BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
(Đã sửa sau thẩm định_để xuất bản)
GIÁO TRÌNH
TRIẾT HỌC
(Dùng cho khối không chuyên ngành Triết học trình độ đào tạo
thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học xã hội và nhân văn)
Hà Nội, 12/2013
1
MỤC LỤC
Chươn
g
Nội dung
1
Khái luận Triết học
2
Bản thể luận
3
Phép biện chứng
4
Nhận thức luận
5
Học thuyết Hình thái kinh tếxã hội
6
Triết học chính trị
7
Ý thức xã hội
8
Triết học về con người
2
Trang
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC
1. Triết học và vấn đề cơ bản của triết học
a) Triết học và đối tượng của triết học
Quan niệm về triết học
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ VI (tr. CN)
và đã đạt được thành tựu rực rỡ trong các nền triết học Trung Quốc, Ấn
Độ và Hy Lạp cổ đại.
Theo gốc Hán tự, thuật ngữ “triết” được có nghĩa là “trí”, chỉ sự
hiểu biết, nhận thức sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh. Trong văn hóa Ấn
Độ, thuật ngữ “triết” là “darshana”, có nghĩa là “chiêm ngưỡng” nhưng
mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt
con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân
sinh. Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, thuật ngữ “triết học” lần đầu
xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng
Latinh thì thuật ngữ triết học “philosophia” gồm hai từ ghép: “philos” là
“yêu thích” và “sophia” là sự thông thái; ý nghĩa của thuật ngữ triết học
là “ yêu mến sự thông thái”. Vì vậy, triết học được xem là hình thức cao
nhất của tri thức, vừa mang tính định hướng vừa nhấn mạnh đến khát
vọng tìm kiếm chân lý của con người; còn “nhà triết học” (triết gia)
được gọi là nhà thông thái, nhà tư tưởng người có khả năng nhận thức
được chân lý và làm sáng tỏ bản chất của sự vật, hiện tượng...
3
Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, ở thời kỳ đầu hay
sau này, người ta đều quan niệm triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự
nhận thức sâu sắc thế về giới, nắm bắt được chân lý, hiểu được bản
chất của sự vật, hiện tượng. Thời gian xuất hiện và cách thức sử dụng
thuật ngữ triết học ở phương Đông và phương Tây tuy có khác nhau,
song ý nghĩa, mục đích và cách thức thể hiện cơ bản là giống nhau,
thống nhất, đều chỉ hoạt động tinh thần, thể hiện khả năng nhận thức,
cách thức, phương pháp đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng , có
trình độ khái quát hoá và tư duy trừu tượng cao.
Theo quan điểm mácxít, triết học là hình thái ý thức xã hội đặc thù,
là học thuyết chung nhất về tồn tại và nhận thức; là khoa học về những
quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Vì vậy, có thể quan niệm, triết học là hệ thống tri thức lý luận
chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người
trong thế giới ấy.
Nguồn gốc ra đời của triết học
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có
nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Về nguồn gốc nhận thức:
Theo quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, lịch sử loài người bắt đầu
từ đâu thì lịch sử triết học bắt đầu từ đấy. Song, với tư cách là tri thức lý
luận chung nhất, triết học đồng loạt xuất hiện cả ở phương Đông và
phương Tây vào khoảng thế kỷ VIII VI TCN, khi chế độ chiếm hữu nô
lệ ra đời, trong xã hội đã hình thành chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất; đã có giai cấp và nhà nước. Hệ quả tất yếu của các yếu tố nêu
trên là lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay, tầng lớp trí thức ra
4
đời. Họ có điều kiện nghiên cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan
niệm thành học thuyết, lý luận. Vào thời kỳ này, triết gia đã xuất hiện
và triết học được hình thành. Chủ thể sáng tạo các học thuyết, lý luận
triết học được lịch sử ghi nhận là Khổng Tử ở Trung Quốc, Thích Ca
Mâu Ni ở Ấn Độ, Talet ở Hy Lạp, v.v.. Nói cách khác, triết học chỉ ra
đời khi con người đã đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ
thống hóa để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
Sự ra đời của triết học gắn liền với nguồn gốc xã hội, tức là sự
xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ xã hội có giai cấp đầu tiên của nhân
loại. Vào thời ấy, lao động đã phát triển đến mức phải phân chia thành
lao động trí óc và lao động chân tay, chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, giai cấp và nhà nước lần lượt ra đời, làm cho triết học, tự nó
mang trong mình tính giai cấp sâu sắc, nó công khai tính đảng là phục vụ
cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc lý luận có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Sự phân chia thành hai nguồn gốc như trên chỉ có tính chất
tương đối.
Vấn đề đối tượng triết học
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo
từng giai đoạn lịch sử. Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là
“triết học tự nhiên”, bao hàm trong nó toàn bộ tri thức của nhân loại.
Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng,
triết học là “khoa học của mọi khoa học ”. Thời kỳ này, triết học đã đạt
được những thành tựu đáng kể. Hệ thống các quan điểm triết học đã ra
đời và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của triết học các thời đại
sau nó, thậm chí ảnh hưởng đến cả sự phát triển của toán học, vật lý
5
học, hóa học, thiên văn học và các ngành khoa học xã hội và nhân văn
như đạo đức học, mỹ học, dân tộc học , xã hội học, v.v..
Vào thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu, quyền lực của giáo hội bao trùm
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, triết học trở thành “nô lệ” của thần
học, được coi là “cây thánh giá bằng vàng, ngự trị trên lâu đài nhận
thức”. Vì thế, triết học chỉ còn nhiệm vụ là chứng minh sự đúng đắn
của Kinh thánh, luận giải và thuyết phục người ta tin tưởng vào Chúa
Trời. Triết học tự nhiên được thay thế bằng triết học kinh viện.
Vào thế kỷ XV XVI, cùng với sự phát triển của các môn khoa học
tự nhiên là sự phục hồi tưởng triết học duy vật cổ đại. Triết học dần
dần tách khỏi thần học và các khoa học cụ thể, phát triển thành các bộ
môn riêng biệt với các học thuyết về bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức
luận, nhận thức luận, logic học, mỹ học, đạo đức học…
Vào thế kỷ XVII XVIII, triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức
của khoa học tự nhiên thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đóng
vai trò tích cực trong đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
Đỉnh cao của sự phát triển triết học duy vật thời kỳ này là ở Anh, Pháp,
Hà Lan với những đại biểu tiêu biểu: Phranxi Bêcơn, Tômát Hốpxơ
(Anh), Điđrô, Henvêtiuýt, Hônbách (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)…
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, sự phát triển của các khoa học
cụ thể và thành tựu mà nó đạt được đã làm phá sản tham vọng của các
nhà triết học muốn biến triết học thành “khoa học của mọi khoa học”;
trong số đó, triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang
tham vọng đó.
Vào những năm 40 của thế kỷ thứ XIX, triết học Mác ra đời, C.Mác
và Ph. Ăngghen đã làm cuộc cách mạng trong triết học. Vì thế, triết học
6
Mác đã đoạn tuyệt với các quan niệm sai lầm khi coi triết học là “ khoa
học của mọi khoa học”. Với thế giới quan duy vật biện chứng, triết học
Mác đã xác định đúng đắn đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương
pháp nghiên cứu của mình; đặt cơ sở khoa học cho các môn khoa học cụ
thể phát triển. Với tư cách là một khoa học, triết học Mác nghiên cứu
những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy.
b) Vấn đề cơ bản của triết học và chức năng cơ bản của triết học
Vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các hiện tượng trong thế giới chỉ có thể hoặc là hiện tượng
vật chất, tồn tại bên ngoài ý thức chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần
tồn tại trong ý thức chúng ta. Mặc dù các học thuyết triết học đ ề ra các
quan niệm khác nhau về thế giới thì câu hỏi đặt ra cần trả lời là: Thế
giới tồn tại bên ngoài đầu óc con người có quan hệ như thế nào với thế
giới tinh thần tồn tại trong đầu óc con người? Tư duy của con người có
khả năng hiểu biết tồn tại thực của thế giới hay không? Có thể nói, bất
kỳ trường phái triết học nào cũng có cái chung là đề cập đến và giải
quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ở đâu, lúc nào việc nghiên
cứu được tiến hành một cách khái quát trên bình diện vấn đề quan hệ
giữa vật chất và ý thức thì lúc đó tư duy triết học được bắt đầu.
Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay
giữa tự nhiên và tinh thần là vấn đề cơ bản của triết học. Đây là vấn đề
cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết triết học trong lịch sử,
quyết định sự tồn tại của triết học. Kết quả và thái độ của việc giải
quyết vấn đề cơ bản triết học quyết định sự hình thành thế giới quan và
phương pháp luận của các triết gia, xác định bản chất của các trường
7
phái triết học. Giải quyết vấn đề này là cơ sở, điểm xuất phát để giải
quyết các vấn đề khác của triết học, đồng thời quyết định cách xem xét
các vấn đề khác trong đời sống xã hội.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời câu
hỏi: Giữa vật chất và ý thức, giới tự nhiên và tinh thần cái nào có trư ớc,
cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai trả lời câu hỏi:
Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Tuỳ thuộc vào lời giải đáp cho câu hỏi thứ nhất, các học thuyết
triết học khác nhau chia thành hai trào l ưu cơ bản là chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế
giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người
và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan
vào bộ óc con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật
chất.
Hình thái lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật
chất phác, ngây thơ thời cổ đại. Hình thái này đã xuất hiện ở nhiều dân
tộc trên thế giới mà tiêu biểu là ở các nước: Ấn Độ, Trung Quốc và Hy
Lạp, La Mã cổ đại. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chất
phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Quan
điểm đó nói chung là đúng đắn nhưng do khoa học chưa phát triển nên
triết học chưa thể dựa vào thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên
ngành. Do vậy, chủ nghĩa duy vật chưa thể đứng vững trước sự tấn
công của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, đặc biệt trong thời kỳ Trung cổ.
Hình thái thứ hai là chủ nghĩa duy vật, máy móc, siêu hình thế kỷ
XVII XVIII. Hình thái này ra đời khi giai cấp tư sản đang lên, nhằm
8
chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo của giai cấp phong kiến. Nh
ưng do ảnh hưởng của quan điểm máy móc, cơ học và phương pháp mô
tả, thực nghiệm, chia cắt nên chủ nghĩa duy vật không thoát khỏi quan
điểm máy móc, siêu hình.
Quá trình đấu tranh khắc ph ục các thiếu sót máy móc, siêu hình và
duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội của chủ nghĩa duy vật thế
kỷ XVIIXVIII đồng thời là quá trình ra đời của hình thái lịch sử thứ
ba là chủ nghĩa duy vật biện ch ứng. Nó được xây dựng và không
ngừng phát triển trên cơ sở khoa học, công nghệ hiện đại và thự c
tiễn của thời đại mới.
Đối lập với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cho rằng, ý thức,
tinh thần có trước và là cơ sở cho sự tồn tại của giới tự nhiên, vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm cũng xuất hiện ngay từ thời cổ đại và tồn tại dư ới
hai dạng chủ yếu: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm
chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nổi tiếng: Platôn,
Hêghen... cho rằng, có một thực thể tinh thần ("lý tính thế giới"; "tinh
thần tuyệt đối", "ý niệm tuyệt đối") là cái có trư ớc thế giới vật chất,
tồn tại ở bên ngoài con người và độc lập đối với con người, sản sinh ra
và quyết định tất cả các quá trình của thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu nổi tiếng: Béccơli,
Hium, Phíchtơ, v.v., cho rằng cảm giác, ý thức của con người là cái có
trước và quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng bên ngoài.
Các sự vật, hiện tượng chỉ là "những tổng hợp của cảm giác", là "phức
hợp của các cảm giác". Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan,
9
chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận luôn cả tính quy luật khách quan
của các sự vật, hiện tượng và tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy ngã.
Cả hai dạng của chủ nghĩa duy tâm, tuy có khác nhau trong quan
niệm cụ thể nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi ý thức, tinh thần
là cái có trước, là cái sản sinh ra và quyết định vật chất. Vì vậy, tôn giáo
thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận cho các quan
điểm của mình. Tuy nhiên, thế giới quan tôn giáo dựa trên cơ sở lòng tin.
Còn chủ nghĩa duy tâm triết học dựa trên cơ sở tri thức, là sản phẩm của
tư duy lý tính của con người. Do vậy, các học thuyết triết học duy tâm ít
nhiều đều có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển tư tưởng triết
học nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật có mối liên hệ chặt chẽ với các lực lượng, các
giai cấp tiến bộ, cách mạng và luôn gắn bó, quan hệ mật thiết với sự
phát triển của khoa học. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc xã hội là mối
liên hệ với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, nguồn gốc
nhận thức của nó là tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận thức, tách
ý thức ra khỏi thế giới vật chất.
Lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm (hai đảng phái chính) tạo nên động lực bên
trong của sự phát triển triết học, đồng thời biểu hiện cuộc đấu tranh hệ
tư tưởng của các giai cấp đối nghịch trong xã hội.
Các học thuyết triết học thuộc nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy
tâm) đều cho rằng, thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất, một trong
hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước quyết định cái kia.
Ngoài nhất nguyên luận còn có các học thuyết triết học nhị nguyên luận,
đó là các học thuyết cho rằng, vật chất và ý thức là hai nguyên thể song
10
song tồn tại, là hai nguồn gốc tạo nên thế giới. Ngoài ra, còn có cả
những học thuyết triết học đa nguyên luận, cho rằng vạn vật là do vô số
nguyên thể độc lập cấu thành. Các học thuyết triết học nhị nguyên luận
hoặc đa nguyên luận đều không triệt để khi giải quyết mặt thứ nhất
vấn đề cơ bản triết học; do đó thường sa vào chủ nghĩa duy tâm.
Đối với mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, trả lời câu hỏi con
người có khả năng nhận thức được thế giới hay không, đa số các nhà
triết học, cả duy vật và duy tâm đều trả lời khẳng định, tức là thuộc tr
ường phái "khả tri". Triết học gọi đó là tính đồng nhất của t ư duy và tồn
tại. Các nhà triết học duy vật tìm cơ sở của sự đồng nhất đó ở vật chất,
còn các nhà triết học duy tâm tìm cơ sở đó ở ý thức, tinh thần. Các nhà
triết học cho r ằng, con ng ư ời không thể hiểu bi ết th ế gi ới, h ọc
thuyết của họ đượ c gọi là "thuyết không thể biết" (bất khả tri).
Thuyết không thể biết đã bị phê phán gay gắt. Đồng thời, chính thực
tiễn của con ng ười đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách triệt để
nhất.
Chức năng cơ bản của tri ết h ọc
Cũng như mọi khoa học, triết học cùng một lúc thực hiện nhiều
chức năng khác nhau. Đó là các chức năng thế giới quan và phư ơng pháp
luận, chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng dự báo và phê phán...
Tuy nhiên, chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là
hai chức năng cơ bản của triết học nói chung và là "thiên chức" của triết
học Mác Lênin nói riêng.
Chức năng thế giới quan: Trong thế giới, những vấn đề đặt ra và
cần tìm lời giải đáp, trước hết là những vấn đề thuộc về thế giới quan.
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con
11
người và xã hội loài người. Có thể ví thế giới quan như một “thấu
kính”, qua đó, con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như xem
xét bản thân mình để từ đó, xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc
sống và lựa chọn cách thức hoạt động sao cho phù hợp để đạt được mục
đích đặt ra. Đây là cơ sở đúng đắn để mỗi người xây dựng nhân sinh
quan, xác định lẽ sống một cách tích cực trong nhận thức và cải tạo thế
giới. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan,
làm cho thế giới quan phát triển như quá trình tự giác dựa trên sự tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Thế giới
quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí, vai trò của con
người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng. Tr
ước hết, hệ thống quan điểm duy vật mácxít là nhân tố định hướng cho con
người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết
học để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện t
ượng và xem xét chính mình. Nó giúp cho con người có cơ sở khoa học đi
sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức đ ược mục đích ý
nghĩa của cuộc sống.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành
quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người
xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình. Trên một ý nghĩa
nhất định, thế giới quan cũng đóng vai trò của phư ơng pháp luận. Giữa
thế giới quan và phương pháp luận trong triết học có sự thống nhất hữu
cơ.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng
tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập
12
nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí
quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội
nhất định.
Các khoa học đều góp phần giúp con người hình thành thế giới quan
đúng đắn. Trong đó, thế giới quan triết học là hạt nhân lý luận của thế giới
quan, làm cho thế giới quan của con người phát triển như một quá trình
tự giác.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để
đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.
Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng
là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng
tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư t
ưởng phản cách mạng, phản động.
Chức năng phương pháp luận: Phương pháp luận là hệ thống về
những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung
để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận cũng
có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp, là hệ thống các quan điểm
chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp
luận là một bộ phận không thể thiếu trong bất kỳ một ngành khoa học
nào. Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành
ba cấp độ: Phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung, phương
pháp luận chung nhất. Phương pháp luận ngành (còn gọi là phương pháp
luận bộ môn) là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào
đó. Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho
một số ngành khoa học. Phương pháp luận chung nhất là phương pháp
13
luận được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các phương pháp
luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động
khác của con người. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con
người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó; với việc
nghiên cứu những quy luật chung của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết
học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, không được xem thường
hoặc tuyệt đối hoá phương pháp luận triết học. Nếu xem th ường ph
ương pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phư ơng
hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong công tác. Ngược lại, nếu tuyệt
đối hoá vai trò của phương pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo
điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dư ỡng phương pháp luận duy vật
biện chứng giúp mỗi người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy
ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
2. Sự hình thành, phát triển tư tưở ng triết học trong l ịch s ử
a) Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư
tưởng triết học trong lịch sử
Trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, có thể nhận thấy lịch sử triết
học có hai nhóm tính quy luật. Nhóm tính quy luật phản ánh của lịch sử
triết học được khái quát từ các điều kiện kinh tế, xã hội, sự phát triển
của văn hoá và khoa học trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Nhóm
tính quy luật giao lưu bao gồm giao lưu đồng loại và giao lưu khác loại.
Giao lưu đồng loại bao gồm giao lưu theo lịch đại, qua đó thấy được
tính kế thừa, phát triển tư tưởng triết học nhân loại theo chiều dọc của
thời gian. Giao lưu theo đồng đại còn chỉ ra sự liên hệ, ảnh hưởng, kế
14
thừa, kết hợp các học thuyết triết học trong cùng một thời gian. Giao lưu
khác loại bao gồm giao lưu giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội
khác, kể cả kế thừa các hình thái ý thức xã hội có liên quan để phát triển
và giao lưu, ảnh hưởng giữa các hệ thống triết học khác nhau trong lịch
sử. Theo đó, sự phát sinh, phát triển của lịch sử tư tưởng triết học chịu
sự quy định của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan mang tính
quy luật.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu phát triển của thực tiễn
xã hội. Dựa trên nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, sự
phát triển của tư tưởng triết học trong lịch sử luôn phụ thuộc vào tồn tại
xã hội, mà trước hết là phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất
vật chất. Mặt khác, quan điểm, tư tưởng triết học là sự phản ánh nhu
cầu phát triển của chính thực tiễn xã hội. Vì vậy, nó phụ thuộc vào thực
tiễn đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị xã hội trong lịch sử. Thực
tiễn lịch sử cho thấy, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, triết học chưa
xuất hiện và cũng chưa có tư duy triết học với đúng nghĩa của nó, bởi vì,
người nguyên thuỷ chưa đủ sức tách mình ra khỏi giới tự nhiên, tồn tại
như một xã hội. Triết học chỉ thực sự xuất hiện khi điều kiện kinh tế
xã hội phát triển, khi trong xã hội có sự phân công thành lao động trí óc
và lao động chân tay; có sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp. Qua
sự phản ánh thực tiễn, các nhà triết học đã hệ thống hóa các quan điểm,
quan niệm rời rạc thành học thuyết, lý luận triết học.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào
sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Trình độ phát
triển của tư duy triết học nhân loại phụ thuộc vào trình độ nhận thức
15
chung của nhân loại, tức là phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Sự phát triển của khoa học, vừa là cơ sở, vừa
là điều kiện cho triết học phát triển. Ngược lại, sự phát triển của triết
học vừa là kết quả, vừa là cơ sở cho sự phát triển của các khoa học. Vì
vậy, với tính cách là một khoa học, sự phát triển của triết học tất yếu
phải dựa vào sự phát triển của khoa học; mặt khác, triết học lại có vai
trò không thể thiếu đối với sự phát triển của các khoa học cụ thể. Thực
tiễn lịch sử cho thấy, điều kiện kinh tế xã hội và trình độ phát triển
khoa học là yếu tố xét đến cùng quyết định nội dung các luận thuyết
triết học và trong chừng mực, quyết định cả hình thức thể hiện tư tưởng
triết học.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm. Đây là vấn đề mang tính quy luật nội tại,
xuyên suốt, quyết định trực tiếp đến sự phát triển của triết học trong
lịch sử. Quá trình phát triển của triết học trong lịch sử, đồng thời là quá
trình đấu tranh liên tục giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm;
giữa khoa học và tôn giáo. Trong quá trình đấu tranh với các học thuyết
đối lập, mỗi học thuyết triết học cũng tự đấu tranh để khẳng định mình
và phát triển lên một trình độ mới. Quá trình đấu tranh giữa triết học duy
vật và triết học duy tâm trong lịch sử, cũng đồng thời là một quá trình
giao lưu, tác động giữa các trường phái, môn phái triết học với nhau.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là đấu
tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản trong nội dung tư tưởng triết học nhân
loại. Thông qua cuộc đấu tranh đó mà triết học của mỗi thời đại có sự
phát triển mang tính độc lập tương đối so với sự phát triển của điều
16
kiện kinh tế xã hội, chính trị, văn hoá và khoa học; làm cho mỗi hệ
thống triết học có thể "vượt trước" hoặc "thụt lùi" so với điều kiện vật
chất của thời đại đó. Đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ lịch sử tư tưởng triết học, tạo
thành động lực bên trong lớn nhất của sự phát triển tư tưởng triết học
nhân loại, là bản chất của toàn bộ lịch sử tư tưởng triết học.
Sự hình thành, phát triển của t ư t ưở ng tri ết h ọc ph ụ thu ộc vào
cuộc đấu tranh giữa hai ph ương pháp nhận thức trong l ịch s ử là
phươ ng pháp biện chứng và phươ ng pháp siêu hình . Lịch sử có nhiều
cách trả lời khác nhau đối với vấn đề tồn tại của các sự vật, hiện
tượ ng trong thế gi ới xung quanh ta, nh ưng đều quy về hai quan điểm
chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình. Sự phát triển của lịch
sử triết học cũng chính là sự phát triển của trình độ nhận thức, của
phươ ng pháp tư duy nhân loại, thông qua cuộc đấu tranh giữa biện
chứng và siêu hình. Đây cũng là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập,
tạo nên động lực bên trong của sự phát triển tư tưở ng triết học nhân
loại. Đấu tranh giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình gắn
liền với cuộc đấu tranh giữa hai th ế gi ới quan đối lập nhau là thế
giới quan duy v ật và thế giới quan duy tâm trong lịch sử tri ết h ọc.
Quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng triết học nhân loại
phụ thuộc vào sự kế thừa các tư tưởng triết học trong tiến trình lịch sử.
Sự phát triển của ý thức xã hội luôn mang tính kế thừa và do vậy, với
tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự phát triển của tư tưởng triết
học trong lịch sử cũng luôn mang tính kế thừa. Đây là quy luật giao lưu
tư tưởng triết học theo chiều dọc của tiến trình lịch sử, là một phương
thức tái tạo tư tưởng để qua đó, triết học không ngừng phát triển. Triết
17
học của mỗi thời đại lịch sử bao giờ cũng dựa vào tài liệu lịch sử của
triết học các thời đại trước, lấy đó làm tiền đề, điểm xuất phát cho hệ
thống triết học của mình. Tuy vậy, bao giờ nó cũng được chọn lọc, bổ
sung và phát triển phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Đây chính là sự
phủ định biện chứng, bao gồm duy trì những giá trị tiềm thế và cải tạo
có phê phán những thành tựu tư tưởng có giá trị. Nghĩa là, quá trình phát
triển của các trường phái, môn phái và hệ thống triết học trong lịch sử
luôn có sự kế thừa biện chứng.
Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phụ thuộc vào sự
liên hệ, ảnh hưởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học
trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế. Tư tưởng triết học nhân loại
không phải là tổng số đơn thuần của các hệ thống triết học hình thành
trong lịch sử và cũng không phải các trường phái, hệ thống triết học ở
từng nước, từng khu vực tồn tại tách rời, độc lập với nhau. Những học
thuyết triết học phát sinh và phát triển ở mỗi nước, mỗi khu vực bằng
các phương thức khác nhau, đều có mối quan hệ nhất định; vừa chịu ảnh
hưởng, vừa tác động trở lại những học thuyết triết học ở các nước và
khu vực khác. Đây chính là tính quy luật về sự giao lưu cùng loại, cùng
thời đại lịch sử của các tư tưởng triết học khác nhau ở các vùng, miền,
các quốc gia, dân tộc khác nhau. Sự phát triển đó là kết quả của sự
thống nhất, liên hệ và tác động lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học
trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào
mối quan hệ với các hình thái tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật... Đây là tính quy luật về sự giao lưu khác loại, giao
lưu giữa hình thái ý thức triết học với các hình thái ý thức xã hội khác.
18
Đây là biểu hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, trong đó các
hình thái ý thức xã hội có mối quan hệ, tác động lẫn nhau. Các hình thái
của ý thức xã hội, như chính trị; pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, nghệ
thuật, v.v. luôn ảnh hưởng đến nội dung của tư tưởng triết học.
Song, trong nhiều trường hợp, hệ tư tưởng triết học lại trở thành cơ
sở lý luận của hệ tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo nghệ
thuật. Nhờ sự giao lưu đồng loại và khác loại mà một dân tộc có trình độ
phát triển kinh tế không cao, nhưng vẫn có thể có trình độ phát triển triết
học vượt xa các dân tộc khác.
b) Sự ra đời và phát triển của triết học phương Đông
Quan niệm triết học phương Đông: Triết học phương Đông là quan
niệm của các triết gia phương Tây nhằm chỉ một khu vực chậm phát
triển, không có triết học nên là đối tượng cần phải “khai hoá”, truyền
cái văn hoá, triết học phương Tây “văn minh” vào khu vực này. Đây cũng
là sự “giáo đầu” để hợp lý hoá các chủ trương về chính trị trước khi đi
xâm lược, mở rộng vùng thuộc địa của một số nước phương Tây.
Các triết gia phương Tây cho rằng, ở phương Đông không có các
học thuyết nghiên cứu về “bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức luận và
nhận thức luận”; do đó, ở phương Đông không có triết học, hoặc nếu có
thì đó cũng chỉ là thứ triết lý, không có hệ thống, không có cơ sở khoa
học.
Quan niệm như trên là không đúng, không có cơ sở khoa học. Thực
ra, từ điều kiện lịch sử, mục đích, yêu cầu, nội dung và ý nghĩa của tư
duy, lý luận, từ rất sớm, ở phương Đông đã tồn tại và phát triển những
nền triết học tiêu biểu như Ai Cập, Lưỡng Hà Babilon, Ấn Độ, Trung
Quốc; khi mà vào thời điểm đó, ở phương Tây, chưa có bút tích, dấu vết
19
gì về văn hoá. Nghiên cứu lịch sử triết học của các nước phương Đông,
chúng ta hiểu rõ nhận định này.
Một số đặc điểm chung của triết học phương Đông
Các mầm mống tư tưởng triết học ở các nước phương Đông xuất
hiện từ rất sớm, vào khoảng thiên niên kỷ thứ ba trước công nguyên,
trong các nền văn minh nông nghiệp như Ai Cập, Lưỡng Hà Babilon,
Ấn Độ, Trung Quốc.
Ngay từ khi mới xuất hiện và trong suốt thời kỳ Cổ, Trung đại,
triết học phương Đông đều lấy con người và các vấn đề liên quan đến
con người làm đối tượng nghiên cứu, chẳng hạn: Triết học Trung Quốc
đi sâu nghiên cứu các vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức và luân lý; triết
học Ấn Độ đi sâu nghiên cứu các vấn đê tôn giáo và tâm linh.
Thế giới quan bao trùm của triết học phương Đông là duy tâm,
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có diễn ra,
song không cân sức.Trong cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa duy vật chỉ là
yếu tố chống lại cả một hệ thống là chủ nghĩa duy tâm. Đó là điều giải
thích tại sao khoa học, kỹ thuật ra đời từ rất sớm ở phương Đông, song
lại không thể phát triển và phát huy tác dụng trong đời sống xã hội.
Sự phân chia niên đại, thời kỳ của triết học phương Đông thường
theo các triều đại phong kiến là phù hợp với sự tồn tại, phát triển và suy
tàn của các triều đại vua chúa; vì vậy, rất khó phân chia niên đại, thời kỳ
của triết học phương Đông theo các hình thái kinh tế xã hội như ở
phương Tây. Bởi vì, ở phương Đông, trong suốt thời gian tồn tại, phát
triển, đã không diễn ra cuộc cách mạng xã hội nào (tính đến cuộc cách
mạng Tân Hợi năm 1911 ở Trung Quốc) mà chỉ có sự thay đổi các triều
đại phong kiến. Do đó, các đời sau, đều lấy học thuyết của đời trước
20
- Xem thêm -