ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
__________________________________________________________
NGUYỄN VIẾT CƯỜNG
GỐM HOA LAM VIỆT NAM TRÊN
TÀU ĐẮM CỔ CÙ LAO CHÀM (QUẢNG NAM)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Khảo cổ học
Hà Nội–2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________________________________
NGUYỄN VIẾT CƯỜNG
GỐM HOA LAM VIỆT NAM TRÊN
TÀU ĐẮM CỔ CÙ LAO CHÀM (QUẢNG NAM)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khảo cổ học
Mã số: 602260
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Chiến
Hà Nội–2013
2
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
3
MỞ ĐẦU
4
Chương 1. QUÁ TRÌNH PHÁT HIỆN VÀ KHAI QUẬT TÀU
ĐẮM CỔ CÙ LAO CHÀM
11
1.1. Vài nét về lịch sử, địa lý Hội An – Cù Lao Chàm
11
1.2. Quá trình phát hiện và nghiên cứu tàu đắm cổ Cù Lao
Chàm
12
1.3. Quá trình thăm dò, khảo sát tàu đắm cổ Cù Lao Chàm
15
1.4. Quá trình khai quật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm
16
1.5. Tiểu kết chương 1
25
Chương 2. CÁC LOẠI HÌNH GỐM HOA LAM VIỆT NAM
TRÊN TÀU ĐẮM CỔ CÙ LAO CHÀM
2.1. Vài nét về việc nghiên cứu gốm hoa lam ở Việt Nam
27
27
2.2. Các loại hình gốm hoa lam Việt Nam trên tàu đắm cổ Cù
Lao Chàm
28
2.3. Tiểu kết Chương 2
58
Chương 3. CHẤT LIỆU VÀ KỸ THUẬT SẢN XUẤT GỐM HOA
LAM VIỆT NAM TRÊN TÀU ĐẮM CỔ CÙ LAO CHÀM
60
3.1. Chất liệu
62
3.2. Men gốm
64
3.3. Kỹ thuật sản xuất
65
3.4. Tiểu kết chương 3
75
4
Chương 4. HOA VĂN TRANG TRÍ TRÊN GỐM HOA LAM
VIỆT NAM TÀU ĐẮM CỔ CÙ LAO CHÀM
78
4.1. Hình tượng con người
78
4.2. Đề tài phong cảnh
81
4.3. Đề tài linh vật
81
4.4. Đề tài động vật
84
4.5. Động vật thủy sinh
87
4.6. Côn trùng
87
4.7. Đề tài hoa lá, cây cối
87
4.8. Các loại đề tài khác
89
4.9. Tiểu kết Chương 4
89
KẾT LUẬN
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
98
PHỤ LỤC
104
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BA:
Bản ảnh
BV:
Bản vẽ
BVHTT:
Bộ Văn hóa - Thông tin
C:
Chiều cao
Cm:
Xăng ti mét
D:
Dài
Đkm:
Đường kính miệng
Ed:
Editor
KCH:
Khảo cổ học
KHXH:
Khoa học Xã hội
NPHMVKCH:
Những phát hiện mới về khảo cổ học
No:
Number
Nxb:
Nhà xuất bản
Pg:
Pages
PL:
Phụ lục
TBKH:
Thông báo khoa học
Tr:
Trang
Vol:
Volume
6
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Tàu đắm cổ Cù Lao Chàm được ngư dân phát hiện từ năm 1994 và được
khảo sát khai quật trong những năm 1997 – 1999. Kết quả đã trục vớt được 244.500
hiện vật, trong đó chủ yếu là hàng hóa đồ gốm Việt Nam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Sưu
tập đồ gốm Việt Nam trong tàu cổ Cù Lao Chàm thuộc các dòng gốm hoa lam , gốm
hoa lam kết hợp vẽ nhiều màu trên men, gốm men ngọc, gốm men màu xanh dương
sẫm, gốm men trắng mỏng văn in, gốm men nâu, gốm sành, trong đó gốm hoa lam
chiếm số lượng nhiều hơn cả.
Đồ gốm hoa lam trên tàu đắm cổ Cù Lao Chàm có loại hình rất phong phú
với nhiều đề tài hoa văn trang trí mới lạ, đẹp mắt, lần đầu tiên được biết tới. Vì vậy,
có thể xem đây là sưu tập chuẩn để so sánh, giám định cho nhiều đồ gốm Việt Nam
khác có kiểu dáng và hoa văn tương đồng.
Nghiên cứu sưu tập gốm hoa lam này sẽ đóng góp nguồn tư liệu quan trọng
vào việc nhận thức về lịch sử đồ gốm hoa lam Việt Nam thế kỷ 15 nói riêng và dòng
gố m hoa lam Viê ̣t Nam nói chung trong li ̣ ch sử phát triể n nhiề u thế kỷ của dòng
gố m này.
Với mô ̣t số lươ ̣ng đồ sô ̣ đươ ̣c tim
̀ thấ y , viê ̣c nghiên cứu gố m hoa lam tàu cổ
Cù Lao Chàm còn góp phần tìm hiểu phong cách , kỹ thuật và nghệ thuật của từng
trung tâm sản xu ất gốm Việt Nam ở thời điểm phát triển rực rỡ nhất của nó
, dưới
thời Lê Sơ.
Trên cơ sở thống kê, phân loại, khảo tả những tiêu bản điển hình trong sưu
tập hiện vật gốm hoa lam Việt Nam này, góp phần rút ra những đặc trưng cơ bản
của từng loại hình hiện vật đó.
7
Đi sâu nghiên cứu các đặc trưng của sưu tập gốm hoa lam Việt Nam trên tàu
đắm cổ Cù Lao Chàm góp phần tìm hiểu về các lò gốm cổ, về gốm hoa lam phát
hiện ở các di chỉ khảo cổ khác.
Nghiên cứu sưu tập gốm hoa lam Việt Nam trên tàu đắm cổ Cù Lao Chàm
còn góp phần tìm hiểu con đường giao thương quốc tế trên biển Việt Nam trong lịch
sử thông qua tài liệu gốm.
Như vậy, dưới góc độ khoa học và thực tiễn, nghiên cứu sưu tập đồ gốm hoa
lam Việt Nam trên tàu đắm cổ Cù Lao Chàm là một yêu cầu cấp thiết của khảo cổ
học Việt Nam, phù hợp với mã số chuyên ngành khảo cổ học.
Kết quả và những đóng góp của luận văn:
- Thống kê, phân loại và khảo tả đầy đủ về các loại hình, chất liệu và kỹ thuật
sản xuất, hoa văn trang trí của sưu tập gốm hoa lam tàu đắm cổ Cù Lao Chàm, góp
phần cung cấp cho các nhà nghiên cứu những tư liệu chi tiết về sưu tập.
- So sánh với các hiện vật khai quật thuộc các di tích khác ở Hải Dương
,
Hoàng thành Thăng Long, Bát Tràng (Hà Nội), Lam Kinh (Thanh Hóa)... để có thể
xác địn h nguồn gốc xuấ t xứ của các hiện vật
- hàng hóa trên tàu đắm cổ Cù Lao
Chàm.
- Bước đầu xác định những giá trị lịch sử - văn hóa của sưu tập gốm hoa lam
thời Lê Sơ khai quật trong tàu đắm cổ Cù Lao Chàm , qua đó, góp phần bổ sung tư
liê ̣u nhâ ̣n thức về gố m hoa lam vố n còn it́ ỏi do những phát hiê ̣n về loa ̣i gố m này
còn nghèo nàn từ khi xưa đến những năm cuối thế kỷ 20. Đây cũng là nguồ n tài liê ̣u
phong phú duy nhấ t hiê ̣n biế t để tìm hiể u gố m thương ma ̣i Viê ̣t Nam thế kỷ 15.
Là người được giao nhiệm vụ trực tiếp tham gia khai quật và xử lý phân loại
hiện vật của tàu đắm cổ Cù Lao Chàm (1997 – 1999), nên tôi có nhiều thời gian tiế p
xúc với sưu tập này , theo đó , cũng có nhiều cơ hội trao đổi , thảo luận với các nhà
nghiên cứu ở trong và ngoài nước , trang bi ̣thêm kiế n thức cho miǹ h về gố m sứ nói
8
chung và gố m hoa lam nói riêng. Vì lẽ đó, tôi ma ̣nh da ̣n cho ̣n đề tài “Gốm hoa lam
Việt Nam trên tàu đắm cổ Cù Lao Chàm (Quảng Nam)” làm luận văn tốt
nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ những năm 1980, các di chỉ gốm ở Chu Đậu (Hải Dương) được phát hiện
và khai quật đã tạo nên sự chú ý của các học giả trong và ngoài nước về gốm hoa
lam Việt Nam thời Lê Sơ. Đặc biệt, từ năm 1997 đến năm 1999, việc phát hiện và
khai quật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm đã mang lại một khối lượng lớn tài liệu hiện vật
gốm chưa từng có.
Sưu tâ ̣p gố m men trên tàu đắm cổ Cù Lao Chàm
phong phú , đã thu hút sự quan tâm đă ̣c biê ̣t của các nhà
, với số lươ ̣ng đồ sô ̣ và
nghiên cứu . Công trình
nghiên cứu đầ u tiên phải kể đế n là “Báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học dưới
nước tàu đắm cổ Cù Lao Chàm (Hội An - Quảng Nam) năm 1997 – 1999” [48].
Trong đó, phầ n gố m hoa lam , dù là chủ yếu , nhưng cũng chỉ đươ ̣c đề cập tới trong
chừng mực nhất định. Ngoài ra, hàng loạt những bài viết và ấn phẩm đã được công
bố [19, 23, 24, 52], nhưng cũng chỉ là những nhâ ̣n đinh
̣ về niên đa ̣i của sưu tâ ̣p này
hoă ̣c là những đánh giá khái quát về giá t rị phong phú, đa da ̣ng của gố m tàu đắm cổ
Cù Lao Chàm trong phức hợp gốm Việt Nam nói chung được biết trước đó.
Đồ gố m tàu đắm cổ Cù Lao Chàm còn nhâ ̣n đươ ̣c sự quan tâm của nhiề u nhà
nghiên cứu, dưới góc đô ̣ khảo sát thôn g qua mô ̣t bô ̣ sưu tâ ̣p đươ ̣c lưu giữ và phát
huy ta ̣i Bảo tàng Lich
̣ sử Viê ̣t Nam (nay là Bảo tàng Lich
̣ sử quố c gia ) sau khi đươ ̣c
phân chia cho 5 bảo tàng (theo đó , không tránh khỏi những sự thiế u đầ y đủ và tro ̣n
vẹn [19, 23, 24]. Nghiên cứu mang tính chuyên sâu hơn và chi tiế t hơn về gố m Cù
Lao Chàm, phải kể đến những bài viết của các tác giả Nguyễn Đình Chiến [12, 15],
Phạm Quốc Quân [15, 43, 46] và Hà Văn Cẩn [6, 7, 8] – đó là sự đánh giá về những
giá trị độc bản của đồ gốm . Đặc biệt là những tiêu bản gốm hoa lam và phong cách
hô ̣i ho ̣a của đồ gố m hoa lam trên tàu đẳm cổ Cù Lao Chàm , đã gơ ̣i mở nhiề u vấ n đề
9
hơn, cầ n sự quan tâm hơn , đă ̣c biê ̣t hơn về phong cách và đề tài trang trí gốm hoa
lam.
Với những gơ ̣i mở ấ y , đề tài luận văn thạc sĩ văn hóa học đã được thực hiện :
“Những giá tri ̣ li ̣ch sử văn hóa của sưu tập đồ gố m sứ trong con tàu cổ phát hiê ̣n ở
Cù Lao Chàm (hiê ̣n lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam )” của tác giả Đào Lê
Quế Hương đã đươ ̣c bảo vê ̣ năm 2007 [31]. Đây cũng có thể coi là công triǹ h giới
thiệu khá đầ y đủ về gố m của tàu đắm cổ Cù Lao Chàm . Tuy nhiên, do những hoàn
cảnh khách quan và chủ quan, tác giả chỉ tiếp xúc được với duy nhất bộ sưu tập tạ i
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam , và sự quan tâm của luận văn này là giá trị lịch sử văn
hóa, theo đó , đố i tươ ̣ng nghiên cứu bao gồ m tấ t cả đồ gố m sứ có xuấ t xứ và nguồn
gố c khác nhau để giải quyế t các vấ n đề chung và rô ̣ng của luâ ̣n văn đă ̣t ra.
Mô ̣t đề tài luâ ̣n văn tha ̣c si ̃ văn hóa ho ̣c khác của tác giả Nguyễn Quố c Hữu
mang tựa đề “Trang trí hoa văn trên đồ gố m men thời Lê Sơ (1428 – 1527)” cũng
đã đươ ̣c bảo vê ̣ năm 2008 [32]. Trong đề tài luâ ̣n văn này , nguồ n tư liê ̣u chiń h cũng
đươ ̣c nghiên cứu trên cơ sở tham khảo sưu tâ ̣p gố m sứ khai quâ ̣t từ tàu đắm cổ Cù
Lao Chàm để đi vào khảo tả về các đề tài hoa văn trang trí trên đồ gố m men thời Lê
Sơ nói chung . Tuy nhiên, trong luâ ̣n văn của mình tác giả chỉ khai thác mô ̣t cách
khái quát về những loại hình sản phẩm chính của đồ gốm sứ tàu cổ Cù Lao Chàm
và đặc biệt chưa phân tíc h và chỉ ra đươ ̣c rõ từng loa ̣i hiǹ h gố m hoa lam khai quâ ̣t
đươ ̣c trong con tàu cổ , cùng chất liệu và kỹ thuật chế tạo gốm.
Năm 2005, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất bản cuốn sách “Gố m sứ trong
năm con tàu cổ ở vùng biể n Viê ̣t Nam ” [15] của 2 tác giả Nguyễn Đình Chiến và
Phạm Quốc Quân . Đến năm 2008, trên cơ sở cuộc trưng bày phối hợp giữa Bảo
tàng Khu tự trị Dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây – Trung Quố c và Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam đã xuất bản cuố n sách “ Kho báu từ con đường tơ lụa trên biển – đồ gố m
sứ khai quật từ những con tàu đắ m dưới đáy biển Viê ̣t Nam ” [2]. Đây là hai cuốn
10
sách giới thiệu tương đối đầy đủ về một số loại hình đồ gốm trong tàu đắm cổ Cù
Lao Chàm. Trong cả hai cuố n sách, các tác giả trình bày đồ gốm tàu đắm cổ Cù Lao
Chàm đậm đặc nhất và gốm hoa lam Việt Nam được đặc biệt lưu tâm . Tuy nhiên, số
lươ ̣ng hiê ̣n vâ ̣t nhiề u mà mu ̣c đích của cuố n sách là giới thiê ̣u những tiêu b
ản đặc
sắ c dưới da ̣ng catalo gue để phu ̣c vu ̣ cho đô ̣c giả và khách tham quan , do vâ ̣y, phầ n
khảo cứu không thật sự là mục tiêu của những ấn phẩm này.
Ngoài ra, một cuốn sách viết về quá trình khai quật khảo cổ học tàu đắm cổ
Cù Lao Chàm dưới dạng bút ký khảo cổ học củ a tác giả Frank Pope cũng đã được
xuất bản vào năm 2007 mang tựa đề “Dragon Sea – A true tale of treasure,
archeology, and greed off the coast of Vietnam” [78].
Điể m qua tình hình nghiên cứu của gố m nói chung , gố m sứ trong tàu cổ Cù
Lao Chàm nói riêng, để thấy rằng , gố m hoa lam trong con tàu này chưa mấ y đươ ̣c
quan tâm mô ̣t cách đầ y đủ của những nhà nghiên cứu đi trước. Chính vì lẽ đó, tôi đã
chọn gốm hoa lam làm đối tượng và mang tính chuyên khảo, thiế t nghi,̃ phầ n nào sẽ
có những đóng góp trong công cuộc tiếp tục nghiên cứu sưu tập này , bổ sung thêm
tư liê ̣u và nhâ ̣n thức về gố m Viê ̣t Nam thế kỷ 15, đă ̣c biê ̣t là gố m xuấ t khẩ u.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các tài
liệu, hiện vật gốm hoa lam trong tàu đắm cổ Cù Lao Chàm. Ngoài ra, luận văn còn
đề cập đến các hiện vật gốm hoa lam kết hợp vẽ nhiều màu và vàng kim. Đồng thời,
luận văn còn tham khảo một số hiện vật gốm hoa lam mới khai quật ở khu vực Hải
Dương, Hoàng thành Thăng Long, Bát Tràng (Hà Nội), Lam Kinh (Thanh Hóa) và
nguồn tài liệu gốm hoa lam Việt Nam thời Lê Sơ công bố ở nước ngoài để làm tư
liệu so sánh, đối chiếu.
Phạm vi nghiên cứu: Mục tiêu cơ bản luận văn cần giải quyết là tìm hiểu loại
hình, chất liệu và kỹ thuật sản xuất, hoa văn trang trí của sưu tập gốm hoa lam Việt
11
Nam trên tàu đắm cổ Cù Lao Chàm. Để giải quyết tốt mục tiêu này, cần phải đi sâu
nghiên cứu các vấn đề sau:
- Các loại hình đồ gốm hoa lam trong sưu tập hiện vật tàu đắm cổ Cù Lao
Chàm.
- Chất liệu và kỹ thuật sản xuất của đồ gốm hoa lam trong sưu tập hiện vật
tàu đắm cổ Cù Lao Chàm.
- Các đề tài hoa văn trang trí, kỹ thuật trang trí của đồ gốm hoa lam trong sưu
tập hiện vật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm.
- So sánh gố m hoa lam trên tàu đắm cổ Cù Lao Chàm với gố m hoa lam tim
̀
thấ y trong mô ̣t số di chỉ khảo cổ ho ̣c ở Viê ̣t Nam , đă ̣c biê ̣t là các trung tâm gố m Hải
Dương và Hoàng thành Thăng Long để bước đầ u tìm hiể u xuấ t xứ đồ gốm hàng hóa
trên tàu.
- Thông qua việc nghiên cứu về loại hình, kiểu dáng, kỹ thuật sản xuất và
chất liệu, hoa văn trang trí,... thấy được bức tranh toàn cảnh của sưu tập đồ gốm hoa
lam tàu đắm cổ Cù Lao Chàm, chứng tỏ bước phát triển cao trong nghệ thuật gốm
Việt Nam giai đoạn này.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận Mác - Lênin về Chủ nghiã duy vâ ̣t biê ̣n chứng.
- Phương pháp luâ ̣n sử ho ̣c nhằm tìm hiểu sự tác động, chi phối của điều kiện
lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội đương thời tới việc sáng tạo, chế tác của các nghệ
nhân gốm.
- Phương pháp sử liệu học để nghiên cứu, khảo sát các hiện vật gốm hoa lam
Việt Nam trong sưu tập hiện vật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm.
- Phương pháp phân tić h thố ng kê , phân loa ̣i để tim
̀ hiể u loa ̣i hiǹ h , hoa văn
trang trí của sưu tập gốm hoa lam tàu đắm cổ Cù Lao Chàm.
12
- Sử dụng kết quả phân tích xét nghiệm của khoa học tự nhiên như phân tích
hóa học, phân tích độ nung, để đánh giá chất liệu gốm, kỹ thuật sản xuất gốm qua
sưu tập gốm hoa lam tàu đắm cổ Cù Lao Chàm.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: khảo cổ học, văn hóa học, mỹ thuật
học, bảo tàng học để đi sâu tìm hiểu đặc trưng của sưu tập hiện vật tàu đắm cổ Cù
Lao Chàm trong mối quan hệ với các lò gốm cổ ở Hải Dương và một số di chỉ khảo
cổ học khác.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu (07 trang) và Kết luận (07 trang), luận văn được chia
làm 4 chương:
Chương 1: Quá trình phát hiện và khai quật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm.
Chương 2: Các loại hình gốm hoa lam Việt Nam trên tàu đắm cổ Cù Lao
Chàm.
Chương 3: Chất liệu và kỹ thuật sản xuất gốm hoa lam Việt Nam trên tàu
đắm cổ Cù Lao Chàm.
Chương 4: Các loại hoa văn trang trí trên gốm hoa lam Việt Nam tàu đắm
cổ Cù Lao Chàm.
Ngoài ra, luận văn còn có các mục: Tài liệu tham khảo (86 tài liệu gồm tiếng
Việt và tiếng Anh), Phụ lục luận văn gồm 07 Phụ lục với 142 trang (xem mục lục
phụ lục).
Những trang đầu luận văn còn có Lời cảm ơn, Mục lục và Danh mục các chữ
viết tắt.
13
Chương 1
QUÁ TRÌNH PHÁT HIỆN VÀ KHAI QUẬT TÀU ĐẮM CỔ CÙ LAO CHÀM
1.1. Vài nét về lịch sử, địa lý Hội An – Cù Lao Chàm
Hội An nằm bên cửa sông Thu Bồn, phía Đông nối với biển Đông qua cửa
Đại Chiêm. Qua sông Thu Bồn, Hội An nối với kinh đô Trà Kiệu và Di sản Văn hóa
Thế giới Khu Di tích Mỹ Sơn của vương quốc cổ Chămpa ở thượng lưu. Theo các
tài liệu lịch sử, trước đây Hội An là một đầu mối giao thông quan trọng nằm trên
con đường biển quốc tế từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á và từ Thái Bình Dương
qua Ấn Độ Dương. Thương cảng Hội An hình thành trong khoảng thế kỷ 15, 16,
thịnh đạt vào thế kỷ 17, 18. Nhưng từ đầu công nguyên, Hội An đã nằm trong địa
bàn phân bố của Văn hóa Sa Huỳnh và trong nhiều thế kỷ đã từng là thương cảng
trọng yếu của vương quốc cổ Chămpa.
Tuy nhiên, sang thế kỷ 19, do nhiều nguyên nhân trong và ngoài nước, do cả
những biến đổi về sông nước, hoạt động kinh tế và vai trò của Hội An suy giảm dần
nhường chỗ cho Đà Nẵng . Do đó, thương cảng Hội An chỉ còn la ̣i mô ̣t thời vang
bóng đã qua. Các di tích bến cảng, phố cổ, cửa hàng, nhà dân, kiến trúc nhà thờ họ,
đình chùa, đền miếu, hội quán còn la ̣i hiê ̣n nay là chứng tić h mô ̣t thời vàng son của
thương cảng Hô ̣i An.
Từ cửa Đại Chiêm – Hội An đi thẳng về phía Đông khoảng 18km, chúng ta
sẽ tới Cù Lao Chàm. Cù Lao Chàm là tên gọi chung cho một quần đảo gồm 7 đảo
lớn nhỏ, tổng diện tích khoảng 1.500ha. Từ nhiều đời nay, Cù Lao Chàm là bức
tường đá thiên nhiên ngăn sóng gió biển Đông cho vùng biển Cửa Đại – Hội An.
Trong 7 đảo đó, Hòn Lao là lớn nhất và cũng là đảo duy nhất có cư dân sinh sống.
Phía Tây đảo có một vùng biển sâu, kín gió rất thuận lợi cho tàu thuyền cập bến,
đặc biệt những lúc sóng to, biển động. Trong vùng có một bến thuyền lớn gọi là bến
Bãi Làng. Cụm đảo này, án ngữ cửa Đại Chiêm của thị xã Hội An hiện nay, đồng
14
thời nằm trên một trục thông thương quan trọng: Cù Lao Chàm – Cửa Đại – phố
cảng Hội An và kinh đô Trà Kiệu – Khu Di tích Mỹ Sơn. Thực tế trong lịch sử, Cù
Lao Chàm đã có vai trò rất lớn đối với đô thị thương cảng Hội An, một đô thị vốn
từng nổi tiếng ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.
Qua một số tài liệu thủy văn cho biế t , thời tiết ở khu vực thị xã Hội An, Cù
Lao Chàm nói riêng và ven biển Quảng Nam – Đà Nẵng nói chung chia làm 2 mùa
rõ rệt. Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 4 là gió, sóng có hướng Đông Bắc là chủ
yếu. Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa gió, sóng có hướng Đông và Tây Nam.
Mùa hè cũng là mùa thường hay có bão và áp thấp nhiệt đới với tốc độ gió cao. Ở
ngoài khơi Quảng Nam – Đà Nẵng, tốc độ dòng chảy tầng mặt khá lớn. Dòng chảy
mùa đông (tháng 2) có hướng Đông Bắc – Tây Nam, còn dòng chảy mùa hè (tháng
8) có hướng Tây Nam – Đông Bắc. Dòng chảy lớn tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đi lại và buôn bán giữa các nước trong vùng Đông Bắc Á và Đông Nam Á, đặc biệt
vào thời kỳ phong kiến, khi các phương tiện giao thông trên biển còn đơn giản và
chủ yếu bằng buồm [40].
1.2. Quá trình phát hiện và nghiên cứu tàu đắm cổ Cù Lao Chàm
Vào khoảng đầu năm 1994, từ câu chuyện các ngư dân vùng biển Hội An,
Duy Xuyên (Quảng Nam) trong lúc đi đánh cá tình cờ phát hiện một kho gốm cổ
dưới đáy biển Cù Lao Chàm đã nhanh chóng lan ra cả nước. Nhiều ngư dân quanh
vùng trang bị lưới quét sâu cùng thuyền đánh cá tiến hành cào quét đồ gốm từ độ
sâu trên 70 mét và vô hình chung đã làm vỡ nhiều cổ vật. Hàng nghìn đồ vật trục
vớt trái phép từ biển Cù Lao Chàm được bày bán tại các cửa hàng lưu niệm ở Hội
An trong những năm 1994 – 1998. Những người buôn đồ cổ từ Đà Nẵng, thành phố
Hồ Chí Minh đổ về đây nằm túc trực để mua của ngư dân và những người buôn đồ
cổ khác . Có những món cổ vật trị giá tới hàng trăm triệu đồng, mà theo một ngư
dân, khi đoàn khảo sát đến điều tra, thăm hỏi đã tự thú nhận rằng: “Ngôi nhà anh ta
được xây dựng bởi tiền bán 1 chiếc đĩa cổ vớt lên từ đáy biển Cù Lao Chàm”.
15
Trước tình hình ấy, đã có nhiều bài báo, nhiều hội nghị khoa học đề cập tới việc xử
lý con tàu này khỏi tình trạng đang bị phá hoại trong mấy năm trước đó [24, 52, 53].
Cũng trong năm 1994, TS. Trịnh Cao Tưởng (Viện Khảo cổ học Việt Nam)
đã sơ bộ điều tra và nghiên cứu một số đồ gốm được lưu giữ tại nhà ngư dân ở làng
Vĩnh Kim cùng một số cửa hàng bán đồ cổ ở thị xã Hội An. Trong thông báo tại
Hội nghị thông báo khảo cổ học toàn quốc ở Hà Nội, tác giả đã dự báo có một con
tàu đắm cổ cách Cù Lao Chàm khoảng 20 km về phía Đông, chở đồ gốm ở miền
Bắc Việt Nam có niên đại khoảng thế kỷ 15 – 16 [52].
Tháng 3 năm 1995, các nhà khoa học ở Trường Đại học Nữ Chiêu Hòa (Nhật
Bản) phố i hơ ̣p với mô ̣t số cơ quan văn hóa của Viê ̣t Nam đã tiến hành khảo sát tìm
vị trí của tàu đắm. Họ trang bị một số thiết bị dò tìm như: máy cầm tay dò độ sâu
bằng sóng âm, máy dò hiện vật trong lòng biển bằng phản sóng rada, máy ghi hình
ảnh mặt cắt dưới đáy biển, máy ghi hình dưới nước, thiết bị đo độ sâu cùng hệ
thống máy định vị,… tiến hành thăm dò, nhằm kiểm tra khu vực tàu đắm và đánh
giá khả năng có thể khai quật con tàu cổ trong tương lai. Tuy nhiên do thiết bị thiếu,
nên cuộc khảo sát đã không thành công [53].
Vào thời gian này, các cơ quan văn hóa Việt Nam cũng đã có các chỉ thị kịp
thời để bảo vệ di chỉ. Cơn sốt “đồ biển” ở Cù Lao Chàm – Hội An cũng lắng dịu
dần. Tuy nhiên, qua những đống mảnh gốm men trong các nhà ngư dân
[BA10:PL1] và một số đồ bày bán ở các cửa hàng lưu niệm tại thị xã Hội An , có thể
thấy hàng trăm đồ gố m cổ dính hàu biển đã bị trục vớt trái phép . Một số di vật còn
nguyên lành bị bán trái phép cho những người buôn bán và nhiều cổ vật gốm này đã
bị đưa ra nước ngoài . Số rấ t it́ , may mắ n đã được sưu tầm và trưng bày ta ̣i một vài
bảo tàng ở Viê ̣t Nam như Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng gốm sứ thương mại
Hội An [24].
16
Trước tình hình trên, giới nghiên cứu nói chung đều nhận thấy giá trị to lớn
của con tàu cổ đối với lịch sử, văn hóa Việt Nam. Nhưng, làm thế nào để có thể
nghiên cứu được trong điều kiện con tàu đã chìm sâu dưới đáy biển từ mấy trăm
năm trước trong khi ngành khảo cổ học dưới nước Việt Nam chưa có , điều kiện
kinh phí khai quâ ̣t rất tốn kém , nhưng nếu chậm trễ còn có thể bị trục vớt trái phép
bất cứ lúc nào, bởi ngư dân luôn luôn coi đó là nguồn thu nhập quan trọng của họ.
Cũng thời gian này, Xí nghiệp Liên hợp trục vớt cứu hộ (VISAL) trực thuộc
Cục Hàng hải Việt Nam - Bộ Giao thông Vận tải - vốn là một đơn vị đã phối hợp
với một số cơ quan chuyên môn trong và ngoài nước khai quật con tàu đắm cổ Hòn
Cau ở Vũng Tàu – Côn Đảo cũng nắm được thông tin về tàu cổ Cù
Lao Chàm .
Ngày 17/6/1994, VISAL có Công văn số 181/TVKH gửi Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Nam – Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam) xin thăm dò, khảo sát con tàu đắm
cổ tại Cù Lao Chàm và đã được chính quyền tỉnh đồng ý cấp phép cho thực hiện.
Ngày 22/7/1996, VISAL tiếp tục làm tờ trình gửi tới Bộ Văn hóa – Thông tin
(nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đề cập một cách tổng quan về kế hoạch
khảo sát và khai quật. Tiếp đó, VISAL có Công văn số 72/KHĐN ngày 25/9/1996
nêu rõ vị trí khảo sát, trang thiết bị, phương tiện và nhân sự chuẩ n bi ̣cho cuô ̣c khảo
sát này . Ba cơ quan phối hợp là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
, VISAL và Công ty
Saga Horizon, Malaixia (SAGA).
Việc xin phép thăm dò, khai quật được chuyển tới Văn phòng Chính phủ.
Cuối cùng dựa trên ý kiến của các Bộ, ngành liên quan, Văn phòng Chính phủ đã có
Công văn số 680/KGVX ngày 14/02/1997 thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính
phủ đồng ý cho phép thăm dò, khai quật con tàu đắm cổ.
Trên cơ sở đó , Bộ Văn hóa – Thông tin đã có Quyết định số 653/VH/QĐ
ngày 27/5/1997 cho phép Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với các Công ty
17
VISAL và SAGA tiến hành thăm dò khảo sát tìm kiếm vị trí của tàu đắm cổ Cù Lao
Chàm.
1.3. Quá trình thăm dò, khảo sát tàu đắm cổ Cù Lao Chàm
Sau khi Bộ Văn hóa – Thông tin ra quyết định cho phép 3 đơn vị phối hợp
tiến hành thăm dò , khảo sát con tàu , công tác chuẩn bị chu đáo cho mô ̣t quá trình
tìm kiếm gian khó và dài lâu đã được thực hiện làm 3 đơ ̣t:
1.3.1. Đợt 1 từ ngày 16/4/1997 – ngày 19/4/1997
Tổ chức nhân sự Ban Khảo sát được thành lập gồm 14 thành viên đại diện
cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, VISAL, SAGA, Viện Khảo cổ học Việt Nam, Sở
Văn hóa – Thông tin Quảng Nam (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng
Nam), Bảo tàng Quảng Nam, Ban Quản lý Di tích Hội An (nay là Trung tâm Bảo
tồn Di sản văn hóa Hội An), Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ,… Ngoài ra còn có 3 ngư
dân và thủy thủ trên 2 con tàu thuê của đội khai thác yến Hội An cùng tham gia đợt
thăm dò, khảo sát.
Trang thiết bị được SAGA gửi từ Malaixia sang gồm:
- Máy khảo sát điều khiển từ xa R.O.V (Remotely Operated Vehicle).
- Máy dò từ tính (Echo Sounder/Fish Finder).
- Máy quay phim thả sâu (Drop Camera).
- Máy định vị vệ tinh mặt đất GPS (Global Positioning System).
Đoàn khảo sát đã kết hợp với kinh nghiệm của 3 ngư dân, đươ ̣c sự hỗ trơ ̣ của
thiế t bi ̣máy móc , đã chia ô khảo sát ở to ̣a đô ̣ Nhà nước cho phép , phát hiện 3 điể m
nghi vấ n có tàu chìm . Tuy nhiên, do dòng chảy quá mạnh, sóng lớn, mây mù cho
nên không thể dùng R.O.V và thợ lặn kiểm tra được các điểm nghi vấn này.
Trước tình hình đó, đoàn đã tạm ngừng khảo sát, đánh dấu điểm nghi vấn
trên bản đồ, báo cáo các cơ quan liên quan, chuẩn bị thêm trang thiết bị để tiến hành
khảo sát lần thứ hai.
18
1.3.2. Đợt 2 từ ngày 08/5/1997 – ngày 17/5/1997
Ngoài các thiết bị như đợt 1, lần này có thêm máy quét cạnh (Side Scan
Sonar) dùng cho khảo sát diện rộng.
Đồng thời đoàn đã huy động ngư dân đi theo thả lưới, cùng với các máy móc
thăm dò và đã tìm thấy một đụn cát dài khoảng 30m, cao 2 – 3m và một số bát, đĩa
cổ. Hai chuyên viên lặn của SAGA trong một ca lặn đã vớt được 1 bát cổ men trắng
vẽ lam.
Như vậy, đợt này đã tìm được đúng vị trí nghi là nơi có tàu đắm, thu hẹp
điểm khảo sát từ hàng km2 xuống còn khoảng 100m2.
Đoàn đã dừng lại, báo cáo kết quả với các cơ quan liên quan , đề nghị bộ đội
biên phòng bảo vệ và chuẩn bị cho đợt khảo sát lần thứ 3 nhằm khẳ ng đinh
̣ tọa đô ̣
chính xác của con tàu đắm cổ.
1.3.3. Đợt 3 từ ngày 03/6/1997 – ngày 06/6/1997
Đợt này, việc chuẩn bị nhân sự, trang thiết bị vẫn như lần trước.
Kết quả, tại điểm đã xác định trước đây , thợ lặn kết hợp với các phương tiện
R.O.V, G.P.S, Fish Finder, Side Scan Sonar đã thấy rõ hơn nhiề u chồng gốm men
nằm xếp lớp. Kết quả này tạo cơ sở chắc chắn để Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,
VISAL, SAGA trình kế hoạch chuẩn bị khai quật lên Bộ, ngành liên quan, chính
thức chuẩn bị khai quật.
1.4. Quá trình khai quật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm [19]
Sau khi có kết quả khả quan từ ba đợt khảo sát, các cơ quan hữu quan đã
trình lên Văn phòng Chính phủ, các Bộ liên quan để xin phép khai quật. Ngày
04/7/1997, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 3354/KGVX gửi Bộ Văn hóa –
Thông tin thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Văn hóa – Thông
tin ra quyết định khai quật con tàu đắm cổ ở vùng biển Cù Lao Chàm.
19
Ngày 10/7/1997, Bộ Văn hóa – Thông tin đã ra Quyết định số 2006/VH-QĐ
cho phép Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, VISAL, SAGA khai quật tàu đắm cổ Cù Lao
Chàm, và thông qua Danh sách Ban khai quật gồm 14 thành viên đại diện cho các
Bộ, ngành và các cơ quan có liên quan.
- Trưởng ban khai quật: TS. Phạm Quốc Quân – Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
- Đồng trưởng ban: KS. Lâm Minh Châu – Tổng Giám đốc VISAL.
- Phó trưởng ban: ông Ong Soo Hin – Giám đốc SAGA.
Ngoài ra còn có:
- 15 chuyên gia khảo cổ học, sử học của Đại học Oxford (Anh quốc), Đại học
Kebang Saan (Malaixia), Cộng hòa Séc.
- Các chuyên gia lặn và thủy thủ đoàn của Việt Nam, Maliaxia, Anh,
Indonesia, Singapore…
Như vậy, lực lượng nhân sự cho cuộc khai quật khảo cổ học dưới nước con
tàu đắm cổ Cù Lao Chàm đã được huy động với qui mô chưa từng có. Nguồn kinh
phí khai quật do phía Công ty SAGA cung cấp theo thỏa thuận.
Quá trình khai quật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm diễn ra theo 3 đợt vào các năm
1997, 1998 và 1999 [BA1-5: PL1].
1.4.1. Đợt khai quật lần thứ nhất (năm 1997)
Mục đích của đợt khai quật này là:
- Xác định chính xác quy mô, trữ lượng, chất lượng và sự phân bố di vật
hàng hóa trên con tàu đắm cổ Cù Lao Chàm.
- Tìm hiểu các điều kiện để chuẩn bị cho phương pháp lặn khả thi.
- Các nhà khảo cổ học, các chuyên gia, thủy thủ làm quen với môi trường
làm việc ở khu vực tàu đắm.
Phương tiện, thiết bị khai quật do phía SAGA đưa sang với các phương tiện
thiết bị như sau:
20
- 01 xà lan công trình Abex TS 2.000 tấn.
- 01 tàu kéo Tong Leong 1.200 mã lực dùng để kéo xà lan và sử dụng khi
khai quật.
Trên xà lan có chứa đầy đủ hệ thống máy nổ, hệ thống vi tính, hệ thống khí
lặn hỗn hợp Helium – Oxy và hệ thống phòng ăn, nghỉ cho 40 cán bộ, chuyên gia
trong và ngoài nước.
Ban khai quật phân công nhiệm vụ cụ thể như sau: Về chuyên môn khảo cổ
học dưới nước do chuyên gia khảo cổ của Đại học Oxford phụ trách; về giám sát,
kiểm tra, nghiên cứu, theo dõi do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam chủ trì; về tổ chức,
điều hành và quyết định các vấn đề phục vụ thông tin, thời tiết, hậu cần và kinh phí
do Công ty SAGA và VISAL điều hành.
Sau khi định vị cho xà lan công trình neo đậu đúng vị trí xác định con tàu
đắm, dưới sự điều khiển của các nhà khảo cổ học Đại học Oxford qua hệ thống
camera, các chuyên gia lặn bằng phương pháp hỗn hợp khí bề mặt, tiếp tục định vị,
khai quật, đo vẽ, chụp ảnh để thêm mô ̣t lầ n nữa xác định hiện trạng con tàu . Việc đi
lại và thăm dò được tiến hành hết sức cẩn tro ̣ng để không phá vỡ hiện trạng di tích
và di vật. Kết quả, sau 12 ngày làm việc, đã phát hiện ra nhiều đồ gốm cổ nằm xếp
lớp cùng 01 thanh gỗ tập trung ở trên một mô đất dài 30m. Những thông tin trên
cho thấy đích xác đây là vị trí của con tàu đắm bị chôn sâu dưới bùn cát.
41 mẫu vật nằm rải rác trên bề mặt di chỉ, hầu hết đã bị vỡ, bị hà bám chặt đã
được chỉ đạo lấy lên, được bước đầu phân loại, cạo rửa, ngâm nước, lập phiếu, nhập
máy tính để nghiên cứu. Sau khi đã xử lý khảo cổ học, các mẫu vật này được trao
lại cho Bảo tàng Quảng Nam và Sở Văn hóa – Thông tin Quảng Nam quản lý.
Cuộc khai quật đang diễn ra thì phải dừng lại vì diễn biến phức tạp của thời
tiết trong mùa mưa bão đến và khi nghe tin một cơn bão hình thành . Tuy nhiên, các
mục tiêu cơ bản của đợt tiền khai quật đã đạt được là:
21
- Xem thêm -