Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giới thiệu chung về tín dụng...

Tài liệu Giới thiệu chung về tín dụng

.DOC
107
259
131

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Ở Việt Nam, BH PNT đã bắt đầu hình thành từ năm 1965. Từ 1965 đến 1994 là thời kỳ BH PNT hoàn toàn hoạt động độc quyền với một DNBH Nhà nước duy nhất . Do vậy, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế rất hạn chế. Bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành BH Việt Nam được đánh dấu bằng Nghị định 100/NĐ-CP,ban hành ngày 18 tháng 12 năm 1993 về KDBH. Theo đó, đã ra đời một số công ty BH và TTBH Việt Nam mới bắt đầu hình thành, hoạt động và bước đầu đáp ứng được một số nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, TTBH nói chung và TTBH phi nhân thọ nói riêng còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục, đổi mới.Mặt khác, trong su thế hội nhập kinh tế quốc tế và trong điều kiện nước ta ra nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm.... Vì vậy, rất cần thiết phải có những đổi mới toàn diện, tạo nên bước phát triển đột phá trong ngành BH phi nhân thọ. Xuất phát từ những yêu cầu trên, tác giả đã chọn chủ đề :“Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu về đề tài Ở Việt Nam, TTBH phi nhân thọ mới được hình thành từ năm 1994. Ngành BHTM nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng còn rất non trẻ, nhìn chung còn là lĩnh vực mới mẻ. Do đó, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, mới chỉ dừng lại ở một số chuyên đề, hội thảo ở một lĩnh vực nhất định của TTBH phi nhân thọ. Một vài luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu về thị trường bảo hiểm Việt Nam, tuy nhiên mới chỉ nghiên cứu trên lĩnh vực Maketing, lịch sử kinh tế… và cũng chỉ trong một vài lĩnh vực cụ thể. Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể đặc biệt là trên góc độ Kinh tế chính trị và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 PGS –TS Phương Ngọc Thạch đã viết chuyên đề về thị trường bảo hiểm: vấn đề và kiến nghị, song mới chỉ nói riêng về bảo hiểm con người và bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu. Ths. Nguyễn Tiến với chuyên đề: Mở cửa TTBH Việt Nam - thực trạng và giải pháp. Chuyên đề không đánh giá mà chỉ bàn về những quan điểm của Chính phủ trong việc phát triển TTBH, xoay quanh việc mở cửa TTBH. Tác giả Trần Đình Ba, với đề tài BH phi nhân thọ trong quá trình mở cửa TTBH Việt Nam mới chỉ đề cập đến vấn đề tăng doanh thu phí bảo hiểm. Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam của tác giả Trần Trung Tính (2002), nghiên cứu trong lĩnh vực maketing của TTBH nói chung. Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Quá trình phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2004 - thực trạng và giải pháp, của tác giả Trịnh Thị Xuân Dung ( 2005), nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử kinh tế và cũng chỉ tập trung nghiên cứu những DNBH lớn trong điều kiện thực tế của thời gian nghiên cứu. Nhìn chung các luận văn trên mới chỉ nghiên cứu TTBH trong phạm vi “đóng” mà không đặt nó trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, các luận văn đó cũng chỉ tập trung nghiên cứu về mặt kinh doanh BH mà chưa chú trọng đến mảng đầu tư vốn nhàn dỗi vào nền kinh tế của các DNBH. Điểm khác biệt của luận văn là nghiên cứu toàn diện, tổng thể TTBH phi nhân thọ dưới góc độ kinh tế chính trị và đặt nó trong điều kiện hội nhập KT quốc tế. Đồng thời nghiên cứu đầy đủ cả KDBH và đầu tư trở lại nền kinh tế cũng như vị trí, vai trò của các DNBH phi nhân thọ với tư cách là trung gian tài chính trong thị trường tài chính. 3. Mục đích và nhiệm vụ khoa học của luận văn: - Góp phần làm rõ những vấn đề về lý luận về BH phi nhân thọ và TTBH PNT. Vận dụng những vấn đề đó vào điều kiện thực tế ở Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng TTBH phi nhân thọ ở Việt nam trong thời gian từ 1994 đến 2005.Khảo sát kinh nghiệm TTBH một số nước. Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 - Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTBH PNT. - Đề xuất những phương án, giải pháp nhằm phát triển TTBH phi nhân thọ ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận chung về TTBH phi nhân thọ. Những nhân tố để phát triển TTBH phi nhân thọ. Phạm vi: Nghiên cứu toàn bộ TTBH PNT Việt Nam từ 1994 đến 2005. 5. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lịch sử với phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, phương pháp so sánh, hệ thống hóa cũng được sử dụng để thực hiện luận văn. 6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn - Làm rõ những vấn đề chung về BH PNT và TTBH phi nhân thọ. - Trình bày một số kinh nghiệm về phát triển TTBH PNT ở các nước trên thế giới, có thể vận dụng vào phát triển TTBH PNT ở Việt Nam. - Qua phân tích thực trạng và hệ thống các giải pháp nhằm cải thiện môi trường KDBH PNT ở Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBH PNT, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực KDBH PNT để phát triển thị TTBH PNT ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm phi nhân thọ và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. Chương 3: Định hướng và giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 KẾT LUẬN Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 1.1. BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP 1.1.1. Những vấn đề chung về bảo hiểm thương mại và bảo hiểm phi nhân thọ Trong đời sống xã hội, con người phải thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại với tự nhiên, xã hội và cũng luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra như: Bão, lụt, động đất, sóng thần, rét, hạn hán, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, mất trộm, mất cắp tài sản, ốm đau dịch bệnh, mất việc làm, hỏa hoạn, bạo lực… đều có ảnh hưởng đến thu nhập và hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…gây tác động xấu đến KT XH nói chung. Để đối phó, xử lý các rủi ro con người có các biện pháp khác nhau. Có thể là kiểm soát, ngăn chặn việc xảy ra rủi ro, nhưng trên thực tế có nhiều loại rủi ro bất ngờ không thể kiểm soát được. Biện pháp khác là chấp nhận rủi ro tức là tự khắc phục hậu quả.Cũng có thể chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng -đây chính là bảo hiểm.BH là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Như vậy, BH ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.1.1.1. Khái niệm và nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại a) Khái niệm: Có rất nhiều cách khái niệm về BHTM.Tùy thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực mà các khái niệm có một số điểm khác nhau: - Theo ủy ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa kỳ thì: Bảo hiểm là việc tập trung các tổn thất bất ngờ bằng việc chuyển giao những rủi ro gây ra chúng cho những người bảo hiểm khi họ cam kết bồi thường cho Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 những tổn thất này, cung cấp các quyền lợi bằng tiền khác khi tổn thất xảy ra, hoặc cung cấp các dịch vụ liên quan đến rủi ro. - Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì: Bảo hiểm là sự thỏa thuận, qua đó một bên ( Người bảo hiểm) cam kết sẽ thanh toán cho bên kia ( Người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm), một khoản tiền nếu có sự cố xảy ra gây tổn thất về tài chính cho Người được bảo hiểm. Trách nhiệm thanh toán những tổn thất này được chuyển giao từ Người tham gia bảo hiểm đến Người bảo hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, Người bảo hiểm đòi Người được bảo hiểm một khoản tiền đó là phí bảo hiểm. - Một cách toàn diện hơn người Pháp cho rằng: Bảo hiểm là một hoạt động, thông qua đó một cá hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả nếu rủi ro xảy ra, nhờ vào khoản đóng góp cho mình hay cho người khác. Khoản bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhiệm, tổ chức này có trách nhiệm trước các rủi ro và bù trừ chúng theo qui luật thống kê. Dù BHTM được khái niệm bằng cách nào nhưng nó đều thể hiện bản chất của BH nói chung đó là sự san sẻ rủi ro trên cơ sở số lớn của các cá nhân và tổ chức xã hội thông qua hoạt động của các tổ chức BH. Nói cách khác BH là phương sách xử lý tủi ro, nhờ đó việc chuyển giao, phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh của các DNBH. b) Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại *) Nguyên tắc số đông bù số ít: KDBH là việc người BH tìm kiếm lợi ích kinh tế dựa trên cơ sở hợp đồng BH, mà theo đó đổi lấy phí BH, người BH cam kết thực hiện bồi thường, hoặc trả tiền BH cho người được BH khi có sự kiện BH xảy ra. Khoản tiền bồi thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí BH mà các DNBH nhận được. Để làm được điều này, hoạt động của BHTM phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt không thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào. Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 Các DNBH thông qua việc huy động bằng hình thức phí BH, thành lập nên quỹ bồi thường để chi trả cho các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia BH. Các DNBH đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số lớn. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia BH thì quỹ BH tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm BH chỉ có thể được triển khai có hiệu quả khi có nhiều nhu cầu về cùng loại dịch vụ đó. *) Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm: Về nguyên tắc, những rủi ro có thể được BH là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được và những nguyên nhân gây ra rủi ro phải là khách quan và không cố ý. Vì vậy, các DNBH thường không nhận BH cho các trường hợp tổn thất gây ra do hành vi cố ý của người tham gia BH (ví dụ cố ý tự tử), những tổn thất đã xảy ra, hoặc chắc chắn sẽ xảy ra ( ví dụ hao mòn tự nhiên, giảm giá trị thương mại..), hay những tổn thất bởi người tham gia BH vi phạm nghiêm trọng pháp luật…Để đảm bảo nguyên tắc này, trong các điều khoản của hợp đồng BH luôn qui định các rủi ro bị loại trừ. Nguyên tắc này nhằm tránh việc bồi thường cho những tổn thất có thể thấy trước hoặc chắc chắn sẽ xảy ra. Đồng thời làm giảm sác xuất rủi ro trong khi tính toán và đưa ra mức phí BH chính xác, hợp lý. Nguyên tắc này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các DNBH mà chính những người tham gia BH cũng được hưởng mức phí BH hợp lý và cảm thấy công bằng hơn khi mua BH. *)Nguyên tắc phân tán rủi ro: Các DNBH có chức năng huy động và thành lập quỹ BH trên cơ sở sự đóng góp của nhiều người. Đây là một quỹ tài chính lớn và dùng để thực hiện cam kết bồi thường và chi trả BH. Tuy nhiên các DNBH cũng phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn mà không phải lúc nào DNBH cũng đảm bảo được khả năng thanh toán ( có thể thấy điều này ở các DNBH có qui mô nhỏ, hoặc mới thành lập). Vì lý do trên, các nhà BHTM thường không nhận những rủi ro quá lớn vượt quá khả năng tài chính của mình. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kỵ là phải từ Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 chối nhận BH, đồng thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, các DNBH áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro đó là đồng BH và tái BH. Nếu trong đồng BH, nhiều DNBH cùng nhận BH cho một rủi ro lớn thì tái BH lại là phương thức trong đó, một DNBH nhận BH cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt phần rủi ro cho một hoặc nhiều DNBH khác. *) Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Nguyên tắc này đòi hỏi các DNBH phải có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện điều khoản để soạn thảo hợp đồng đảm bảo cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà BH là sản phẩm dịch vụ và là sản phẩm “vô hình”. Người mua chỉ có trong tay một hợp đồng, một cam kết chứ không hề có một sản phẩm cụ thể. Vì vậy, chất lượng sản phẩm có được đảm bảo hay không, quyền lợi của người mua có được đầy đủ công bằng hay không… đều chủ yếu dựa vào sự trung thực từ phía các DNBH. Ngược lại, nguyên tắc này cũng đòi hỏi người tham gia BH phải trung thực khi kê khai về những đối tượng trước khi tham gia BH, để xác định mức phí phù hợp, cũng như phải trung thực khi khai báo rủi ro trong khi đòi bồi thường. Mọi hành vi gian lận, không trung thực, nhằm trục lợi BH sẽ bị pháp luật xử lý. *) Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia BH phải có một số quan hệ với đối tượng tham gia BH và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản và quyền nghĩa vụ nuôi,cấp dưỡng đối với đối tượng được BH. Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng BH cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại nhằm thu lợi từ một hợp đồng BH. Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, còn có một số nguyên tắc đó là nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc khoán…áp dụng cho từng trường hợp cụ thể. 1.1.1.2 Bảo hiểm phi nhân thọ và phân loại bảo hiểm phi nhân thọ a) Bảo hiểm phi nhân thọ: Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào đưa ra một khái niệm riêng cho BH phi nhân thọ. Song có thể hiểu khái niệm về BH phi nhân thọ chính là khái niệm BH thương mại, bởi lẽ: Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 Nguyên tắc hoạt động, đối tượng và lĩnh vực hoạt động của BHTM cũng chính là những nguyên tắc, đối tượng và lĩnh vực hoạt động của BH PNT . Đối tượng bao gồm các loại tài sản (hữu hình và vô hình), con người và một số trách nhiệm phát sinh do mối quan hệ giữa con người với con người. Vì vậy, theo tiêu thức đối tượng, BHTM gồm có: BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự và BH con người (bao gồm con người PNT và BH nhân thọ). Như vậy, có thể hiểu BHTM hoạt động trên hai lĩnh vực PNT và nhân thọ - trong đó BH nhân thọ chỉ là một hình thức của BH con người.( BH nhân thọ là sự cam kết trong đó người BH sẽ trả cho người tham gia BH một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra, còn người tham gia BH phải nộp phí BH theo qui định của hợp đồng. BH nhân thọ là quá trình BH các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người, đồng thời nó còn có tính chất tiết kiệm). BH PNT không có tính tiết kiệm và chỉ BH rủi ro khách quan, bất ngờ. Chúng ta có thể thấy rõ điều muốn nói ở trên qua sơ đồ sau: BHIỂM TÀI SẢN BHIỂM BẢO BẢO PHI HIỂM BHIỂM TNDSỰ THƯƠNG MẠI BHIỂM CON NGƯƠÌ NHÂN HIỂM THỌ BH CON NGƯỜI PNT THƯƠNG MẠI BHIỂM NHÂN THỌ b) Phân loại bảo hiểm phi nhân thọ: Tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm ý nghĩa mà các sản phẩm BH được phân chia thành các nhóm như sau: *) Nếu căn cứ theo hình thức tham gia, BH phi nhân thọ có hai loại: Bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Phần lớn các sản phẩm BH PNT là BH tự nguyện. Việc tham gia BH hay không phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia BH. Các DNBH đáp ứng được hay không cũng tùy thuộc vào khả Website: http://www.docs.vn Email :[email protected] Tel (: 0918.775.368 năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của DN đó. Trong khi đó, BH bắt buộc bao gồm các sản phẩm BH mà pháp luật qui định các tổ chức cá nhân phải tham gia BH và các DNBH phải phục vụ theo một số điều khoản, mức phí và mức trách nhiệm BH theo qui định của nhà nước. Hiện nay ở Việt Nam có một số loại BH bắt buộc như: BH bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và hành khách trên xe, BH trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật, BH trách nhiệm nghề nghiệp của DN môi giới BH, một số loại BH cháy nổ. *) Nếu căn cứ theo đối tượng bảo hiểm phi nhân thọ có ba loại: BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự và BH con người phi nhân thọ. - Bảo hiểm tài sản: Là loại BH có đối tượng là tài sản ( có thể là hữu hình hoặc vô hình). Những tài sản hữu hình tồn tại dưới hình thể vật chất ( nhà cửa, phương tiện vận chuyển, đường xá, cầu cống bến cảng, cây trồng vật nuôi…) và tài sản vô hình là phát minh, sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa…Với sự đa dạng đó, cho đến nay không phải tất cả các loại tài sản đều đã có thể được BH, song cũng đã hình thành nhiều loại BH tài sản khác nhau. Hiện nay, ở Việt nam có những nghiệp vụ BH tài sản cơ bản sau: + Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; BH hàng hóa vận chuyển nội địa. + BH thân tàu ( tàu biển, tàu hoạt động nội thủy, sông hồ,thuyền đánh cá) + Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. + Bảo hiểm thân máy bay. + Bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng; Bảo hiểm lắp đặt. + Bảo hiểm tài sản trong vận chuyển dầu, thăm dò khai thác dầu khí. + Bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt. + Bảo hiểm nông nghiệp ( cây trồng vật nuôi). + Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. + Một số nghiệp vụ khác: BH tiền trong két, nhà tư nhân,trộm cắp,tín dụng … Đặc trưng cơ bản của BH tài sản: Người được BH có thể do chủ sở hữu hoặc người được giao quyền chiếm hữu sử dụng, người thừa kế. BH tài sản có thể Website: http://www.docs.vn Email 10 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 nhận BH một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản , không BH lớn hơn giá trị tài sản đó. Trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường không thể lớn hơn thiệt hại của tài sản đó trong một sự cố BH. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS): TNDS là một loại trách nhiệm pháp lý, nó phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. TNDS được coi là biện pháp cưỡng chế, nó được áp dụng đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật. Nhìn chung TNDS là trách nhiệm bồi thường thiệt hại .Tại điều 3.10 Bộ Luật dân sự nước ta đã chỉ rõ: “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra. Người gây thiệt hại… phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại”.TNDS có hai loại TNDS theo hợp đồng và TNDS ngoài hợp đồng. Một số nghiệp vụ BH TNDS cơ bản: + BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 và hành khách trên xe. + Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hàng hóa vận chuyển trên xe. + Bảo hiểm TNDS của chủ tàu biển. + Bảo hiểm TNDS của chủ hãng hàng không + Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm. + Bảo hiểm TNDS của chủ thầu đối với người thứ ba trong xây lắp. Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm TNDS: Đối tượng BH trong BH TNDS mang tính trìu tượng: Khi thiết lập hợp đồng thì đối tượng BH chưa xuất hiện. Nó chỉ biểu hiện cụ thể khi có sự cố xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Phương thức BH có thể là có giới hạn (được ấn định trong hợp đồng), hoặc không giới hạn (không ấn định trước mà bồi thường theo phát sinh trách nhiệm) - Bảo hiểm con người phi nhân thọ: Là loại BH có mục đích thanh toán những khoản trợ cấp hoặc số tiền ấn định cho người được BH hoặc người được thụ hưởng BH, trong trường hợp xảy ra những sự kiện tác động đến chính bản thân người được BH. Những rủi ro trong BH con người PNT là tai nạn, bệnh tật, ốm đau, tử vong. Vì lý do giá trị con người là không thể xác định bằng tiền, nên Website: http://www.docs.vn Email 11 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 trong BH con người không có khái niệm BH trùng, và thuật ngữ “chi trả BH” hoặc “thanh toán tiền BH” được thay thế cho “bồi thường bảo hiểm”. - Một số loại BH con người ở Việt Nam hiện nay: BH tai nạn con người, BH trợ cấp nằm viện và phẫu thuật, BH sinh mạng cá nhân, BH toàn diện học sinh, BH tai nạn hành khách, BH tai nạn thuyền viên, BH khách du lịch….. - Đặc trưng của BH con người PNT: Đối tượng của BH con người PNT là tính mạng, sức khỏe: Đây là một phạm trù phi giá trị hóa.Số tiền BH, được ấn định trước trên hợp đồng BH. Khi có sự kiện BH, các khoản tiền BH được thanh toán mang tính chất khoán chứ không phải là bồi thường thiệt hại. Việc phân loại như trên sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm BH khác nhau. Mặt khác, nó giúp các DNBH quản lý tốt nghiệp vụ và tiến hành tổ chức kinh doanh khoa học và có hiệu quả cao hơn. 1.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ a) Đặc điểm của bảo hiểm phi nhân thọ - Quá trình hoạt động KDBH phi nhân thọ, là quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ của các DNBH. - Trên phương diện xử lý rủi ro, BH là loại biện pháp rất có hiệu quả. Cơ chế hoạt động là chuyển giao, phân tán rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Cơ chế đó khiến cho việc gánh chịu rủi ro, đặc biệt là những rủi ro trầm trọng vượt quá khả năng chống đỡ của mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức trở nên dễ dàng hơn. - Đã có ý kiến cho rằng, ở một góc độ nào đó BH PNT là “kinh doanh rủi ro”điều này đúng nhưng chưa đủ. Một trong những đặc điểm của BH PNT là chỉ nhận BH cho những rủi ro có thể xảy ra và gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng,sức khỏe..mà không có tính chất tiết kiệm như BH nhân thọ.Điều đó cũng có nghĩa chỉ khi các rủi ro được BH gây thiệt hại cho người được BH thì mới được bồi thường. Khi hết thời hạn BH mà không có rủi ro xảy ra thì người được BH hết quyền lợi và đương nhiên sẽ không được trả lại số phí BH đã đóng. Website: http://www.docs.vn Email 12 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - Thời hạn của hợp đồng BH phi nhân thọ thường là 01 năm hoặc ngắn hơn ( ngoại trừ một số hợp đồng trong BH xây dựng lắp đặt có thời hạn theo thời gian xây dựng công trình). Thậm chí có những hợp đồng BH chỉ có hiệu lực vài tháng ( ví dụ BH hàng hoá xuất nhập khẩu), vài ngày ( BH vận chuyển hàng hóa, BH du lịch), hoặc chỉ và giờ ( BH tai nạn hành khách, BH du lịch). - Nếu BH nhân thọ áp dụng kỹ thuật tồn tích, thì bảo hiểm con người phi nhân thọ lại áp dụng kỹ thuật phân chia trong quản lý quỹ tài chính BH. b) Vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ - BH PNT góp phần đảm bảo ổn định đời sống, ổn định tài chính, từ đó ổn định về tinh thần cho người tham gia BH và mang lại sự an toàn cho xã hội. Khi gặp rủi ro thiên tai hay tai nạn bất ngờ, các cá nhân, DN sẽ bị tổn thất về kinh tế hoặc thiệt hại về người.Tổn thất đó sẽ được BH bồi thường hoặc trợ cấp về tài chính, để người tham gia BH nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh. Từ việc hỗ trợ tài chính, BH còn đáp ứng các nhu cầu về đảm bảo an toàn cho người tham gia BH, đưa đến cho họ sự tin cậy về sự an toàn và một chỗ dựa tinh thần. - Do tính chất nghề nghiệp và xuất phát từ chính lợi ích của các DNBH phi nhân thọ, đòi hỏi họ phải có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá rủi ro, thống kê tai nạn, xác định các nguyên nhân và đề ra các biện pháp kiểm soát , ngăn ngừa giảm thiểu rủi ro cho toàn xã hội. Để thực hiện điều đó, các DNBH PNT thường xuyên tiến hành các hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo của mỗi cá nhân mỗi DN. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối mỗi con người và toàn xã hội. - Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động KDBH PNT là tạo lập, quản lý quỹ tài chính đủ lớn, nhằm chủ động đối phó với rủi ro và góp phần làm giảm “tổng rủi ro” của xã hội. Trong cuộc sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi cá nhân hay tổ chức, DN khó mà xác định được có những rủi ro gì mà họ sẽ gặp phải và mức độ thiệt hại là như thế nào, bởi lẽ rủi ro luôn là Website: http://www.docs.vn Email 13 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 ngẫu nhiên và bất ngờ. Vì vậy, họ khó có thể định trước được kế hoạch tài chính để đối phó với những thiệt hại đó. Tuy nhiên, các DNBH có thể tính toán xác suất rủi ro trên cơ sở quy luật số lớn, từ đó có kế hoạch tài chính tương đối phù hợp với những hậu quả của các rủi ro có thể gây nên. - BH PNT là “ tấm lá chắn” hữu hiệu cho các DN, thông qua việc ổn định giá thành sản phẩm. Thật vậy, khi không may gặp rủi ro bất ngờ, DN sẽ bị thiệt hại về tài chính và chắc chắn sẽ đẩy chi phí của DN tăng lên. Khi đó nếu giữ nguyên giá để cạnh tranh, thì sẽ bị giảm lợi nhuận thậm chí bị lỗ. Ngược lại nếu tăng giá thì sẽ mất cạnh tranh về giá. Tác động này là rất lớn nếu DN gặp những thiệt hại lớn do rủi ro. Đây là bài toán rất khó hóa giải,nhất là đối với các DN vừa và nhỏ có số vốn hạn chế dễ bị “ chèn ép” về giá. Bài toán đó sẽ được các DNBH PNT hóa giải một cách đơn giản nếu các DN tham gia BH. - BH PNT góp phần ổn định chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các tổ chức, đơn vị hoạt động bằng nguồn ngân sách Nhà nước có thể tham gia BH. Thay vì bỏ ra số phí BH “ tương đối nhỏ”, mà ngân sách Nhà nước không phải chi ra số tiền có thể rất lớn để trợ cấp cho các thành viên khi gặp rủi ro. Mặt khác, BH PNT cũng còn đóng góp vào ngân sách Nhà nước thông qua các loại thuế. - BH PNT có thể cung cấp một số vốn không nhỏ để đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. Với đặc điểm trong KDBH : phí nộp trước, việc bồi thường, trả tiền BH chỉ phải thực hiện sau đó một thời gian. Vì vậy, lượng vốn phần lớn có thời gian tạm thời nhàn rỗi sẽ được đem đầu tư vào nền kinh tế. Thực tế ở nhiều quốc gia phát triển, các tổ chức BH hoạt động rất mạnh trên thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường vốn. Đóng vai trò là một rung gian tài chính, các tổ chức BH thu hút vốn, cung ứng vốn, thúc đẩy nhanh sự luân chuyển về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. - Bảo hiểm phi nhân thọ cũng góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái BH. Website: http://www.docs.vn Email 14 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - Cuối cùng BH PNT là chỗ dựa tinh thần cho mọi cấ nhân,tổ chức xã hội;giúp họ yên tâm trong cuộc sống sinh hoạt và trong sản xuất kinh doanh. Bởi vì với một giá khiêm tốn ( phí BH), BH PNT có thể giúp đỡ các gia đình các tổ chức, DN khắc phục những hậu quả khôn lường mà rủi ro gây ra. - BH PNT- một trung gian tài chính trong thị trường tài chính: Cũng như các thị trường tài chính, các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Không có trung gian tài chính, thị trường tài chính không thể có lợi ích trọn vẹn, bởi lẽ nó thực hiện việc “ kết nối” những món tiền nhàn rỗi với những người đi vay một cách nhanh chóng, hiệu quả và an toàn nhất. Các doanh nghiệp BHTM, trong đó có DNBH phi nhân thọ là một trong những trung gian tài chính quan trọng trong thị trường tài chính. Các DNBH phi nhân thọ thực hiện trung gian tài chính bằng tích tụ, tập trung một quỹ tiền tệ từ nguồn thu phí BH của khách hàng. Nguồn vốn này phần lớn là có thời gian tạm thời nhàn rỗi và dùng để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức: Mua công trái, trái phiếu, cổ phiếu, đầu tư bất động sản, cho vay ủy thác…. Như vậy, các DNBH PNT đã góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy nhanh sự luân chuyển của vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. 1.1.2. Sự hình thành và phát triển của bảo hiểm phi nhân thọ 1.1.2.1. Bảo hiểm phi nhân thọ trên thế giới: Trên thế giới, BH đã có lịch sử hơn nửa thiên niên kỷ phát triển. Sự ra đời và quá trình phát triển của nó được ghi nhận bởi những dấu ấn đáng chú ý sau: - Ai Cập (khoảng 2.500 năm trước công nguyên) những người thợ đẽo đá đã biết lập quỹ tương trợ để giúp đỡ những người gặp hoạn nạn. - Babylone (khoảng 1700 năm trước công nguyên) và Athènes (khoảng 500 năm trước công nguyên) xuất hiện hệ thống vay mượn với lãi suất rất cao, có khi lên đến 400% nhằm phục vụ cho việc buôn bán và vận chuyển hàng hóa. Hình thức cho vay với “mạo hiểm lớn”. Điểm đáng chú ý ở quan hệ cho vay mượn là Website: http://www.docs.vn Email 15 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 nếu hàng hoá có rủi ro, tổn thất thì người vay không phải trả khoản tiền đã vay. Thực chất đó là một sự kết hợp giữa hoạt động vay mượn và ý đồ BH. - Rôme: Hệ thống cho vay dựa trên những điều kiện tương tự đã được thiết lập, lãi suất tối đa lên đến 50%. - Tuy nhiên quan hệ vay mượn đó đã bị lạm dụng và sau này bị cấm như một hình thức cho vay nặng lãi. Từ đó đã dần dần hình thành nên một hệ thống mới: các nhóm nhà buôn chấp nhận trả một khoản tiến nhất định để được đảm bảo giá trị tàu thuyền và hàng hoá chuyên chở. - Thế kỷ 14, những thỏa thuận BH đầu tiên xuất hiện gắn liền với hoạt động giao lưu, buôn bán hàng hoá bằng đường biển đã rất phát triển vào thời kỳ đó. Bản hợp đồng cổ nhất còn được lưu giữ đến ngày nay được phát hành tại Gênes - Italia vào năm 1347. - Những thoả thuận BH trong lĩnh vực hàng hải đó có nội dung cơ bản là: một bên là nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền nhất định, nếu hàng hoá, tàu thuyền không đến được nơi giao hàng thì bên kia (nhà bảo hiểm) sẽ trả cho họ một khoản tiền phù hợp. Những thỏa thuận đó đã đánh dấu chính thức cho sự khởi đầu của BH phi nhân thọ. Kể từ thời điểm đó trong xã hội đã xuất hiện các tổ chức BH (công ty BH đầu tiên của ngành vận tải biển và đường bộ được thành lập năm 1424 tại Gênes). - Những tổ chức BH bắt đầu đứng ra cung cấp một loại dịch vụ đặc biệt trong xã hội, họ ký kết các hợp đồng BH, đảm bảo cho các khách hàng trước rủi ro. Hoạt động BH của họ mang tính kinh doanh, hoàn toàn khác với công việc dự trữ, dự phòng. - Sau BH hàng hải phải nói đến BH hỏa hoạn. Tại những thành thị đông đúc của thế kỷ 17 ở Châu Âu, hầu hết nhà cửa đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lửa để sưởi, đun nấu và chiếu sáng. Vì thế rủi ro nhà cửa bị bắt lửa rất lớn (Năm 1666 vụ hỏa hoạn ở London đã thiêu cháy khoảng 1.300 nóc nhà, trong đó có đến 87 nhà thờ). BH hỏa hoạn đã ra đời sau sự cố đó. Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển Website: http://www.docs.vn Email 16 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 của sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ BH đã xuất hiện và phát triển rất nhanh: BH ô tô, máy bay, trách nhiệm dân sự… - Ngày nay BH đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. BHTM nói chung và BH PNT nói riêng đang giữ một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nhiều quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển.(Theo tạp chí SIGMA số 4/1997 của SWISS: Nếu tính bình quân/năm, người Nhật đã chi tiêu nhiều nhất về bảo hiểm: 5.088USD/người dân. Đứng thứ hai là Thụy Sỹ: 4.507USD/người.Phần lớn các nước công nghiệp đạt mức 1.200USD đến 2.400USD/người.Các nước công nghiệp hóa thườngở mức dưới 100USD/người) 1.1.2.2.Bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam: BH PNT Việt Nam ra đời muộn hơn nhiều so với thế giới. Hoạt động BH đã có ít nhiều ngay từ thời kỳ nước ta còn bị Pháp đô hộ và ở miền Nam, song thời điểm đáng chú ý là sự ra đời của Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) ngày 17/12/1964 và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/01/1965. Trong suốt một thời gian dài, Bảo Việt hoạt động với cơ chế độc quyền. Cho đến ngày 18/12/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/NĐ-CP về KDBH, đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển TTBH ở nước ta. Bắt đầu từ năm 1994 Việt Nam mới thực sự có TTBH. 1.1.3. Sự cần thiết khách quan phải phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.3.1. Bảo hiểm phi nhân thọ góp phần tạo ra môi trường và kích thích kinh tế - xã hội phát triển. - Quỹ BH PNT dùng để bồi thường những thiệt hại cho người tham gia BH, giúp họ ổn định tài chính và đời sống khi không may gặp rủi ro.Từ đó góp phần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển. - Nhờ có quỹ BH PNT mà ngân sách nhà nước thay vì phải trợ cấp để khắc phục những hậu quả do rủi do bất ngờ là chi một khoản tiền nhỏ đóng góp vào quỹ BH. Do đó, có điều kiện để đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. Website: http://www.docs.vn Email 17 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - Quỹ BH nhàn rỗi của BH phi nhân thọ được sử dụng để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đây là nguồn tài chính đáng kể góp phần làm phong phú nguồn vốn cho thị trường tài chính. - BH không chỉ góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo việc làm cho người lao động mà còn góp phần tạo ra thu nhập cho nền kinh tế, tức là góp phần làm tăng tổng sản phẩm trong nước ( GDP); nói cách khác nó góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Cũng cần thấy rằng, sự phát triển kinh tế xã hội có tác động tích cực đến sự phát triển của bảo hiểm nói chung, BHPNT nói riêng.Giữa BH và phát triển KTXH có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển. Bởi lẽ: Kinh tế - xã hội càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân càng cao thì nhu cầu về BH càng lớn. Điều đó đã trở thành qui luật, và như vậy sự phát triển của BH phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội. - Kinh tế phát triển, thu nhập của người lao động được nâng cao, mọi nhu cầu của con người càng phát triển, trong đó có nhu cầu đảm bảo cho cuộc sống, sức khỏe, tài sản. Hay nói cách khác khả năng và điều kiện để tham gia các loại hình BH càng nhiều. - Kinh tế phát triển, chính trị ổn định thì hệ thống pháp lý pháp lý được hoàn thiện, tạo nên môi trường kinh doanh tốt. Đó cũng là điều kiện làm cho BHTM nói chung và BH PNT nói riêng kinh doanh có hiệu quả và phát triển. - Kinh tế - xã hội phát triển thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, các hoạt động trong đời sống văn hóa- nghệ thuật phong phú… thúc đẩy các nghiệp vụ BH mới ra đời, làm phong phú, đa dạng thêm hoạt động BH. - Kinh tế phát triển, cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế làm cho BH PNT cũng mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà cả quốc tế. 1.1.3.2. Vai trò của TTBH phi nhân thọ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - BH PNT là một dịch vụ tài chính. TTBH PNT là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của thị trường tài chính. Vì vậy, TTBH nói chung và TTBH phi Website: http://www.docs.vn Email 18 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 nhân thọ nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường tài chính. Đây là điều kiện và cơ sở để thúc đẩy nhanh hơn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Thị trường BH phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Một mặt nó là một trong những yếu tố quan trọng của môi trường đầu tư nước ngoài nói chung. Mặt khác, cơ sở hạ tầng và các yếu tố của TTBH phi nhân thọ phát triển sẽ thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực KDBH phi nhân thọ.Từ đó, thúc đẩy KTXH phát triển. - Thị trường BH phi nhân thọ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tích cực trong việc nâng cao năng lực về mọi mặt của các DNBH. Đồng thời tạo cho các DNBH trong nước có điều kiện và nhiều cơ hội để mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài. - Trong quá trình hội nhập, TTBH phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đồng thời nó tạo ra cơ sở và điều kiện để các DNBH PNT nước ngoài đầu tư tích cực và hiệu quả vào nền kinh tế. 1.1.3.3. Phát triển TTBH phi nhân thọ vừa đáp ứng nhu cầu vừa thúc đẩy nhanh hơn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Tự do hóa thương mại dịch vụ, trong đó có dịch vụ BH là xu thế chung của thế giới mà Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Mặt khác trong quá trình hội nhập quốc tế, tất yếu sẽ diễn ra phân công lao động quốc tế, sự giao lưu về mọi mặt kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…quá trình này đòi hỏi phải có hệ thống dịch vụ tài chính đi kèm, trong đó không thể thiếu dịch vụ về bảo hiểm. Vì vậy, phát triển TTBH phi nhân thọ là yêu cầu và xu thế chung của thế giới. - Để đẩy nhanh quá trình hội nhập và thực hiện phân công lao động quốc tế một cách có hiệu quả. Một trong những yêu cầu cấp thiết là phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, trong đó nội dung quan trọng là xây dựng và phát triển Website: http://www.docs.vn Email 19 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 đồng bộ các loại thị trường. TTBH phi nhân thọ là một bộ phận của thị trường tài chính. Do đó, phát triển TTBH phi nhân thọ là do đòi hỏi của sự phát triển đồng bộ các loại thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Trong quá trình hội nhập, phát triển TTBH phi nhân thọ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực KDBH phi nhân thọ nói riêng.Nó không chỉ tạo nên một xã hội an toàn, ổn định, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội mà còn tạo cho nền kinh tế một nguồn vốn đầu tư phát triển không nhỏ. Từ đó tạo ra thu nhập cho nền kinh tế, hay nói cách khác nó góp phần làm tăng trưởng kinh tế quốc dân.. - Quá trình toàn cầu hoá và quốc tế hóa đã tạo ra cho toàn thế giới trở thành một ngôi nhà chung mà biên giới sẽ chỉ là “đường biên giới mềm”.Mặt khác khi kinh tế xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về đảm bảo đời sống, tài sản, tính mạng ngày càng cao, việc xây dựng một thế giới an toàn, ổn định theo một chuẩn mực quốc tế là nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong điều kiện hội nhập. Hơn thế nữa, bảo hiểm phi nhân thọ là một ngành dịch vụ tài chính mang tính toàn cầu, rủi ro BH không giới hạn trong phạm vi một nước, các DNBH phải thực hiện liên kết đồng BH, tái BH để phân tán rủi ro và cùng nhau gánh chịu tổn thất xảy ra. Do vậy TTBH các nước chịu tác động lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau.Vì vậy phát triển TTBH phi nhân thọ là đòi hỏi khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - BH là một trong những nội dung quan trọng trong đàm phán và thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế trong quá trình tự do hoá thương mại nói chung và dịch vụ tài chính, BH nói riêng. (Ở Việt Nam đó là những cam kết trong quan hệ thương mại song phương và đa phương của Việt Nam với các nước trong khối ASEAN, hiệp định thương mại Việt Mỹ, các cam kết về dịch vụ tài chính của Tổ chức thương mại quốc tế WTO... ). Vì vậy, rất cần thiết phải phát triển TTBH cho phù hợp với thông lệ, các cam kết và tiêu chuẩn quốc tế. Website: http://www.docs.vn Email 20 : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - BH phi nhân đóng vai trò quan trọng trong việc bảo toàn vốn đầu tư, đảm bảo tính mạng và tài sản khác, cũng như nghĩa vụ trước pháp luật cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, nó là yếu tố không thể thiếu trong môi trường đầu tư nước ngoài. Vì vậy, muốn tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và hoàn thiện cần thiết phải phát triển TTBH, trong đó có TTBH phi nhân thọ. Tóm lại: TTBH phi nhân thọ và sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, cần thiết phải phát triển TTBH một cách toàn diện, vững chắc và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Có như vậy, BH phi nhân thọ mới thực sự là “ tấm lá chắn” hữu hiệu cho mọi cá nhân tổ chức, đồng thời là một kênh huy động vốn đáng kể cho nền kinh tế và là một yếu tố quan trọng trong môi trường đầu tư nước ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 1.2. NỘI DUNG VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 1.2.1. Đặc điểm, phân loại và sản phẩm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ 1.2.1.1.Khái niệm Thị trường bảo hiểm theo nghĩa hẹp là sự tiếp xúc giữa những người có cùng mục đích giao dịch mua bán các sản phẩm bảo hiểm. Theo thuật ngữ bảo hiểm, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. TTBH không nhất thiết phải là một địa điểm cụ thể. Như vậy có thể thấy TTBH không có không gian xác định. 1.2.1.2. Đặc điểm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ - TTBH phi nhân thọ ra đời muộn hơn so với các thị trường khác, bởi lẽ nhu cầu BH chỉ phát sinh khi có một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Khi kinh tế xã hội phát triển đến một mức độ nhất định, thu nhập và đời sống được cải thiện, môi trường pháp lý đã ổn định, các loại thị trường khác như thị trường hàng hoá
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan