Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giới trong thành ngữ - tục ngữ tiếng việt...

Tài liệu Giới trong thành ngữ - tục ngữ tiếng việt

.PDF
173
955
153

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Kim Anh GIỚI TRONG THÀNH NGỮ - TỤC NGỮ TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH Trần Kim Anh GIỚI TRONG THÀNH NGỮ - TỤC NGỮ TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS ĐẶNG NGỌC LỆ Thành phố Hồ Chí Minh – 2012 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Giới trong thành ngữ - tục ngữ tiếng Việt” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi; các thông tin, số liệu được nêu trong luận văn hoàn toàn trung thực. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2012 Tác giả LỜI CẢM ƠN Với sự làm việc nghiêm túc của bản thân và sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình của Thầy Cô, gia đình, bạn bè, luận văn này đã được hoàn thành. Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS. TS Đặng Ngọc Lệ, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy Cô, những người đã chỉ bảo và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu; xin chân thành cảm ơn phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện luận văn. Cuối cùng, tôi cũng chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã động viên, ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học và làm luận văn. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2012 Tác giả MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ i 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 6 4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 7 5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 7 6. Bố cục của luận văn ................................................................................................ 7 Chương 1: Cơ sở lý luận.......................................................................................................8 1.1. Lý thuyết chung về thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt.............................................. 8 1.1.1. Lý thuyết về thành ngữ tiếng Việt ...................................................................8 1.1.1.1. Khái niệm ..............................................................................................8 1.1.1.2. Cấu tạo thành ngữ tiếng Việt ..............................................................10 1.1.1.3. Đặc điểm thành ngữ tiếng Việt ...........................................................14 1.1.1.4. Phân loại thành ngữ ..........................................................................18 1.1.2. Lý thuyết về tục ngữ tiếng Việt .................................................................... 20 1.1.2.1. Khái niệm .........................................................................................20 1.1.2.2. Nội dung của tục ngữ .......................................................................22 1.1.2.3. Đặc điểm của tục ngữ ......................................................................23 1.2. Lý thuyết về giới ................................................................................................... 26 1.2.1. Khái niệm Giới tính (sex) ..........................................................................26 1.2. 2. Khái niệm Giới (Gender) ...........................................................................27 1.3. Sự phân chia giới trong đời sống và trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt ..... 30 1.4. Tiểu kết ................................................................................................................. 31 Chương 2: Ngôn ngữ về giới và quan niệm về số lượng giới được phản ảnh trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt ........................................................................................... 33 2.1. Nhận xét về số lượng thành ngữ, tục ngữ khảo sát ............................................. 33 2.2. Ngôn ngữ về giới và quan niệm về số lượng giới của con người ........................ 33 2.2.1. Nhận xét về từ ngữ và tần số xuất hiện của từ ngữ trực tiếp chỉ giới bằng ý nghĩa từ vựng ........................................................................................................................34 2.2.1.1. Từ ngữ trực tiếp chỉ về giới nam qua ý nghĩa từ vựng ........................34 2. 2. 1. 2. Từ ngữ trực tiếp chỉ về giới nữ qua ý nghĩa từ vựng ............................40 2. 2.1. 3. Vai trò của từ ngữ trực tiếp chỉ giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt44 2.2.2. Nhận xét về từ ngữ và tần số xuất hiện của từ ngữ gián tiếp chỉ giới thông qua các biện pháp tu từ................................................................................................................46 2.2.2.1. Từ ngữ gián tiếp chỉ giới thông qua các biện pháp tu từ.........................46 2.2.2.2. Vai trò của từ ngữ gián tiếp chỉ giới thông qua biện pháp tu từ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt ................................................................................................51 a) Những từ ngữ chỉ giới thông qua biện pháp ẩn dụ..................................51 b) Những từ ngữ chỉ giới thông qua biện pháp hoán dụ..............................52 2.2.3. So sánh tần số xuất hiện của từ ngữ trực tiếp và gián tiếp chỉ về giới ...............54 2.2.4. Nhận xét về một số động từ, tính từ được dùng miêu tả về giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt ..................................................................................................................55 2.3. Tiểu kết ................................................................................................................... 60 Chương 3: Giới và sự kỳ thị giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt ......................... 61 3.1. Về khái niệm kỳ thị giới ..................................................................................... 61 3.2. Biểu hiện sự kỳ thị giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt.......................... 62 3.2.1. Biểu hiện của sự kỳ thị đối với giới nữ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt ...62 3.2.1.1. Việc sử dụng từ ngữ chỉ giới nam để chỉ chung cả hai giới ...................62 3.2.1.2. Sự vô hình của giới nữ qua các từ ngữ chỉ chức danh, xưng gọi .........65 3.2.1.3. Sự kỳ thị giới giới nữ thể hiện ở trật tự xuất hiện của các từ chỉ giới ...66 3.2.1.4. Sự kỳ thị về giới thể hiện qua lớp từ chuyên dụng của mỗi giới ............71 3.2.1.5. Sự kỳ thị giới biểu hiện qua cách khắc họa về giới ...............................76 3.2.2. Biểu hiện sự kỳ thị đối với giới nam trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt .........89 3.3. Tiểu kết ................................................................................................................... 93 KẾT LUẬN ..........................................................................................................................95 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 97 PHỤ LỤC.......................................................................................................................... 104 DANH MỤC CÁC BẢNG TÊN BẢNG STT 1 2 3 4 5 Bảng 2.1. Từ ngữ trực tiếp chỉ giới nam qua ý nghĩa từ vựng Bảng 2.2. Từ ngữ chỉ giới nữ trực tiếp qua ý nghĩa từ vựng Bảng 2.3. Danh từ gián tiếp chỉ về giới nam thông qua các biện pháp tu từ Bảng 2.4. Danh từ gián tiếp chỉ về giới nữ thông qua các biện pháp tu từ Bảng 3.1. Tần số xuất hiện của trật tự từ chỉ giới nam TRANG 35 40 47 47 67 trước từ chỉ giới nữ 6 Bảng 3.2. Tần số xuất hiện của trật tự từ chỉ giới nữ trước từ chỉ giới nam 69 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong xã hội hiện nay, vấn đề giới ngày càng được quan tâm và nghiên cứu trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Tùy theo lĩnh vực mà giới sẽ được nghiên cứu, tiếp cận theo những cách khác nhau trong sự tương quan với những yếu tố khác. Ngôn ngữ học xã hội cũng dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề giới, và giới đã được đặt trong mối quan hệ với ngôn ngữ, mà chúng ta gọi là ngôn ngữ học xã hội giới. Trong bối cảnh hiện nay, khi những vấn đề về giới như cách phân biệt giới, sự bất bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội,… đang ngày càng được quan tâm thì việc nghiên cứu về giới đã đi vượt ra phạm vi một ngành khoa học riêng lẻ. Ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của giới trong cuộc sống dù là quá khứ hiện tại hay tương lai. Tầm quan trọng của giới đã được nhiều nhà xã hội học xác định. Cụ thể, chúng ta thấy họ quan niệm giới là là một yếu tố quan trọng bên cạnh giai cấp và tộc người với tư cách là một trong ba ba cơ chế trung tâm để phân bố về mặt xã hội đối với nguồn lực và quyền lực, và giới được xem là một vấn đề quan trọng trong đời sống mỗi con người. Đồng thời giới cũng được đánh giá: “Cụ thể là từ cấp độ vĩ mô của nền kinh tế đến quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giới nhào nặn các hoạt động, các vai trò và cái mà cá nhân nhận được và thụ hưởng trong đời sống xã hội. Giới là sự biến hóa những khác biệt nam nữ thành khuôn mẫu và là sự thống trị thông qua những phân biệt giữa nam và nữ. Giới là một phạm trù then chốt, là lăng kính để xem xét tất cả mọi hiện tượng xã hội” [5, tr.29]. Hiện nay giới còn được xem là một trong những trục chính để tổ chức đời sống xã hội. Theo góc độ xã hội học thì tầm quan trọng của giới được xác định như thế. Đối với ngôn ngữ học đặc biệt là ngôn ngữ học xã học giới cũng có một tầm quan trọng đặc biệt. Nhưng trong ngôn ngữ học nói chung và ngôn ngữ học xã hội nói riêng, hướng tiếp cận vấn đề giới không giống với các ngành khoa học khác. “Ngôn ngữ với chức năng phản ảnh thực tại xã hội cụ thể là phản ảnh cách nhìn nhận về giới của con người, ngôn ngữ được xem là “tấm gương soi của xã hội” về giới, là “chiếc hàn thử biểu” để đo nhận thức của con người về giới trong các xã hội khác nhau, ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau” [42, tr.1]. Những quan niệm về giới của nhân dân ta trong từng thời kỳ lịch sử được phản ảnh một cách sâu sắc thông qua ngôn ngữ. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới từ rất lâu đã trở thành một đề tài nghiên cứu quan trọng của chuyên ngành ngôn ngữ học xã hội ngay từ khi chuyên ngành này ra đời vào năm 1964. Đây là đề tài được nghiên cứu với nhiều nội dung khác nhau như: các hình thức ngôn ngữ của giới nam và giới nữ, biểu hiện của sự kỳ thị về giới tính trong ngôn ngữ, giới với tư cách là nhân tố trong nghiên cứu về giao tiếp,… Cùng với tuổi tác, nghề nghiệp giới được xem là một trong ba nhân tố quan trọng trong sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ và giới đã trở thành một trong những vấn đề nghiên cứu quan trọng của ngôn ngữ học xã hội. “Khi giải quyết các vấn đề của ngôn ngữ đồng thời chúng ta cũng phải giải giải quyết các vấn đề về giới và ngược lại. Các vấn đề về giới luôn gắn liền với ngôn ngữ trên cả hai bình diện: phản ảnh về giới và tác động về giới” [42, tr.1]. Thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt cũng là một bộ phận của ngôn ngữ dân tộc, do đó các nhận thức, quan niệm về giới của nhân dân đồng thời cũng được phản ánh trong đó. Việc nghiên cứu giới trong thành ngữ, tục ngữ sẽ tìm thấy quan điểm cách nhìn nhận của nhân dân ta về vấn đề này. Chính vì vậy người viết chọn đề tài “Giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt” nhằm tìm hiểu làm rõ vấn đề này để mong có một sự hiểu biết về vấn đề giới trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề Nhìn lại vấn đề nghiên cứu giới ta thấy Giới, giới tính là những đối tượng đã được nghiên cứu khá nhiều trong chuyên ngành xã hội học. Giới, giới tính cũng là đối tượng được sự quan tâm đặc biệt của nhiều tổ chức, cá nhân như Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, các nhà giáo dục, các nhà tâm lý… Trong ngôn ngữ học giới và giới tính cũng được nghiên cứu tương đối nhiều. Những công trình tiêu biểu như: “Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ” của Trần Xuân Điệp, “Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính” của Vũ Tiến Dũng (2007), luận văn thạc sĩ “Định kiến giới trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam” (2008) của Nguyễn Thị Thịnh, “Ngôn ngữ học xã hội” của Nguyễn Văn Khang (1999); bài “Xã hội học ngôn ngữ về giới: Sự kì thị và sự chống kì thị đối với giới nữ trong sử dụng ngôn ngữ” của Nguyễn Văn Khang trên trang web của Viện ngôn ngữ học Việt Nam; bài “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ” của Nguyễn Văn Khang trong Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt,… Trong Sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ, Trần Xuân Điệp đã trình bày trực tiếp về vấn đề kì thị giới tính trong ngôn ngữ. Ngoài những vấn đề lí luận liên quan đến biểu hiện của sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ ở chương một; trong chương hai và ba đã trình bày về sự kì thị đối với giới nữ và sự kì thị đối với giới nam trong ngôn ngữ một cách đầy đủ với nhiều ví dụ minh họa. Trong sách này tác giả đã đề cập đến biểu hiện của sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ với tư cách là một đối tượng thuộc ngôn ngữ học xã hội, dựa trên cơ sở cứ liệu của một số ngôn ngữ tiêu biểu. Đồng thời trong đó chúng ta cũng thấy được “những nét đặc thù nhất định về văn hóa của các dân tộc đan xen trong các ngôn ngữ khác nhau mà việc nghiên cứu sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ sẽ bộc lộ” [23, tr. 8]. Trên cở sở đó tác giả còn đề xuất hướng giải quyết vấn đề kì thị giới tính trong ngôn ngữ theo góc độ cải cách ngôn ngữ và quy hoạch ngôn ngữ. Như vậy vấn đề chủ yếu trong Sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ là vấn đề kì thị giới tính trong ngôn ngữ giao tiếp nói chung. Trong “Định kiến giới trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam”, Nguyễn Thị Thịnh đã trình bày được những vấn đề liên quan đến giới trong ca dao, thành ngữ, tục ngữ chủ yếu xoay quanh vấn đề định kiến về giới nữ qua một số biểu hiện cụ thể. Trong chương một, tác giả trình bày về những cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu, giúp chúng ta có một hiểu biết đầy đủ về khái niệm định kiến giới nói chung và định kiến giới đối với người phụ nữ nói riêng. Trong chương hai, tác giả đã trình bày về những biểu hiện cơ bản của định kiến giới trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam. Trong đó người viết đã nghiên cứu được một số nội dung chính như sau: - Những định kiến giới liên quan đến đặc điểm ngoại hình của người phụ nữ (khuôn mặt, thân hình, nụ cười, giọng nói…). - Những định kiến về tính cách, năng lực, công việc của người phụ nữ. - Những định kiến đối với người phụ nữ biểu hiện trong gia đình (trong quan niệm về giá trị con trai, con gái; trong mối quan hệ vợ – chồng như: chồng là người cai quản, trị vì, vợ là người lệ thuộc, qua thân phận người vợ lẽ, qua quan niệm “tòng phu”, qua quan niệm về vai trò của cha mẹ đối với con cái trong gia đình). - Những định kiến giới trong cộng đồng và xã hội, biểu hiện qua kì vọng giới, qua quan niệm của cộng đồng coi phụ nữ là dấu hiệu của sự không may mắn (điềm gở). - Đề tài cũng đề cập đến hậu quả của định kiến giới với người phụ nữ được phản ánh trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam. Như vậy, về vấn đề giới trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao công trình này cũng nghiên cứu được nhiều điều quan trọng. Ở đây tác giả đứng trên góc nhìn tâm lý học nên không đề cập đến nhiều vấn đề khác liên quan đến ngôn ngữ, văn hóa khi nghiên cứu giới trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam. Trong “Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính”, Vũ Tiến Dũng cũng đề cập về vấn đề giới tính. Cụ thể những nội dung liên quan đến giới tính đó là: xưng hô với lịch sự và sự khác biệt trong cách xưng hô lịch sự giữa giới nam và giới nữ. Trong đó ngoài phần lí luận chung như xưng hô với lịch sự trong tiếng Việt, tác giả đã trình bày khá chi tiết thế nào là sự khác biệt giữa giới nam và giới nữ trong xưng hô lịch sự. Tác giả đã đi vào từng trường hợp cụ thể để phân tích chứng minh cho sự khác biệt đó. Như xưng hô với thủ trưởng, xưng hô với bố mẹ, xưng hô giữa anh chị với em, giữa vợ với chồng, giữa đồng nghiệp với nhau, xưng hô xét trong quan hệ nghề nghiệp, xưng hô xét trong quan hệ với nghề nghiệp và tuổi tác thì có những cách xưng hô khác nhau để tạo nên sự lịch sự trong cách xưng hô của nam và nữ. Bên cạnh đó tác giả còn trình bày về một số chiến lược lịch sự của người Việt trong việc từ chối lời cầu khiến cạnh tranh và sự khác biệt giữa giới nam, giới nữ. Nhìn chung đây là công trình nghiên cứu về vấn đề lịch sự trong xưng hô giữa nam và nữ, nói về ngôn ngữ đặc trưng của từng giới trong giao tiếp hàng ngày. “Ngôn ngữ học xã hội” của Nguyễn Văn Khang (1999), tác giả đã trình bày về vấn đề ngôn ngữ và giới tính trong toàn bộ chương bảy. Có thể thấy rằng trong chương này tác giả đã đề cập đến những vấn đề có liên quan đến giới tính trong gần 5 trang. Trong đó, có những vấn đề quan trọng như sự phân biệt đối xử về giới tính thể hiện trong ngôn ngữ, phong cách ngôn ngữ của mỗi giới. Về vấn đề “sự phân biệt đối xử về giới tính thể hiện trong ngôn ngữ”, tác giả trình bày nhấn mạnh vào vấn đề phân biệt đối xử bằng cách dẫn ra các ví dụ, chủ yếu là các ví dụ tiếng Anh và một phần tiếng Việt. Trong chương này Nguyễn Văn Khang cũng đã tóm tắt lại kết quả nghiên cứu của một số học giả nước ngoài như: B.Thorne, C Kramarac, N. Henley, Allen Nilsen và R. Lakoff. Về các biểu hiện của sự phân biệt đối xử về giới tính theo tác giả đó là: - Sự biểu hiện ở mặt cấu tạo từ: hàng loạt từ được cấu tạo có yếu tố “đàn ông đã phản ánh vị thế xã hội nam quyền”. - Sự phân biệt đối xử giới tính được thể hiện ở cách dùng các đại từ nhân xưng he/ his trong tiếng Anh thay cho she/ her trong nhiểu trường hợp. - Sự phân biệt đối xử về giới tính thể hiện trong sự giao tiếp ngôn ngữ. Về vấn đề phong cách ngôn ngữ của mỗi giới thì tác giả cũng có nhiều đánh giá về lời nói của từng giới, cũng như việc sử dụng ngôn ngữ của mỗi giới như thế nào trong những hoàn cảnh giao tiếp. Nhìn chung, vấn đề ngôn ngữ và giới tính ở đây cũng nằm trong ngôn ngữ giao tiếp. Trong bài “Xã hội học ngôn ngữ về giới: Sự kì thị và sự chống kì thị đối với giới nữ trong sử dụng ngôn ngữ” Nguyễn Văn Khang đã trình bày vấn đề ngôn ngữ và giới, trọng tâm của vấn đề này là ngôn ngữ đã phản ảnh sự thiên kiến đối với giới nữ trong xã hội như thế nào. Tác giả đã đưa ra nhiều ví dụ tiếng Anh, tiếng Hán lẫn tiếng Việt để chứng minh. Đồng thời, tác giả đã đưa định hướng để góp phần chống thiên kiến đối với giới nữ trong kế hoạch hóa ngôn ngữ. Trong “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ”, Nguyễn Văn Khang phân biệt hai góc nhìn về vấn đề giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ. Thứ nhất là ngôn ngữ nói về mỗi giới: trong phần này tác giả chỉ nhận xét rằng ngôn ngữ nói về mỗi giới là những từ nhất định chỉ dùng cho giới này hoặc giới kia. Góc độ thứ hai là ngôn ngữ được mỗi giới sử dụng, cụ thể là sự diễn đạt, cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau của hai giới để biểu thị cùng một vấn đề, cùng một nội dung giao tiếp. Trong bài viết này chủ yếu trình bày về vấn đề ngôn ngữ được mỗi giới sử dụng trong giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra, cũng có nhiều bài viết khác trên tạp chí ngôn ngữ như “Hiện tượng phân biệt giới tính của người sử dụng ngôn ngữ trong tiếng Nhật” của Nguyễn Thị Việt Thanh, “Ngôn ngữ của chúng ta phải chăng là việc của giới nam” của Steind L.M, , “Về giới và ngôi ở những từ xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt” của Nguyễn Đức Thắng, và các luận văn liên quan đến vấn đề giới và giới tính ở trường đại học như: luận văn thạc sĩ “Giới và ngôn ngữ giới” của Lê Thị Hiền Hoa, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP HCM năm 2005; luận văn thạc sĩ “Giới tính trong ngôn ngữ báo chí (trên cứ liệu của phóng viên nam và nữ ở Việt Nam)” (2005) của Phan Thị Ngọc Mai, TP HCM; … Nhưng nhìn chung các công trình trên đây chủ yếu nghiên cứu giới trong ngôn ngữ giao tiếp, trong sử dụng ngôn ngữ nói chung, chưa đề cập nhiều đến giới và những vấn đề chủ yếu về giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt theo hướng tiếp cận ngôn ngữ học. Chính vì thế đề tài này sẽ cố gắng làm rõ giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt với hai vấn đề chủ yếu: ngôn ngữ về giới chính là sự phản ảnh cách nhìn nhận về giới của nhân dân trong cuộc sống và sự kỳ thị giới được phản ảnh trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. Qua đó, nhằm đưa ra cái nhìn toàn diện về vấn đề giới được phản ảnh trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này người viết nhằm vào mục đích là tìm ra một số vấn đề chủ yếu về giới được phản ánh vào trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt như ngôn ngữ về giới, sự kỳ thị giới. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn của luận văn, người viết chỉ tìm hiểu: - Ngôn ngữ về giới và số lượng giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt - Sự kỳ thị về giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt . 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê – miêu tả: người viết tìm ra tất cả những thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt có đề cập đến vấn đề giới và sử dụng phần mềm thống kê SPSS để thống kê số lượng, tần số xuất hiện, tỉ lệ phần trăm của từ ngữ và tiến hành miêu tả ngôn ngữ về giới. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: với phương pháp này người viết tiến hành phân tích ngôn ngữ về giới, phân tích các biểu hiện của sự kỳ thị về giới trong nguồn ngữ liệu thu thập được. Sau đó sẽ đi vào tổng hợp kết luận về những vấn đề được tìm thấy. 6. Bố cục của luận văn Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận, gồm có ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận. Chương này, người viết sẽ trình bày cơ sở lý luận chung của đề tài: những nhận định xung quanh khái niệm giới và lý thuyết chung về thành ngữ, tục ngữ; khái quát về số lượng giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. Chương 2: Ngôn ngữ về giới và quan niệm về số lượng giới của con người trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. Chương này trình bày về ngôn ngữ về giới trên cứ liệu ngôn ngữ biểu hiện trong thành ngữ, tục ngữ để chứng minh quan niệm số lượng giới trong nhân dân. Chương 3: Giới và sự kỳ thị giới trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. Người viết trình bày sự kỳ thị về giới được phản ánh trong thành ngữ, tục ngữ với những biểu hiện cụ thể của nó. Ngoài ra, luận văn còn có tài liệu tham khảo gồm 102 đơn vị, và phụ lục. Chương 1: Cơ sở lý luận 1.1. Lý thuyết chung về thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt 1.1.1. Lý thuyết về thành ngữ tiếng Việt 1.1.1.1. Khái niệm Thành ngữ là một đối tượng đã được nghiên cứu khá nhiều từ trước cho đến nay. Việc nghiên cứu thành ngữ được tiến hành một cách rộng rãi từ các nhà nghiên cứu văn học dân gian cho đến các nhà ngôn ngữ học trên nhiều góc độ khác nhau. Sau đây là một số định nghĩa phổ biến: “Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác với tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt ở trong câu.” [89, tr.271]. “Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó.” [88, tr.915]. “Thành ngữ là cụm từ cố định, thường có vần điệu, được dùng rộng rãi trong đời sống hàng ngày, trong đó ý nghĩa không giải thích đơn giản bằng ý nghĩa của các từ tạo nên nó.” [93, tr.719]. “Thành ngữ là một cụm từ cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập đến một trình độ cao hơn về nghĩa, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra. Những thành ngữ này có tính hình tượng hoặc cũng có thể không có. Nghĩa của chúng đã khác nghĩa của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa bằng từ nguyên học.” [82, tr.185]. “Theo cách hiểu thông thường thành ngữ là một tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái – cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ.” [26, tr. 27]. “Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định về cấu trúc, có nghĩa bóng, được sử dụng để miêu tả những hình ảnh, những hiện tượng tính cách hoặc quan hệ” [49, tr. 97]. “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm” [47, tr. 77]. Trong các định nghĩa đó đều có chung những sự thống nhất như sau: thứ nhất thành ngữ là những cụm từ (tức là có hai từ trở lên), thứ hai là thành ngữ có sự cố định về hình thái cấu trúc, thứ ba là thành ngữ có sự hoàn chỉnh về ý nghĩa và ý nghĩa của thành ngữ không phải là tổng số nghĩa của các thành tố (từ) cấu thành nên thành ngữ. Ngoài ra khi định nghĩa về thành ngữ, một số tác giả còn đề cập đến nhiều mặt khác nữa. Chẳng hạn, Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Như Ý, Hà Quang Năng nhấn mạnh đến một đặc điểm là thành ngữ là một chỉnh thể định danh, hoạt động như một từ riêng biệt. Hoàng Văn Hành nhấn mạnh đến đặc trưng bóng bẩy về ý nghĩa và đặc trưng được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày của thành ngữ. Hồ Lê đề cập đến chức năng miêu tả hình ảnh, hiện tượng, tính cách hoặc quan hệ. Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành thì cho rằng thành ngữ thường có vần có điệu. Nguyễn Văn Tu lại chú ý đến hai đặc điểm của thành ngữ đó là: các từ của thành ngữ mất tính độc lập và nghĩa của chúng khác với nghĩa của các từ nhưng ta có thể giải thích chúng bằng từ nguyên học. Nguyễn Thiện Giáp đề cập tính gợi cảm của thành ngữ khi xem xét chúng. Nhưng nói chung, cho dù các tác giả khi nhắc đến thành ngữ có đề cập đến một số đặc điểm khác của thành ngữ có thể thấy rằng ba đặc điểm chung thống nhất giữa các tác giả là những đặc điểm quan trọng hơn cả, cần thiết phải nhắc đến khi nghiên cứu thành ngữ. Như vậy, có thể căn cứ vào các định nghĩa đã được phổ biến trong giới nghiên cứu để rút ra một cách hiểu về thành ngữ. Tóm lại có thể hiểu thành ngữ là những cụm từ cố định, là một đơn vị từ vựng có sẵn trong hệ thống từ vựng của một dân tộc, chúng có chức năng định danh – gọi tên sự vật, hiện tượng đồng thời phản ánh các khái niệm một cách gợi tả và bóng bẩy. Thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ và đồng thời cũng là một đơn vị mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc vì các yếu tố văn hóa mà thành ngữ đã phản ánh. Chính vì vậy có thể đồng thời gọi thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ - văn hóa. 1.1.1.2. Cấu tạo thành ngữ tiếng Việt Thành ngữ tiếng Việt thường được cấu tạo theo nhiều cách khác nhau. Trước hết là được cấu tạo bằng hình thức điệp và đối giữa các thành tố. • Thành ngữ điệp Điệp ở đây là cấu tạo về mặt hình thức của thành ngữ. Đây là dấu nối âm thanh giữa hai vế, làm cho những yếu tố trong thành ngữ gắn liền với nhau thành một khối có âm điệu, làm cho thành ngữ trở nên hài hòa, dễ nhớ hơn. Thành ngữ điệp gồm có hai loại: điệp ngữ âm và điệp ngữ nghĩa. Điệp ngữ âm: sự láy lại một âm hoặc một vần, một âm tiết nào đó trong thành ngữ. Ví dụ : Thất phu thất phụ; dở anh dở thằng; bóng cô, bóng cậu Trong những đơn vị thành ngữ trên ta thấy có sự láy lại của ở các âm tiết thất, dở, bóng. Điệp ngữ nghĩa: sự sử dụng các từ trong thành ngữ có sự tương đồng nào đó về mặt ý nghĩa. Ví dụ : Cha hươu mẹ vượn ; cha lừa mẹ ngựa ; cha đưa mẹ đón Trong các đơn vị thành ngữ trên ta thấy hươu/ vượn ; lừa/ ngựa ; đưa/ đón là những cặp từ có nét tương đồng nhau về nghĩa. Tương tự như thế ta có thể lấy thêm một vài ví dụ như: cô loan độc phượng; chia loan rẽ phượng,… • Thành ngữ đối Thành ngữ đối là thành ngữ được cấu tạo bằng cách đối giữa các bộ phận trong thành ngữ tạo cho các bộ phận đó có sự đối xứng nhau. Đối trong thành ngữ gồm có đối ý và đối lời. Đối ý là bình diện đối xứng giữa hai vế thành ngữ về ý Ví dụ : Cha sinh mẹ đẻ; cha đưa mẹ đón Đối lời và đối ý liên có liên quan mật thiết với nhau. Đối lời là các vế khi đối phải có sự tương đồng về từ loại và phạm trù phản ánh. Ví dụ : Cha già mẹ yếu; cha già mẹ héo Đối trong thành ngữ còn đòi hỏi tuân theo quy luật bằng trắc về âm vận. Ví dụ: Cha hươu mẹ vượn – BBTT Chia loan rẽ phượng – BBTT Tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ. Ví dụ : Bữa đực bữa cái – TTTT Cha kính mẹ rái – BTTT Bên cạnh những thành ngữ được cấu tạo bằng hình thức điệp và đối còn có một số lượng lớn thành ngữ được cấu tạo bằng những phương thức tu từ khác như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh • Thành ngữ ẩn dụ Thành ngữ ẩn dụ là những thành ngữ được cấu tạo từ phương thức ẩn dụ. Ẩn dụ cũng là một kiểu so sánh nhưng là so sánh ngầm, chỉ cái đuợc so sánh tồn tại độc lập với tư cách một đơn vị ngôn ngữ. Thành ngữ ẩn dụ đuợc cấu tạo dựa trên cơ sơ liên tuởng tuơng đồng của các sự vật, sự liên tưởng này có tính chất chủ quan. Nghĩa của thành ngữ ẩn dụ thuờng ẩn phía sau bề mặt ngôn từ. Chẳng hạn thông qua thành ngữ “hoa trôi bèo dạt” dân gian ta muốn nói đến sự lận đận của đời người phụ nữ.. Theo ông Hoàng Văn Hành có hai loại thành ngữ ẩn dụ đó là thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng và thành ngữ ẩn dụ hóa phi dối xứng. Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng là những thành ngữ được cấu tạo bằng hai vế đối xứng nhau. Đây là loại thành ngữ phổ biến nhất trong thành ngữ tiếng Việt. Ví dụ : Mẹ tròn con vuông; mẹ tròn con méo; bướm chán ong chường Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng thường không đối xứng nhau về mặt cấu trúc, được cấu tạo giống như những cấu trúc ngữ pháp bình thường. Chúng thường có kết cấu là một danh ngữ (anh hùng rơm; anh hùng tương ngộ; anh hùng mạt lộ,…), động ngữ (bám váy vợ; chầu ông vải; khen phò mã tốt áo…), tính ngữ (oan Thị Kính; yểu điệu thục nữ…), kết cấu chủ vị (bố vợ phải đấm; cha già nhà khó,…). • Thành ngữ hoán dụ Thành ngữ hoán dụ là những thành ngữ được cấu tạo từ phương thức hoán dụ. Hoán dụ là phép chuyển nghĩa của từ dựa trên cơ sơ liên tưởng tiếp cận giữa các sự vật. Khác với phương thức ẩn dụ, sự liên tưởng của hoán dụ dựa trên hiện thực khách quan có thật. Thành ngữ hoán dụ thường lấy những sự vật cụ thể để biểu trưng cho những cái trừu tượng khái quát. Ví dụ : Da trắng tóc dài – người con gái đẹp Má hồng mệnh bạc – người con gái đẹp phải chịu lận đận • Thành ngữ so sánh Thành ngữ so sánh là những thành ngữ được cấu tạo từ phép so sánh. Thành ngữ so sánh gồm hai vế được nối với nhau bằng từ có ý nghĩa tương đồng hoặc đồng nhất, thường được nối với nhau bằng từ “như”. Ví dụ : Đẹp như Hằng Nga Đẹp như ả Chức giáng trần Thành ngữ so sánh có hai dạng cơ bản như sau: Dạng 1: A như B (trong đó A là thuộc tính so sánh, B là cái so sánh, như là thành phần biểu thị quan hệ so sánh). Đây là dạng phổ biến trong thành ngữ so sánh. Ở dạng này thuộc tính so sánh A và cái được so sánh B đều thấy rõ. Ví dụ : Béo như ông Di Lặc Ấm oái như hai gái lấy một chồng Lừ đừ như ông từ vào đền Dạng 2 : như B Dạng này thuộc tính so sánh (A) không biểu hiện rõ trên thành ngữ. Ví dụ : Như ông Thiên Lôi Như ông từ giữ tráp Thành ngữ so sánh bắt buộc phải hợp logic, tức là giữa thuộc tính so sánh A và cái được so sánh B phải có nét tương đồng nào đó. Trong thành ngữ so sánh thành phần biểu thị quan hệ so sánh và cái so sánh là bộ phận bắt buộc và ổn định trên cấu trúc bề mặt cũng như cấu trúc sâu. Nếu phá vỡ cấu trúc so sánh thì sẽ không còn là thành ngữ so sánh. Sự lựa chọn từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh và cái so sánh mang tính dân tộc sâu sắc. Từ ngữ biểu thị cái so sánh thường là những hình ảnh điển hình mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc và con người Việt Nam. Ví dụ: Đẹp như chị Hằng Nợ như chúa Chổm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan