của nước cộng hoà Pháp, công ty do hai hay nhiều người thành lập trên cơ sở thỏa thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp, sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi Trong những trường hợp do pháp luật quy định, công ty có thể do một người thành lập. Các thành viên công ty cam kết cùng chịu lỗ. [Điều 1832] 14 Như vậy, có thể hiểu góp vốn thành lập công ty là việc một hay nhiều người đóng góp tài sản, tri thức hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty nhằm thu lợi hoặc chia lãi. Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005, Điều 4, khoản 4 “Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty.” Góp vốn theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sử hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Quy định của pháp luật Việt Nam mới chỉ đề cập đến việc góp vốn bằng tài sản và liệt kê các loại tài sản được góp vốn. Sự liệt kê thì không thể tránh khỏi sự không đầy đủ, do vậy Luật Doanh nghiệp 2005 đã mở ra cho phép các chủ thể có thể thỏa thuận xác định những loại tài sản khác được góp vốn. Qua các phân tích trên có thể hiểu theo nghĩa chung nhất, Góp vốn thành lập công ty là việc tạo lập ra công ty thông qua việc chuyển giao tài sản, tri thức hoặc công sức của người góp vốn để hình thành vốn của công ty. 1.1.2. Bản chất pháp lý của góp vốn thành lập công ty Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý. Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay một thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là hành vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó góp vốn cũng được hiểu theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm góp vốn từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý. Nếu như xét từ phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho công ty nhằm bảo đảm cho những chi phí trong hoạt động của công ty và bảo 15 đảm quyền lợi cho các chủ nợ. Khi góp tài sản vào công ty, thì tài sản đó trở thành đối tượng sở hữu của công ty bởi hợp đồng thành lập công ty đã tạo ra một thực thể tách biệt có sản nghiệp riêng. Mỗi thành viên của công ty có được từ hành vi góp vốn này một quyền lợi đối với công ty tương ứng với phần vốn góp của mình xét theo lẽ thông thường. Tuy nhiên, các quyền lợi và nghĩa vụ của thành viên còn phụ thuộc vào các quy định của hợp đồng thành lập hay điều lệ của công ty hoặc pháp luật. Xét từ phương diện pháp lý, thì góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản hay đưa tài sản vào sử dụng để đổi lấy quyền lợi đối với công ty. Hành vi đổi lấy quyền lợi này khác với hành vi mua bán hay hành vi cho thuê tài sản ở chỗ: trong hành vi mua bán hay cho thuê, khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay quyền sử dụng tài sản, thì người chuyển giao có được một quyền lợi là được nhận một khoản tiền từ giá bán hay giá thuê; còn trong hành vi góp vốn, khi chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài sản cho công ty, thì người góp vốn không nhận được bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao đó, mà thay vào đó là nhận được một quyền lợi trong công ty có giá trị tương ứng với phần vốn góp. Quan niệm góp vốn theo phương diện pháp lý đặt ra hai vấn đề lớn cần tìm hiểu. Đó là hình thức góp vốn và quyền lợi có được từ việc góp vốn. Trong thực tiễn có nhiều hình thức góp vốn. Nếu căn cứ vào chủ thể quyền sở hữu đối với tài sản đem góp vốn thì có góp vốn bằng quyền sở hữu và góp vốn bằng quyền hưởng dụng. Nếu căn cứ vào tính chất của tài sản thì có thể có cách thức góp vốn bằng tài sản giá trị, bằng tài sản hiện vật, bản quyền sở hữu công nghiệp, góp vốn bằng tri thức, góp vốn bằng công sức. Chính xuất phát từ sự đa dạng của hình thức góp vốn mà đòi hỏi sự điều chỉnh cách thức tiến hành quan hệ chuyển dịch vốn góp vào công ty cũng đa dạng và phải phù hợp với từng hình thức cụ thể. Các thành viên phải lựa 16 chọn hình thức góp vốn cụ thể không trái với quy định của pháp luật và được ghi tại hợp đồng thành lập công ty. Nếu đối tượng góp vốn là tài sản thì người góp vốn phải là chủ sở hữu khối tài sản góp vốn. Thông qua hành vi chuyển dịch, tài sản từ phần vốn góp trở thành tài sản của công ty. Công ty trở thành chủ sở hữu vật quyền, còn thành viên trở thành chủ sở hữu trái quyền đối với phần góp vốn, theo đó thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm về thực trạng tài sản của mình đúng như cam kết, phải chịu trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ cam kết và thực hiện thủ tục chuyển dịch, tùy theo tính chất của mỗi loại tài sản khác nhau. 1.2. HỆ QUẢ CỦA VIỆC GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 1.2.1. Tạo lập ra một thực thể độc lập Công ty được thành lập trên cơ sở sự góp vốn của một hoặc nhiều người. Vậy, vấn đề đặt ra là công ty với tư cách là một thực thể pháp lý, một thực thể kinh doanh mới có sự độc lập như thế nào đối với các thành viên đã góp vốn để tạo lập nên công ty. Các quy tắc liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty có thể không đủ để chi phối các quan hệ phát sinh từ sự hình thành công ty có tổ chức. Bởi vì, một mặt, nếu giữa lợi ích riêng và lợi ích chung có sự mâu thuẫn, thì thành viên luôn cớ thiên hướng hy sinh lợi ích cung để bảo vệ lợi ích riêng; mặt khác, thời gian tồn tại của công ty có thể lâu hơn thời gian tồn tại của các thành viên. Chính vì vậy, để bảo vệ tốt lợi ích của công ty cũng như lợi ích của người thứ ba có quan hệ với công ty, cần công nhận sự tồn tại độc lập của công ty so với các thành viên. Luật đáp ứng yêu cầu đó bằng cách thừa nhận cho công ty có tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật. Công ty coi như có nhân thân riêng của mình, phân biệt với nhân thân của từng thành viên. Được 17 nhân cách hóa, công ty có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Như một con người trừu tượng, công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ thể được bố trí vào các cơ quan của công ty, gọi là các cơ quan quản trị, điều hành và kiểm soát hoạt động của công ty. Sau khi được thành lập, công ty có khối tài sản riêng, bao gồm các tài sản có riêng và các tài sản nợ riêng. Công ty chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của mình bằng các tài sản có của mình. Tài sản của công ty độc lập với khối tài sản của mỗi thành viên: các chủ nợ của thành viên không có quyền yêu cầu kê biên và bán tài sản của công ty để thực hiện nghĩa vụ riêng của thành viên; ngược lại các chủ nợ của công ty không có quyền yêu cầu kê biên và bán tài sản của thành viên để thực hiện các nghĩa vụ của công ty. Trong quan hệ giữa công ty và thành viên của công ty, các tài sản của công ty không phải thuộc sở hữu chung của các thành viên công ty: công ty có tài sản riêng của mình, còn các thành viên khi góp vốn vào công ty thì được hưởng các quyền từ việc góp vốn đó. Công ty được thành lập trên cơ sở sự góp vốn của các thành viên. Công ty được coi là một thực thể được pháp luật thừa nhận kể từ khi nó được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì công ty được tiến hành hoạt động với tư cách là một chủ thể độc lập kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nghĩa là công ty có năng lực pháp luật kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Khác với năng lực pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của công ty do luật xác định về nội dung. Chắc chắn, công ty không thể có các quyền và nghĩa vụ đặc 18 thù của cá nhân, như quyền kết hôn, quyền nhận cha, mẹ cho con, quyền nuôi con nuôi... Mỗi công ty có những mục đích xác định để theo đuổi và, do đó, có khả năng có những quyền và nghĩa vụ giới hạn bởi chính các mục đích đó. Ví dụ: Công ty A đăng ký kinh doanh về sản xuất, lắp giáp, mua bán máy vi tính thì công ty A được quyền kinh doanh trong các ngành nghề đó mà không được quyền kinh doanh các ngành nghề chưa đăng ký. Hay công ty trách nhiệm hữu hạn thì không có năng lực phát hành cổ phiếu;... Công ty không có năng lực hành vi thực. Suy cho cùng, khái niệm năng lực hành vi của công ty không thể được xây dựng như một khái niệm ứng dụng được. Công ty, dù được nhân cách hoá, không phải là con người cụ thể và do đó, không thể tự mình xử sự. Ngay cả các cơ quan của công ty cũng chỉ vận hành thông qua vai trò của những cá nhân cụ thể đảm nhận các chức vụ cụ thể. Suy cho cùng, công ty luôn phải được đại diện, từ khi được thành lập cho đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực hành vi của công ty thực ra là năng lực hành vi mà công ty vay mượn của những con người mà công ty hoá thân vào. Công ty được thành lập theo ý chí của các chủ thể có quyền và nghĩa vụ được luật thừa nhận. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, các chủ thể khi thành lập công ty phải đăng ký kinh doanh cho công ty, việc đăng ký kinh doanh khi thành lập công ty được thực hiện theo trình tự sau: Thứ nhất, người thành lập công ty nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh. Thứ hai, cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời 19 hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung. Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không được yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ khác không quy định tại Luật Doanh nghiệp. Sau khi được thành lập, với tư cách là một chủ thể pháp lý độc lập, công ty có các quyền và nghĩa vụ độc lập với các thành viên đã thành lập ra công ty. Luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 2005 tại Điều 8 quy định rõ các quyền của công ty bao gồm: Thứ nhất, quyền tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; Thứ hai, quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn; Thứ ba, quyền chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; Thứ tư, quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; Thứ năm, quyền tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh; Thứ sáu, quyền tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ; chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp; Thứ bảy, quyền từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định; Thứ tám, quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật; Và các quyền khác theo quy định của pháp luật. 20 Về nghĩa vụ của công ty, Luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 2005 cũng quy định cụ thể nghĩa vụ của công ty bao gồm: Thứ nhất, hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; Thứ hai, tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán; Thứ ba, đăng ký mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; Thứ tư, bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm; Thứ năm, bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc công bố; Thứ sáu, thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê; định kỳ báo cáo đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó; Thứ bảy, tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh; Và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Công ty có cơ cấu tổ chức riêng. Để ngăn ngừa sự lạm quyền của một hoặc một nhóm cá nhân trong việc điều hành công ty cũng như để thực hiện các hoạt động của công ty việc tổ chức công ty thành nhiều cơ quan tỏ ra cần thiết. Việc tổ chức các cơ quan của công ty được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Điều lệ của công ty phải có hình thức và nội dung phù hợp với các quy định của pháp luật áp dụng đối với từng loại 21 công ty. Điều lệ của công ty, một khi được xây dựng và thông qua đúng luật, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với tất cả thành viên của công ty. Không chấp nhận điều lệ, thành viên chỉ có mỗi cách xử sự đúng luật là xin ra khỏi công ty. Điều lệ hợp pháp của công ty cũng có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Một cách tổng quát, công ty có hai nhóm cơ quan chính: cơ quan quyết nghị và cơ quan chấp hành. Công ty có quy mô tổ chức lớn còn có thêm cơ quan kiểm soát. Cơ quan quyết nghị của công ty: là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của pháp nhân và có cả khả năng định đoạt số phận pháp lý của pháp nhân (sáp nhập, giải thể,..). Cơ quan này được tổ chức dưới hình thức đại hội thành viên. Cơ quan chấp hành của công ty: là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện các quyết định của cơ quan quyết nghị, đồng thời đảm nhận việc quản lý đối với các công việc hàng ngày của công ty, kể cả việc đại diện cho công ty trong quan hệ với người thứ ba. Cơ quan chấp hành có thể mang những tên gọi khác nhau: ban giám đốc, hội đồng quản trị, ban quản lý,... Bằng hoạt động của mình, cơ quan chấp hành ràng buộc trách nhiệm của công ty đối với những giao dịch mà cơ quan chấp hành xác lập và thực hiện nhân danh công ty và trong giới hạn quyền và nhiệm vụ được giao. Cơ quan kiểm soát: là cơ quan có trách nhiệm bảo đảm tính hợp pháp của các hoạt động của công ty. Thông qua hoạt động kiểm soát, cơ quan này đánh giá chất lượng pháp lý của sự vận hành của công ty cũng như của các giao dịch mà công ty xác lập với người thứ ba. Công ty có nhân thân riêng của mình bao gồm: quốc tịch, tên gọi, trụ sở, uy tín thương hiệu. 22 Về tên của công ty, công ty phải có tên gọi riêng và phải sử dụng tên gọi của mình trong các giao dịch. Tên gọi của công ty theo pháp luật Việt Nam phải bằng tiếng Việt, thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân và phân biệt với các công ty khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động, ví dụ: công ty cổ phần Bảo Việt, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu,... Công ty có thể sử dụng tên gọi tắt hoặc tên gọi bằng tiếng nước ngoài trong các hoạt động trao đổi thông tin hoặc trong quan hệ giao tế. Tên gọi của công ty là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Tên thương mại còn có giá trị tài sản, có thể được chuyển nhượng và được bảo hộ theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, việc lựa chọn tên gọi của công ty không tự do như việc đặt tên cho một cá nhân. Về trụ sở của công ty, công ty có trụ sở tại nơi đặt cơ quan điều hành của mình, dù có thể toàn bộ hoặc một phần lớn hoạt động của công ty được thực hiện ở nơi khác. Trụ sở của công ty, trong chừng mực nào đó, mang ý nghĩa đối với công ty (và đối với người giao dịch với công ty) như nơi cư trú của cá nhân: nếu công ty là bị đơn trong một vụ tranh chấp liên quan đến động sản, thì Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, trên nguyên tắc, là Toà án nơi có trụ sở của công ty... Về quốc tịch của công ty. Cũng như cá nhân, công ty có quốc tịch riêng. Tất cả các công ty có trụ sở tại Việt Nam, trên nguyên tắc là công ty Việt Nam. Về uy tín thương hiệu của công ty, với tư cách là một chủ thể của quan hệ xã hội, công ty có thương hiệu, uy tín của riêng mình, độc lập với uy tín, danh dự của cá nhân thành viên. Uy tín, thương hiệu của công ty hình thành trong quá trình hoạt động của công ty nhằm vươn tới mục đích của mình và được củng cố bằng hiệu quả hoạt động của công ty. 23
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan