Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giáo trình tâm lý học xã hội...

Tài liệu Giáo trình tâm lý học xã hội

.PDF
71
146
93

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON GIÁO TRÌNH (Lưu hành nội bộ) TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI (Dành cho sinh viên CĐ GD Mầm non) Tác giả: Nguyễn Thị Như Phương Nguyễn Thị Xuân Hương Năm 2016 1 MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................................3 CHƯƠNG 1.......................................................................................................................4 TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC................................................................4 1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành của Tâm lý học xã hội ...............................................4 1.2. Bản chất, đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội ..............................................8 1.3. Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.........................11 CHƯƠNG 2.....................................................................................................................17 CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI ...................................................................................17 2.1. Bắt chước ..............................................................................................................17 2.2. Lây lan...................................................................................................................20 2.3. Ám thị ...................................................................................................................21 2.4. Thoả hiệp...............................................................................................................22 2.5. Đồng nhất hoá .......................................................................................................23 CHƯƠNG 3. TÂM LÝ NHÓM .......................................................................................25 3.1. Khái niệm về nhóm xã hội .....................................................................................25 3.2. Tâm lý nhóm lớn ...................................................................................................26 3.3. Tâm lý nhóm nhỏ...................................................................................................29 CHƯƠNG 4.....................................................................................................................52 CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI..........................................................................52 4.1. Khái niệm chung về hiện tượng tâm lý xã hội ........................................................52 4.2. Các hiện tượng tâm lý xã hội cơ bản ......................................................................52 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................71 2 LỜI NÓI ĐẦU Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập học phần: Tâm lý học xã hội, tài liệu biên soạn nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về bản chất, nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội, cơ chế ảnh hưởng xã hội và đặc trưng một số hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm. Trên cơ sở đó, sinh viên có khả năng vận dụng những tri thức đã học vào nghiên cứu các vấn đề tâm lý xã hội, giải thích các hiện tượng tâm lý xảy ra trong đời sống xã hội nói chung và trong công tác giáo dục trẻ nói riêng. Nội dung tài liệu thể hiện trong 4 chương: Chương 1. Tâm lý học xã hội là một khoa học Chương 2. Các cơ chế tâm lý xã hội Chương 3. Tâm lý nhóm Chương 4. Các hiện tượng tâm lý xã hội Trong quá trình biên soạn tài liệu không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong đồng nghiệp và sinh viên góp ý để tài liệu hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Tác giả 3 CHƯƠNG 1 TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC 1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành của Tâm lý học xã hội Tâm lý học xã hội đã ra đời và phát triển được gần một thế kỷ. Song, những tiền đề để ra đời ngành khoa học này thì đã xuất hiện từ rất sớm. Nói về sự hình thành và phát triển của Tâm lý học xã hội, trước hết phải tìm hiểu những tiền đề để ra đời ngành tâm lý học này. 1.1.1. Những tiền đề triết học. Cũng giống như sự ra đời của tâm lý học, sự hình thành Tâm lý học xã hội có sự đóng góp rất quan trọng của các tư tưởng triết học. Có thể đưa ra một số những tiền đề cơ bản sau: a. Quan điểm của một số nhà triết học Hy Lạp cổ đại Khi nói về quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại có ảnh hưởng tới sự ra đời của Tâm lý học xã hội, chúng ta chú ý nhiều hơn đến quan điểm về xã hội và con người của Platon và Aristotle. - Platon (427 – 374 TCN) trong luận thuyết về đạo đức xã hội và trong phác thảo về một xã hội lý tưởng của mình, ông đã rất chú ý đến các quan hệ liên nhân cách. Ông cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của các cá nhân đến sự ổn định của nhà nước. Trong các tác phẩm của mình, Platon đã quan tâm đến các kiểu loại nhân cách xã hội. Theo ông, trong xã hội có ba kiểu nhân cách cơ bản: a. Những người luôn luôn cố gắng làm vừa lòng người khác (người hướng tới xúc cảm). b. Những người say sưa theo đuổi quyền lực và sự nổi danh (người hướng đến quyền lực). c. Những người luôn có khao khát hiểu biết (người hướng đến tri thức). Ba kiểu nhân cách trên phản ánh ba yếu tố tâm lý của con người: tình cảm, ý chí và trí tuệ. - Aristotle (354 – 322TCN) là một người mở đường vĩ đại của khoa học xã hội. Ông đánh giá cao yếu tố tình cảm. Theo ông, có 3 động lực của sự liên kết con người: tình bạn, sở thích và đồng nhất. Trong đó, tình bạn là động cơ của đa số các nhóm xã hội. Aristotle đánh giá cao vai trò của các nhóm xã hội đối với con người. Ông cho rằng, con người cần phải sống trong các nhóm xã hội như gia đình và nhà nước. Nhóm xã hội cơ bản nhất đối với con người là gia đình. Quan điểm này của ông vẫn còn rất phù hợp với xã hội hiện đại ngày nay. Điều đáng chú ý là Aristotle xem xét con người và khả năng của nó trong các phản ứng xã hội, quan hệ và hoàn cảnh xã hội. Có thể nói, mặc dù các quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại còn khá xa vời các tri thức Tâm lý học xã hội hiện đại, nhưng các tư tưởng này có ảnh hưởng không nhỏ đến các tư tưởng nói chung và tâm lý học xã hội nói riêng ở châu Âu sau này. b. Một số quan điểm về xã hội và cá nhân của các nhà tư tưởng La Mã Quan điểm về xã hội và cá nhân của một số nhà tư tưởng La Mã như M.T. 4 Cicero; St. Augustine rất đáng được quan tâm trong nghiên cứu các tiền đề triết học của sự phát triển Tâm lý học xã hội. M.T. Cicero là đại biểu xuất sắc của tư tưởng La Mã. Khi nghiên cứu về con người và xã hội, ông rất quan tâm đến vấn đề pháp luật, con người phải hành động như thế nào trong khuôn khổ luật pháp của xã hội. St. Augustine (354 – 430 sau CN), ông là đại biểu xuất sắc về tư tưởng xã hội trong thời đại của ông. Các quan điểm của ông về xã hội và cá nhân được tâm lý học xã hội hiện đại đánh giá cao. Đó là các quan điểm về sự liên kết của con người, về vai trò của nhóm xã hội đối với việc hình thành quan điểm, thái độ của cá nhân. Song, các quan điểm của ông lại bị ảnh hưởng lớn của tư tưởng tôn giáo. Augustine đánh giá cao vai trò của Chúa Trời và các lực lượng thần thánh đối với cuộc sống thực tại của con người. Theo ông, cá nhân không chỉ có quan hệ tương tác với các cá nhân khác mà còn có quan hệ với Chúa. c. Những học thuyết về sự thoả thuận xã hội. Những học thuyết về sự thoả thuận xã hội do T. Hobber (1588 – 1679), J. Locke (1632 – 1704), và J.J. Rousseau (1712 – 1778) đưa ra đã được xem như sự mở đường cho Tâm lý học xã hội hiện đại. Các tác giả đã quan tâm nghiên cứu rất nhiều về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân. Học thuyết về sự thoả thuận xã hội của Hobber được phát triển dựa trên 3 yếu tố: - Định đề: bản năng con người bị hạn chế và cô lập từ những người cùng tầng lớp hoặc từ tầng lớp đối lập của xã hội. - Nguyên nhân hoặc thiết lập các nguyên nhân: Tại sao con người tự đặt mình vào các mối liên kết với người khác. - Thiết lập các quy tắc đạo đức từ hai lý do trên. Locke không tin rằng có tồn tại một nhà nước thời kỳ tiền xã hội. Ông đưa ra quan điểm cho rằng con người luôn sống trong xã hội, nhà nước trở thành phương tiện để chấn chỉnh sai trái, bất công và bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người về cuộc sống, tự do và sở hữu. So với học thuyết về thoả thuận xã hội của Hobber và Locke thì học thuyết về sự thoả thuận xã hội của Rousseau được đánh giá cao hơn. Cũng giống như Hobber, ông bắt đầu bằng việc tìm hiểu những hành vi bản năng của con người, sau đó nghiên cứu mối tương tác giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội. Ông cho rằng, trật tự xã hội là điều bất khả xâm phạm. Nó được xây dựng trên cơ sở lợi ích của đa số mọi người. Cái trật tự này không thể bắt nguồn từ bản năng của con người mà cần phải được xây dựng trên sự thoả thuận. 1.1.2. Những trường phái đầu tiên trong tâm lý học xã hội. a. Các trường phái xã hội học Vai trò của xã hội học trong việc hình thành Tâm lý học xã hội được thể hiện qua sự ảnh hưởng của các quan điểm của một số nhà xã hội học. - Auguste Comte (1790 – 1857) Comte đã phân chia tâm lý học theo hai khía cạnh: sinh học và xã hội học. Sự phân chia này có giá trị nhất định trong Tâm lý học xã hội. Khi nói về nhân cách con 5 người, ông đã thiên về khía cạnh bản năng. Theo ông, bản năng con người chia thành 2 loại chính: sự ích kỷ và lòng vị tha. Tính vị tha của bản năng có thể dẫn con người đến sự mềm yếu, nhu nhược. Ông cho rằng, xã hội cần khuyến khích lòng vị tha của con người như một mục đích trọng tâm của tổ chức, bên cạnh đó cần hạn chế tính ích kỷ của cá nhân. Mặc dù rất quan tâm đến tâm lý học cá nhân, nhưng Comte vẫn nhấn mạnh rằng đơn vị xã hội thực là gia đình, nhờ nó mà xã hội phát triển. Gia đình, theo ông ngoài việc duy trì nòi giống còn nuôi dưỡng lòng vị tha của con người. Từ mái ấm gia đình, cá nhân sẽ trở thành thành viên xã hội hữu ích. Tâm lý học cá nhân theo hướng bản năng của Comte đã tác động mạnh đến tâm lý học xã hội tận đầu thế kỷ XX. - Gabriel Tarde (1843 – 1904) Tarde là một người sáng lập ra tâm lý học cá nhân trên cơ sở của xã hội học. Ông phản đối những quan điểm thái quá của tâm lý học cá nhân thời đó. Một công trình nghiên cứu của Tarde có ảnh hưởng lớn đến sự ra đời của tâm lý học xã hội là cuốn: “Những quy luật của sự bắt chước”. Trong cuốn sách này ông đã lý giải cơ sở xã hội của sự tương tác giữa các cá nhân. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra khái niệm mới về sự tương tác. Đây là một tiền đề dẫn đến sự hình thành tâm lý học xã hội. - Durkheim (1858 – 1917) Quan điểm của Durkheim là phản đối sự đề cao quá mức tâm lý học cá nhân khi ông nhấn mạnh đến hệ thống quy định xã hội. Ông ca ngợi và thích tranh luận về học thuyết “ý thức tập thể”. Trong các nghiên cứu của mình, ông quan tâm nhiều đến các kiểu loại hành vi của nhóm hơn là các hành vi của cá nhân. Những nghiên cứu của ông về “ý thức tập thể” là đóng góp đặc biệt quan trọng cho tâm lý học xã hội. - G. Lebon (1841 – 1931) Trong các nghiên cứu của mình, ông chú ý nhiều đến tâm lý học nhóm. Ông đã làm sáng tỏ thêm những quan điểm của Durkheim về các hiện tượng tâm lý của nhóm. Lebon cũng bị ảnh hưởng bởi Tâm lý học xã hội của Tarde. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Lebon là cuốn “Đám đông” (The crowd). Trong cuốn sách này ông đã phân tích rất sâu sắc về tâm lý đám đông – một hiện tượng tâm lý rất đặc thù của Tâm lý học xã hội. Với cuốn sách này, ông đã trở thành người mở đường về vấn đề “hành vi tập thể” hiện đại. - Charles Horton Cooley (1863 – 1929) Cooley là nhà xã hội học Mỹ, người có quan điểm hiện đại về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân. Ông nhấn mạnh, không thể tách rời yếu tố xã hội và yếu tố cá nhân trong cuộc sống của con người. Ông đã viết ba cuốn sách nổi tiếng về vấn đề này: Bản chất con người và trật tự xã hội; Tổ chức xã hội; Sự phát triển xã hội. Cooley bị ảnh hưởng bởi học thuyết “bắt chước” của Tarde, quan điểm về đồng nhất của Schaffle và tâm lý học của W.James. - E.A. Ross (1866 – 1951) 6 Ross là nhà xã hội học người Mỹ, người đã viết cuốn sách Tâm lý học xã hội (1908) – một trong những cuốn sách giáo khoa đầu tiên về ngành khoa học này. Nếu Cooley nhấn mạnh hơn đến khía cạnh tập thể thì Ross lại chú ý đến cả khía cạnh xã hội và khía cạnh cá nhân trong nghiên cứu quan hệ giữa xã hội và cá nhân. Theo ông, vai trò của xã hội thể hiện qua sự ảnh hưởng của nhóm tới cá nhân và vai trò của cá nhân thể hiện qua sự ảnh hưởng của cá nhân tới nhóm. Các vai trò này xảy ra trong các hoàn cảnh xã hội. Quan điểm này của Ross đã bị ảnh hưởng bởi quan điểm của Tarde về “sự bắt chước” trong đời sống xã hội. b. Các trường phái Tâm lý học - Thuyết hành vi của Watson: Thuyết hành vi ra đời vào năm 1913 trong bối cảnh Tâm lý học nội quan bước vào thời kỳ khủng hoảng và một số nhà tâm lý học cho rằng cần phải xác định lại đối tượng nghiên cứu của tâm lý học. Thuyết hành vi là cơ sở để tâm lý học đầu thế kỷ XX từ bỏ di sản của trường phái nội quan và đưa Tâm lý học xã hội hiện đại đến chỗ tìm hiểu con người thông qua các hoàn cảnh xã hội và trước hết là nghiên cứu hành vi của con người. Sự đóng góp to lớn của thuyết hành vi đối với Tâm lý học xã hội thể hiện ở chỗ nó là cơ sở để các nhà tâm lý học phương Tây (trước hết là các nhà tâm lý học Mỹ) xác định đối tượng nghiên cứu của ngành khoa học này – hành vi xã hội của con người. - Thuyết cấu trúc của W. Wundt Một trong những đóng góp lớn của ông đối với việc ra đời của Tâm lý học xã hội là cuốn sách Tâm lý học dân tộc. Cuốn sách này gồm 10 tập, được ông viết trong 20 năm (1900 – 1920). Theo ông, tâm lý học xã hội là một phân ngành cần thiết của Tâm lý học. Ông cho rằng không thể nghiên cứu con người như một cá nhân đơn lẻ, mà cần phải nghiên cứu con người trong những mối quan hệ của con người. - Tâm lý học Gestalt Một trong những đại biểu xuất sắc nhất của tâm lý học Gestalt là K.Lewin, ông đã dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu khía cạnh quan trọng của Tâm lý học xã hội – nhóm nhỏ và nhóm nói chung. Lewin đã sáng lập ra Trung tâm nghiên cứu động thái nhóm. Ông cũng là tác giả của một phương pháp nghiên cứu mới trong tâm lý học xã hội – phương pháp nhóm tập luyện. 1.1.3. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập được đánh dấu bằng sự kiện cuốn sách giáo khoa đầu tiên về Tâm lý học xã hội được xuất bản vào năm 1908. Đó là cuốn Tâm lý học xã hội (Social Psychology) của tác giả Edward A. Ross. Cuốn sách của ông dựa trên cơ sở kết hợp hai khoa học tâm lý học và xã hội học. Nội dung chính được đề cập trong cuốn sách này là sự bắt chước được hình thành, phát triển và thực hiện như thế nào. Ông đã sử dụng hiện tượng bắt chước để giải thích sự thay đổi tư tưởng, thói quen và quan điểm giữa các thành viên trong các nhóm xã hội. 7 Một sự kiện quan trọng nữa góp phần làm cho Tâm lý học xã hội trở thành khoa học độc lập, đó là sự ra đời cuốn sách có tên: Nhập môn Tâm lý học xã hội (Introduction to Social Psychology) của Mc. Dougall. Trong cuốn sách này tác giả đã lý giải sự giống nhau về hành vi giữa cá nhân trong nhóm xã hội thông qua sự bắt chước. Tính đến năm 1954, đã có 52 cuốn sách giáo khoa về Tâm lý học xã hội xuất bản, đến năm 1968 con số này đã tăng lên gần 100 cuốn và tính đến năm 1980, số sách giáo khoa về Tâm lý học xã hội đã lên tới gần 150 cuốn, gần chục tạp chí về tâm lý học xã hội và một số lượng lớn các tuyển tập bài viết, các sách tham khảo có giá trị về ngành khoa học này được hoàn thành. Trong gần một thế kỷ vừa qua, người ta có thể nhận thấy hai xu hướng phát triển của Tâm lý học xã hội: Tâm lý học xã hội phương Tây và Tâm lý học xã hội Xô viết. Hai xu hướng này có sự khác biệt nhất định. Tâm lý học xã hội Xô viết chú ý nhiều đến nghiên cứu các đặc điểm tâm lý của nhóm, trong đó đặc biệt là tập thể (một loại nhóm chính thức) và các nhóm lớn như giai cấp, dân tộc,... Tâm lý học xã hội phương Tây lại quan tâm nhiều hơn đến việc nghiên cứu kinh nghiệm và hành vi xã hội. Tính thực tiễn, ứng dụng trong các nghiên cứu của Tâm lý học phương Tây được thể hiện rất rõ nét. Ở nước ta, Tâm lý học xã hội là một ngành còn rất non trẻ. Song, trong thời gian gần đây, ngành khoa học này đã có những bước phát triển quan trọng. Tâm lý học được giảng dạy ở nhiều trường Đại học, học viện và trường cao đẳng. Nhiều công trình nghiêu cứu về Tâm lý học xã hội đã được dịch và biên soạn. Tính đến nay chúng ta đã có hàng chục cuốn sách giáo khoa, nhiều tài liệu tham khảo đã được các nhà Tâm lý học Việt Nam biên soạn và xuất bản nhằm phục vụ cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu Tâm lý học xã hội. 1.2. Bản chất, đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội 1.2.1. Khái niệm tâm lý học xã hội Bản chất của Tâm lý học xã hội: + Đó là tâm lý chung của nhiều người. Nó được hình thành từ một hệ thống động cơ của một nhóm xã hội cụ thể (nhu cầu xã hội, tâm thế, niềm tin xã hội,…) + Tâm lý xã hội luôn luôn phản ánh thực tại đời sống của một nhóm người. Tồn tại nào thì tâm lý ấy. + Tâm lý học xã hội có bản chất từ hoạt động và giao tiếp (tính duy vật của tâm lý học xã hội). Theo Từ điển tâm lý học Tiếng Anh của Arther S. Rebel and Emily Rebel, tâm lý học xã hội được định nghĩa là một phân ngành của tâm lý học, nó tập trung nghiên cứu các khía cạnh của hành vi con người bao gồm các cá nhân, các nhóm, các tổ chức xã hội và xã hội mang tính tổng thể. Theo từ điển Tâm lý học xã hội do Vũ Dũng chủ biên, tâm lý học xã hội là một phân ngành của tâm lý học, nghiên cứu các quy luật khách quan của sự tác động qua lại giữa các yếu tố tâm lý và xã hội trong hoạt động của cá nhân và các nhóm người. Tâm lý học xã hội nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các nhóm xã hội, các tầng lớp và các giai cấp 8 khác nhau trong xã hội, nghiên cứu các đặc tính (giai cấp, dân tộc, v.v) và các quy luật hình thành những loại hình nhân cách mang tính lịch sử, xã hội, nghiên cứu các cơ chế quan hệ qua lại về mặt tâm lý xã hội trong các nhóm xã hội khác nhau, nghiên cứu các hình thức giao tiếp khác nhau trong tập thể. Tóm lại, theo chúng tôi, tâm lý học xã hội là một phân ngành của tâm lý học, nó tập trung nghiên cứu các hiện tượng tâm lý của một nhóm xã hội cụ thể, nảy sinh từ sự tác động qua lại trong hoạt động và trong giao tiếp giữa các cá nhân ở trong nhóm. Nó chi phối thái độ, hành vi, cử chỉ của cá nhân khi họ ở trong nhóm đó. 1.2.2. Đối tượng của Tâm lý học xã hội Tâm lý học xã hội cũng giống như nhiều ngành khoa học khác, việc xác định đối tượng nghiên cứu là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất. Hiện nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau giữa các nhà tâm lý học của các trường phái tâm lý học về đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội. Trong đó, đặc biệt là có sự khác nhau khá rõ nét giữa tâm lý học Xô viết (cũ) và tâm lý học phương Tây. Các nhà tâm lý học Xô viết cho rằng, đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm. Tuy nhiên, trong số những nhà tâm lý học Xô viết cũng có những quan điểm cụ thể không hoàn toàn đồng nhất nhau. Các nhà tâm lý học Xô viết (cũ), tiêu biểu như: E. X. Kuzơmin, V. I. Xelivanop, K. K. Platonop, E. V. Sôrôkhôva cho rằng đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội là nhân cách “phân loại kiểu người về mặt xã hội - lịch sử”, “các đặc điểm tâm lý của nhân cách”, “sự quy định của xã hội đối với tâm lý của cá nhân”. Một số tác giả khác như V. N. Kolbanopxki, A. I. Goriaseva, A. V. Baranova, A.G. Kovaliop cho rằng đối tượng của tâm lý học xã hội là “những hiện tượng tâm lý của những khối người đông đảo”, “là tâm lý của tập thể”, “sự cộng đồng về tâm lý”. Còn B. D. Parưghin, N. X. Manxurop cho rằng tâm lý học xã hội vừa nghiên cứu tâm lý của nhóm, của khối người đông đảo, vừa nghiên cứu đặc điểm hành vi của nhân cách, của cá nhân khi ở trong nhóm. A.G. Kovaliop thì cho rằng “đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên cứu những nét đặc trưng tâm lý của các nhóm xã hội, các tập thể, cũng như những quy luật hình thành và quy luật hoạt động của các tập thể, các nhóm trong quá trình tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cá nhân”. Khác với quan điểm của các nhà tâm lý học Xô viết trước đây và các nhà tâm lý học Nga hiện nay, các nhà tâm lý học phương tây lại tiếp cận từ góc độ khác. Các nhà tâm lý học phương tây cho rằng, đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên cứu hành vi của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh và môi trường xã hội. Đó là nhận định khái quát, tuy nhiên, nếu xem xét một cách cụ thể cũng có một số vấn đề sau đây: + Quan điểm của Jones và Gerard (1967) cho rằng đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên cứu hành vi cá nhân như là chức năng kích thích xã hội. Ở đây, các tác giả đã nhấn mạnh đến ảnh hưởng qua lại giữa các cá nhân trong nhóm. + Quan điểm của các nhà tâm lý học M. Sherif và C. W. Sherif (1956), Mc David Harari (1968) ,… cho rằng tâm lý học xã hội cần nghiên cứu kinh nghiệm và hành vi 9 của cá nhân trong môi trường xã hội nhất định. + Quan điểm thứ ba cho rằng đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa cá nhân và môi trường xã hội (các nhà tâm lý học đại diện như: Jack H. Curtis Richard Dewey, David G. Myer) Cách tiếp cận thứ nhất (trường phái tâm lý học Xô viết) mang tính khái quát hơn, chúng có phạm vi rộng. Cách tiếp cận thứ hai mang tính cụ thể, rõ ràng: nhận thức – thái độ - tình cảm – hành vi. Như vậy, có thể hiểu rằng: Đối tượng của tâm lý học xã hội nằm ở bản chất các hiện tượng tâm lý xã hội đã được phân tích ở trên. Đó là cái tâm lý của những nhóm xã hội cụ thể, bao gồm những nét tâm lý chung nhất, đặc trưng nhất của nhóm được tạo nên từ sự tác động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm. Nó không phải là cái tâm lý như là sản phẩm hoạt động của chủ thể mỗi người dưới những tác động của hiện thực khách quan. Nó cũng không phải là cái tổng số đơn giản những đặc điểm tâm lý của tất cả những cá nhân trong nhóm hợp thành. 1.2.3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội Tâm lý học xã hội có hai nhiệm vụ chính là nghiên cứu lý luận và nghiên cứu ứng dụng. a. Nghiên cứu lý luận - Xác lập được hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học riêng nằm trong cấu trúc hợp lý, mang đặc thù của khoa học mình. Hiện nay một số khái niệm, phạm trù cấu trúc của tâm lý học xã hội còn chưa rõ ràng để có thể phân biệt được ranh giới của nó với những khoa học lân cận. - Phát hiện được các quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội, chỉ ra cách sử dụng chúng vào việc phát huy nhân tố con người trong các điều kiện hoạt động khác nhau. Cụ thể là những quy luật của sự tác động qua lại trong nhóm, vai trò của cá nhân, vai trò của nhóm trong quá trình này, những điều kiện chủ quan và khách quan của sự hình thành nên những hiện tượng tâm lý xã hội và những hình thái biến động trong tâm lý xã hội. b. Nghiên cứu ứng dụng Những quy luật chung của Tâm lý học xã hội được vận dụng vào một số lĩnh vực khoa học khác cũng như trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội. Từ đó tạo nên những chuyên ngành khác nhau của tâm lý học xã hội. - Tâm lý học dân tộc: Đây là một chuyên ngành quan trọng của tâm lý học xã hội. Nó nghiên cứu tâm lý dân tộc và những biến đổi của tâm lý dân tộc gắn với những chuyển biến lịch sử diễn ra trong đời sống các dân tộc. Nhận thức được tính phong phú, đa dạng hay độc đáo của một dân tộc là yêu cầu cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, con người của một quốc gia. Việc nghiên cứu tâm lý dân tộc còn góp phần quan trọng trong sự hiểu biết giữa các dân tộc, là cơ sở của mối quan hệ hợp tác và liên kết giữa các nước với nhau. - Tâm lý học xã hội trong công tác lãnh đạo và quản lý xã hội. Đây là một chuyên 10 ngành mới của tâm lý học xã hội, nó đi sâu vào nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong hệ thống quản lý, chỉ ra các đặc điểm, cơ chế và quy luật tâm lý đang có ảnh hưởng tới hoạt động này trên cơ sở đó nêu ra những yêu cầu về phẩm chất và năng lực tâm lý cần thiết của những người lãnh đạo và bị lãnh đạo quản lý. - Tâm lý học xã hội trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh Chuyên ngành này nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, nghệ thuật bán hàng, thông tin quảng cáo v.v…Trên cơ sở đó, nêu ra yêu cầu đối với cơ sở sản xuất về số lượng và chất lượng, hình thức của các loại hàng hoá, dịch vụ. - Tâm lý học xã hội trong tín ngưỡng tôn giáo, trong thông tin đại chúng, trong giáo dục y tế, trong đời sống gia đình, trong dư luận xã hội và tâm trạng quần chúng. Phạm vi ứng dụng của tâm lý học xã hội rất rộng. Nó sẽ ngày càng được mở rộng theo sự đòi hỏi của thực tiễn, cũng như khả năng đáp ứng trong quá trình phát triển của nó. 1.3. Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội 1.3.1. Các nguyên tắc nghiên cứu a. Phải đảm bảo tính chất khách quan Nghiên cứu phải đảm bảo tính khách quan, trước hết là phải nghiên cứu từ chính bản thân sự vật, hiện tượng, phải xem xét sự vật, hiện tượng như chúng vốn có trong thực tế, ghi nhận mọi chi tiết, mọi biểu hiện của chúng. b. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong các mối liên hệ của chúng Tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên đều liên hệ, tác động qua lại với nhau.Vì vậy, khi nghiên cứu phải đặt chúng trong mối quan hệ, liên hệ giữa chúng nhằm vạch ra được sự ảnh hưởng lẫn nhau, mối quan hệ nhân quả và những quy luật của sự tác động qua lại giữa chúng. Khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội cần thực hiện tốt các yêu cầu này, bởi vì mỗi hiện tượng tâm lý xã hội đều chịu sự ảnh hưởng và liên quan của các hiện tượng khác. c. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong sự phát triển. Mỗi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên hay trong xã hội đều có quá trình nảy sinh, vận động và phát triển. Tâm lý cá nhân hay của xã hội đều nằm trong quy luật này, có sự phát triển và biến đổi về chất. Bởi vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, nhà khoa học cần xem xét chúng trong một quá trình. d. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn Mỗi sự vật và hiện tượng đều có một cấu trúc nhất định. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra đối với các nhà khoa học là phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng với cả hệ thống các thành phần trong cấu trúc của chúng cũng như mối liên hệ và quan hệ của các thành phần ấy. 1.3.2. Các phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp quan sát Quan sát là sự tri giác chủ động và có hệ thống các hiện tượng tâm lý nhằm tìm ra các đặc điểm đặc trưng và có ý nghĩa của chúng. Trong tâm lý học xã hội, phương pháp quan sát được sử dụng để nghiên cứu hành vi xã hội. • Các bước tiến hành quan sát: 11 - Xác định mục đích, nhiệm vụ quan sát (quan sát để làm gì) - Lựa chọn khách thể quan sát, tình huống quan sát và đối tượng quan sát (quan sát ai, quan sát cái gì) - Lựa chọn cách thức quan sát để ít ảnh hưởng đến khách thể quan sát và thu được những thông tin cần thiết (quan sát như thế nào) • Nhiệm vụ quan sát: là định hướng ban đầu về khách thể, đề xuất giả thuyết và kiểm tra giả thuyết. Các tình huống quan sát có thể là tình huống tự nhiên hoặc tình huống thực nghiệm (do người quan sát chủ động) tạo nên • Đối tượng quan sát: là những hành động ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ của con người trong nhóm hay liên nhóm. Cụ thể là: Hành động nói (hành động ngôn ngữ). Ở đây cần chú ý quan sát tính định hướng, tần số, cường độ, mức độ diễn cảm, đặc điểm của ngôn từ, ngữ pháp, cách phát âm. - Những hành động diễn cảm thể hiện qua nét mặt, thái độ, hành động. - Cử chỉ di chuyển, trạng thái đứng im của con người, khoảng cách giữa người này với người khác, tốc độ, phương hướng vận động, sự va chạm… • Một số ưu điểm và hạn chế: - Ưu điểm: Nó được sử dụng rộng rãi, chiếm ưu thế trong việc thu thập các biểu hiện của tâm lý xã hội. Trong phương pháp này, nhà khoa học có thể sử dụng những máy móc hiện đại như máy ảnh, máy ghi âm, máy quay phim để ghi lại những hiện tượng cần nghiên cứu, khi cần có thể quan sát lại nhiều lần bảo đảm tính khách quan. - Hạn chế: phương pháp này còn có hạn chế là nó đòi hỏi nhiều thời gian; nó chỉ cung cấp những tài liệu về các biểu hiện bề ngoài có tính cảm tính. Bởi vậy, khi dùng phương pháp này nhà khoa học phải thu thập tài liệu với số liệu đủ lớn để có thể chọn lọc trong đó những tài liệu cần thiết. b. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm. Sản phẩm hoạt động bao giờ cũng mang đậm nét những đặc điểm tâm lý của nhóm người tạo ra nó, bao gồm sản phẩm vật chất và tinh thần. Các sản phẩm vật chất như: nhà cửa, vật dụng thông thường,… các sản phẩm tinh thần như âm nhạc, phong tục, tập quán,… Qua sản phẩm hoạt động, nhà khoa học có thể tìm hiểu về trình độ nhận thức, mức độ kỹ xảo, nội dung tình cảm, đặc điểm tính cách của các nhóm người khác nhau. c. Phương pháp điều tra. Dùng để hiểu rõ thái độ của mọi người đối với các biến cố xã hội, những nhiệm vụ xã hội có liên quan đến họ cũng như nhu cầu, nguyện vọng, định hướng hoạt động của họ trong tương lai. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu thông qua công cụ là bảng hỏi. • Các nguyên tắc đặt câu hỏi: - Trong một câu hỏi chỉ cần tìm hiểu một khía cạnh, không nên chứa đựng nhiều nội dung nghiên cứu. - Nên tránh sử dụng các thuật ngữ nước ngoài không được sử dụng rộng rãi trong 12 xã hội, tránh các thuật ngữ chuyên môn quá hẹp, tránh các từ đa nghĩa. - Không nên đưa ra các câu hỏi quá dài, đặc biệt là khi hỏi trực tiếp. - Nếu trong câu hỏi có sử dụng các thuật ngữ không phổ biến thì người điều tra viên có thể giải thích thêm về câu hỏi này để cho khách thể hiểu được. - Các câu hỏi cần được cụ thể hoá, đơn giản hoá đến mức độ cao nhất, tránh đặt câu hỏi một cách chung chung, khó hiểu (rườm rà, tối nghĩa) - Khi đặt câu hỏi có thể đưa ra các phương án trả lời mà mọi người đều có thể hiểu như nhau. - Cần tránh đặt các câu hỏi khuôn mẫu, sáo rỗng hay kiểu “đánh đố” đối với khách thể nghiên cứu - Cần tránh đưa ra các câu hỏi tạo nên thái độ tiêu cực đối với người được hỏi. • Câu hỏi đóng và câu hỏi mở - Câu hỏi đóng là các câu hỏi đưa ra các phương án trả lời, đòi hỏi khách thể nghiên cứu phải chọn một hay một số trong các phương án trả lời. Có hai loại câu hỏi đóng: câu hỏi đóng phân đôi và câu hỏi đóng có nhiều phương án trả lời. - Câu hỏi mở: là dạng câu hỏi không đưa ra các phương án trả lời. Theo yêu cầu của câu hỏi, khách thể tự bộc lộ suy nghĩ của mình. • Cách thức trình bày bảng hỏi: Để bảng hỏi được trả lời tốt, khi xây dựng chúng ta cần chú ý đến một số khía cạnh sau: - Ở trang đầu của bảng hỏi ghi rõ cơ quan, tổ chức tiến hành điều tra. Tiếp theo là lời mở đầu (nêu mục đích, yêu cầu của bảng hỏi). Trong lời mở đầu cần cam kết giữ bí mật tên, tuổi cho người được hỏi. Nên viết ngắn gọn, lịch sự. - Ở phần cuối bảng hỏi nên có lời cảm ơn người được hỏi. - Cần chú ý đến hình thức trình bày bảng hỏi: kiểu chữ, cách trình bày. Những ưu điểm và hạn chế - Ưu điểm: Cho phép tiến hành nghiên cứu trên một địa bàn rộng với số lượng lớn khách thể nghiên cứu. Có thể thu được thông tin về nhiều sự kiện khác nhau trong thời gian ngắn. Không chỉ thu thập được thông tin trong hiện tại mà trong cả quá khứ và tương lai. - Hạn chế: Số liệu điều tra chủ yếu dựa vào đánh giá của khách thể. Độ tin cậy của thông tin phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, khả năng tự trình bày các vấn đề của khách thể. Ngoài ra, độ tin cậy của thông tin còn phụ thuộc vào khả năng thiết kế bảng hỏi của người nghiên cứu, vào sự hợp tác của khách thể Để bổ sung phương pháp điều tra, người ta đã dùng phương pháp phỏng vấn kèm theo. Phương pháp phỏng vấn hay trò chuyện có mục đích giúp cho người điều tra thâm nhập vào cuộc sống xã hội mà họ muốn nghiên cứu, có được thông tin ban đầu về xã hội ấy. Qua trò chuyện sẽ gây được không khí tự nhiên, gần gũi giữa người điều tra và người được điều tra khiến họ có thể thông cảm hơn, tích cực hưởng ứng và trả lời 13 chính xác. Phỏng vấn cũng bị hạn chế là tốn thời gian, nên chỉ có thể tiến hành trong một diện hẹp, có lựa chọn, thông thường là những người lãnh đạo, những cá nhân tiêu biểu. d. Phương pháp thực nghiệm Đây là phương pháp trong đó nhà khoa học chủ động gây ra hiện tượng cần nghiên cứu và đặt người được thực nghiệm vào hoàn cảnh đòi hỏi họ phải có hoạt động tích cực. Ưu điểm: Thực nghiệm tâm lý xã hội có thể tiến hành dưới nhiều hình thức tự nhiên hoặc tiến hành trong phòng thí nghiệm. Phương pháp thực nghiệm giúp cho quá trình nhận thức hiện thực nhanh chóng hơn phương pháp khác. Nó đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của việc nghiên cứu khoa học đem lại những kết quả đáng tin cậy. Nhược điểm: Trong tâm lý học xã hội, thực nghiệm là một phương pháp rất phức tạp, rất khó sử dụng. Bởi vì nó được thực nghiệm đối với con người. Nó không chỉ liên quan đến vấn đề tri thức, tổ chức, giáo dục, tuyên truyền… mà còn liên quan đến các chuẩn mực đạo đức và cả pháp luật. e. Phương pháp trắc nghiệm xã hội Trắc nghiệm xã hội có nghĩa là đo lường xã hội. Phương pháp này được xây dựng trên cơ sở lý luận tâm lý học về xã hội và test tâm lý xã hội nhằm đánh giá các mối liên hệ cảm xúc liên nhân cách trong nhóm. Phương pháp trắc nghiệm xã hội do L. Moreno (1892 – 1974) sáng lập. Moreno đã đưa ra phương pháp này để tìm hiểu các cấu trúc tâm lý xã hội trong các quan hệ liên nhân cách của nhóm. Các cấu trúc này không chỉ xác định các đặc điểm của nhóm mà còn xác định trạng thái tinh thần của con người. - Nhiệm vụ của trắc nghiệm xã hội + Trắc nghiệm xã hội được sử dụng, để chẩn đoán những quan hệ liên nhân cách và liên nhóm với những mục đích làm cho chúng thay đổi tốt hơn và hoàn thiện chúng. + Trắc nghiệm xã hội có thể nghiên cứu các kiểu loại hành vi xã hội của con người trong điều kiện hoạt động của nhóm, đánh giá sự tương hợp tâm lý xã hội của các thành viên trong các nhóm xã hội cụ thể. Song nhiệm vụ cơ bản của trắc nghiệm xã hội là nghiên cứu cấu trúc không chính thức của các nhóm xã hội và bầu không khí tâm lý của nhóm. - Các giai đoạn thực hiện trắc nghiệm xã hội + Xác định nhiệm vụ, khách thể nghiên cứu + Xác định các giả thuyết nghiên cứu cơ bản + Xây dựng bảng hỏi Bảng hỏi của trắc nghiệm xã hội gồm các câu hỏi liên quan đến những khía cạnh cảm xúc của các quan hệ tương hỗ giữa các cá nhân trong nhóm. Đòi hỏi những người tiến hành trắc nghiệm phải thể hiện được mối quan hệ thân ái, gần gũi, cởi mở với các khách thể làm trắc nghiệm. Vì quan hệ như vậy sẽ kích thích được lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của khách thể nghiên cứu. 14 - Các hình thức lựa chọn mẫu trong trắc nghiệm + Sự lựa chọn không hạn chế Nếu trong nhóm có 12 thành viên thì mỗi người trong nhóm sẽ lựa chọn 11 người còn lại của nhóm (trừ bản thân mình) để thực hiện trắc nghiệm. Công thức lựa chọn ở đây là: N – 1, trong đó N là số lượng các thành viên của nhóm thực nghiệm. Như vậy, sẽ có (N – 1) người được lựa chọn để tham gia thực nghiệm. Ưu điểm: khả năng lựa chọn như nhau đối với các thành viên. Nó có thể làm cho các thành viên bộc lộ được cảm xúc của mình. Đây có thể là lát cắt qua mối liên hệ liên nhân cách phức tạp trong cấu trúc nhóm. Nhược điểm: kỹ thuật tính toán khá phức tạp, khó khăn khi nhóm trắc nghiệm có nhiều thành viên. Một nhược điểm khác là xác suất nhận được từ sự lựa chọn ngẫu nhiên là rất lớn. Ví dụ, ta có thể nhận được câu trả lời “Tôi chọn tất cả” + Sự lựa chọn hạn chế Ở đây các khách thể được phép chọn số lượng hạn chế các thành viên của nhóm (số lượng này theo quy định của người làm trắc nghiệm). Ưu điểm: có độ tin cậy cao hơn vì nó sẽ làm người thực hiện trắc nghiệm có ý thức trách nhiệm, chú ý hơn khi lựa chọn. Nhược điểm của cách lựa chọn này là không có khả năng lựa làm sáng tỏ những quan hệ tương hỗ phức tạp trong nhóm. Để khắc phục nhược điểm của mỗi cách lựa chọn, ta có thể kết hợp cả hai cách lựa chọn này. Giai đoạn một là lựa chọn không hạn chế, giai đoạn hai là sự lựa chọn hạn chế. - Phiếu trắc nghiệm xã hội Kết quả nghiên cứu phụ thuộc rất nhiều vào phiếu trắc nghiệm xã hội. Khi xây dựng phiếu trắc nghiệm cần chú ý một số điểm sau: Số lượng các câu hỏi trong phiếu không nên quá nhiều. Trong trường hợp nghiên cứu nhiều người và số lượng câu hỏi trắc nghiệm lớn chúng ta có thể chia ra thành một số phiếu trắc nghiệm nhỏ hơn theo các nội dung nghiên cứu. Phiếu trắc nghiệm xã hội được xây dựng theo trình tự sau: Bước 1: Chuẩn bị danh sách các thành viên của nhóm trắc nghiệm. Mỗi thành viên nắm được số thứ tự của mình trong danh sách đó. Bước 2: Xây dựng phiếu điều tra. Ở phần đầu của phiếu hướng dẫn cách thực hiện trắc nghiệm (hướng dẫn cách trả lời các câu hỏi). Khi trả lời các câu hỏi người được trắc nghiệm cần đánh số thứ tự các thành viên trong nhóm theo danh sách ở phần cột lựa chọn. Các câu hỏi trắc nghiệm được chia thành hai nhóm: + Nhóm I: Người được trắc nghiệm đưa ra sự lựa chọn của mình về các thành viên của nhóm. + Nhóm II: Người được trắc nghiệm đánh giá xem ai trong số các thành viên của 15 nhóm sẽ chọn mình vào vị trí đó. Tức là đánh giá về khả năng lựa chọn của nhóm đối với bản thân anh ta. Trên đây là một số những phương pháp nghiên cứu cơ bản trong tâm lý học xã hội. Các phương pháp này được sử dụng kết hợp với nhau tuỳ theo mục đích của nhà nghiên cứu. NHỮNG HUỚNG ỨNG DỤNG CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI: Tâm lý học xã hội ngày càng được chú ý hơn trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực ứng dụng của nó. - Quản lý và phát triển tổ chức: Huớng vận dụng này đang trở thành phổ biến trong xã hội hiện đại ở các tổ chức thuộc mọi lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh, giáo dục. Những khía cạnh cơ bản gồm: các phương thức quản lý, các phẩm chất tâm lý của nguời quản lý, giao tiếp công việc, phát triển tổ chức, tư vấn tổ chức, quản trị nhân sự, xây dựng và phát triển nhóm làm việc. - Thông tin đại chúng và quảng cáo: Huớng vận dụng này tập trung vào các vấn đề như người truyền tin, thông điệp, sự giải mã thông tin, tự giác các thông điệp, kênh thông tin, qua đó đưa ra các cách thức tổ chức thông tin và tác động hiệu quả nhất đến công chúng. - Gia đình và nhà truờng: Lĩnh vực này bao gồm các nội dung cơ bản như: phổ biến kiến thức tâm lý xã hội, tham vấn tâm lý, tư liệu những lệch lạc tâm lý xã hội, tư vấn chuẩn bị hôn nhân, điều chỉnh các quan hệ gia đình... - Luật pháp và chính trị: Các vấn đề được tập trung giải quyết bao gồm: trẻ phạm pháp vị thành niên, cảnh báo tội phạm xã hội, các nhóm nhỏ tội phạm, đồng giới tham vấn các vấn dề chính trị hình thành hình ảnh chính trị, uy tín chính trị... - Tổ chức hoạt động của các tập thể trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. - Trong lĩnh vực giáo dục đại học, hầu hết các vấn đề cơ bản của Tâm lý học xã hội đều hiện diện: từ việc tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục sinh viên trong nhóm, tập thể đến việc thiết lập, vận hành các quan hệ xã hội và liên nhân cách: giảng viên - sinh viên; từ những hiện tuợng tâm lý xã hội đơn giản nhu sự tương tác qua lại giữa các cá nhân đến những hiện tượng tâm lý xã hội phức tạp như sự đồng nhất hóa, hay sự cố kết, đoàn kết trong tập thể... Do vậy, những tri thức tâm lý học xã hội góp phần đáng kể trong việc phát hiện, lý giải và hình thành các tác động đối với các hiện tượng tâm lý xã hội, từ đó giúp việc tổ chức dạy học diễn ra thuận lợi và có hiệu quả hơn. Câu hỏi ôn tập chương 1 Câu 1: Trình bày sơ lược về lịch sử hình thành của Tâm lý học xã hội? Câu 2: Khái niệm, đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội? lấy ví dụ về ứng dụng của các chuyên ngành khác trong Tâm lý học xã hội, từ đó phân tích để làm nổi bật vai trò của nó trong đời sống xã hội? Câu 3: Trình bày các phương pháp nghiên cứu trong Tâm lý học xã hội? Phương pháp nghiên cứu sản phầm có vai trò như thế nào trong Tâm lý học xã hội, đặc biệt là đối với ngành Giáo dục mầm non? Ví dụ minh họa? 16 CHƯƠNG 2 CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI Các công trình nghiên cứu đã khẳng định: không có một cá nhân nào tồn tại bên ngoài các nhóm xã hội. Trong quá trình giao tiếp, tâm lý của các cá nhân tác động qua lại với nhau, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau. Hành vi của một người trở thành một chỉ dẫn, định hướng cho hành vi của một người khác. Suy cho cùng đời sống tâm lý của mỗi cá nhân đều ảnh hưởng đến tâm lý nhóm (xã hội) và ngược lại, tâm lý của nhóm lại chi phối tâm lý của từng cá nhân. Tất cả các quá trình đó đều xen kẽ, đan quyện với nhau gọi là ảnh hưởng xã hội hay ảnh hưởng giữa các cá nhân trong quá trình giao tiếp. Các quá trình ảnh hưởng xã hội được thực hiện và thông qua các cơ chế tâm lý: bắt chước, lây lan, ám thị, thoả hiệp, đồng nhất hoá. Đây được gọi là những cơ chế tâm lý đặc trưng nhất của ảnh hưởng xã hội. 2.1. Bắt chước 2.1.1. Khái niệm Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các hành động, hành vi, tâm trạng, cách thức suy nghĩ, ứng xử của một người hay một nhóm người nào đó. Có thể thấy biểu hiện của bắt chước ở mọi giai đoạn phát triển khác nhau của cá nhân, đặc biệt ở trẻ em bắt chước giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách. 2.1.2. Một số nghiên cứu về bắt chước a. Nghiên cứu của Tarde G. Người đầu tiên nghiên cứu về bắt chước một cách có hệ thống là Tarde G. được đưa ra trong tác phẩm: “Những quy luật của bắt chước” (1890). Những nét chính trong luận điểm của ông là: - Bắt chước là nguyên tắc nền tảng để xã hội tồn tại và phát triển. Chính nhờ hoạt động bắt chước mà hình thành chuẩn mực và giá trị của nhóm. Bắt chước là trường hợp cá biệt của “quy luật lặp lại thế giới” tổng quát nhất. Nếu trong thế giới động vật quy luật này được thực hiện thông qua di truyền thì trong xã hội loài người quy luật này thực hiện qua hoạt động, hoạt động bắt chước. Bắt chước là nguồn gốc của tiến bộ bởi vì nhờ có cơ chế bắt chước mà các phát minh sáng chế của xã hội loài người duy trì phát triển và khai thác lại. Cũng trong tác phẩm này, ông đã phân ra 4 loại bắt chước: - Bắt chước logic (trí tuệ – ý thức) và phi logíc (cảm tính, phi lý) - Bắt chước hình thức và bắt chước bản chất. - Bắt chước nhất thời (mốt, tâm trạng xã hội) và bắt chước lâu dài (tập quán, phong tục, tín ngưỡng) - Bắt chước lẫn nhau trong phạm vi một giai cấp, một thế hệ và sự mô phỏng, lặp lại giữa các giai cấp, giữa các thế hệ. 17 Quan điểm này tuyệt đối hóa và đề cao vai trò của bắt chước - bắt chước là nguyên tắc nền tảng để xã hội tồn tại và phát triển hiện nay không còn phù hợp. b. Nghiên cứu về bắt chước trong tâm lý học đám đông - Bắt chước là một phản ứng có tính chất bản năng. Các thành viên của đám đông bắt chước lẫn nhau và bắt chước thủ lĩnh của họ. Mốt thường bắt đầu từ một nhân vật nổi tiếng (một ca sĩ, cầu thủ bóng đá,...) sau đó lan tỏa vào giới thanh niên... - Trong một đám đông bạo loạn, lúc đầu chỉ có vài kẻ hung hăng. Hành động của họ dần dần được mọi người bắt chước, biến thành cuộc phá phách tập thể. Cũng nhờ bắt chước, con người có thể trở nên tốt bụng, tử tế với nhau hơn. Sự chứng kiến một hành động hào hiệp sẽ đánh thức lòng nhân ái và tinh thần tương trợ. Khi “vô tình” được thấy ai giúp đỡ một người phụ nữ gặp tai họa, số người muốn giúp đỡ, tự dưng tăng lên gấp đôi. - Tóm lại, đám đông quần chúng, sở dĩ hung hăng hay hiền lành, vô kỷ luật hay trật tự...là do các thành viên bắt chước các đối tượng. c. Nghiên cứu về bắt chước trong tâm lý học lứa tuổi Bắt chước với tư cách là một phương thức tiếp thu các kinh nghiệm xã hội được nghiên cứu nhiều trong tâm lý học lứa tuổi, đặc biệt là trong quá trình phát triển trẻ em. Các nghiên cứu thống nhất rằng, bắt chước là phương thức đặc trưng nhất để trẻ em nhận thức được thực tế và tính hay bắt chước là thuộc tính cơ bản của một nhân cách đang phát triển ở trẻ. Chính nhờ hoạt động bắt chước mà đứa trẻ đã làm chủ được về mặt thực tiễn cái ngôn ngữ tích cực, những hành động sơ đẳng sử dụng đồ vật, những phương thức quan hệ và cung cách xử sự. Mặc dù cùng là hoạt động bắt chước, nhưng đối với trẻ em ở những giai đoạn phát triển khác nhau bắt chước thể hiện qua những hình thức khác nhau để nắm bắt hiện thực: từ sao chép mù quáng các hình mẫu ứng xử của người lớn đến chỗ bắt chước có ý thức, có chọn lọc và có động cơ thúc đẩy. Nói cách khác, bắt chước có những biến đổi về chất và những vai trò khác nhau trong quá trình phát triển của đứa trẻ ở những hoàn cảnh sống nhất định. Ở giai đoạn này thì bắt chước có vai trò chủ đạo trong việc phản ánh hiện thức xã hội, nhưng ở giai đoạn khác thì bắt chước chỉ có vai trò thứ yếu không đáng kể. Những công trình nghiên cứu của các tác giả tâm lý học Xô Viết (cũ) như Becterev V.M, Osy M. V, Kovaliov A.G đã chỉ ra rằng, để thực hiện được bắt chước, đứa trẻ nhất thiết phải đạt được một trình độ phát triển tâm sinh lý nhất định, thông thường là khi đứa trẻ bước vào năm thứ hai của cuộc đời. Các nhà tâm lý học đã mô tả hoạt động bắt chước trong quá trình phát triển của trẻ em như sau: - Từ năm thứ hai cho đến lúc 3 tuổi giai đoạn đầu của sự bắt chước tích cực hay còn gọi là giai đoạn sao chép một cách không có chủ định những hành động bên ngoài và những phản ứng ngôn ngữ của mọi người xung quanh. Đây là giai đoạn mà đứa trẻ bắt chước ngay tại chỗ, trực tiếp những hoạt động của người lớn mà chúng nhìn thấy, chứ không dựa theo trí nhớ ở lứa tuổi lớn hơn. 18 - Đến tuổi mẫu giáo (từ 3 cho đến thời kỳ mẫu giáo lớn), hoạt động bắt chước của trẻ có những biến đổi về nội dung cũng như về hình thức. Hoạt động bắt chước của trẻ ngày càng phức tạp và ngày càng có tính chất trò chơi hơn, đặc biệt là trò chơi đóng vai có nội dung. Trước tiên đứa trẻ làm theo những biểu hiện và đặc điểm hoạt động bên ngoài của người lớn, tái tạo lại trong trò chơi và dần dần bắt chước những biểu hiện của hành vi phản ánh chân thực ý nghĩa của hoàn cảnh. ở tuổi mẫu giáo lớn đã có thêm sự cải biên do trẻ tiếp thu được những kinh nghiệm trước đó, Becterev gọi là bắt chước gián tiếp. - Đến thời kỳ lứa tuổi thiếu niên: các nhà nghiên cứu cho rằng sự bắt chước của trẻ em càng trở nên có ý thức hơn, có chọn lọc hơn và có động cơ thúc đẩy rõ ràng hơn cho dù các yếu tố sao chép một cách không có ý thức vẫn còn tồn tại. Điều quan trọng nhất trong thời kỳ này là có sự chuyển tiếp từ việc bắt chước những biều hiện bên ngoài của người lớn và bạn bè sang bắt chước những phẩm chất bên trong, những đặc điểm tính cách mà trẻ em nhận thức được một cách gián tiếp. Nói cách khác, bắt chước hướng tới sự đồng hoá bề ngoài và đôi khi cả đồng hoá trong bản thân đứa trẻ với một số hình mẫu cụ thể có ý nghĩa đối với chúng. Ví dụ: hình mẫu có thể là thầy cô giáo, bạn bè,.. mà các em yêu quý. - Ở lứa tuổi trưởng thành, hoạt động bắt chước là yếu tố nắm bắt kỹ năng, kỹ xảo trong một số dạng hoạt động nghề nghiệp. Ví dụ: trong thể thao, nghệ thuật,... Như vậy, cùng với sự phát triển của cá nhân, hoạt động bắt chước cũng phát triển và biến đổi theo. d. Cơ chế bắt chước trong các nhóm xã hội Mỗi cá nhân ảnh hưởng đến các thành viên khác của nhóm trước hết bằng sự hiện diện của chính bản thân mình và cũng chịu sự chi phối, ảnh hưởng của các thành viên khác trong nhóm. Tương tự, sự vận hành của cơ chế bắt chước trong các nhóm xã hội diễn ra như sau: các thành viên trong nhóm bắt chước lẫn nhau và bắt chước thủ lĩnh của mình. Nói cách khác, người ta có thể bắt chước một tập thể, một cá nhân, bắt chước quần chúng và ngược lại... Dollard J. và Miller N.E cho rằng, có 4 nhóm người chính khiến cho người ta thích bắt chước: - Những người lớn tuổi - Những người có địa vị xã hội hơn hẳn - Những người có trình độ trí tuệ hơn hẳn - Những người thành thạo hơn hẳn trong một lĩnh vực thực tiễn nào đó. Nhìn chung, hiểu biết về cơ chế bắt chước có thể giúp ta dễ dàng giải thích nhiều hiện tượng diễn ra trong xã hội cũng như trong sử dụng cơ chế này trong giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội cũng như vào mục đích sản xuất kinh doanh. Kết luận: Để giáo dục tính bắt chước tốt cho trẻ cần phải biết: - Tổ chức tốt cuộc sống cho trẻ: Cuộc sống của gia đình phải tuân theo một tôn ty trật tự. Sống vệ sinh, ngăn nắp, gia đình có văn hóa. Người lớn khuyến khích trẻ bắt 19 chước những lời hay, cử chỉ, hành động đúng; ngăn cản những việc làm xấu. - Nhà giáo dục phải làm những điều đúng và tốt như lời nói mình nói. Nhà giáo dục phải nêu được gương sáng cho học sinh là một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động sư phạm của mình... 2.2. Lây lan 2.2.1. Khái niệm Lây lan là quá trình chuyển toả trạng thái cảm xúc từ cá thể này sang cá thể khác ở cấp độ tâm sinh lý, xảy ra một cách nhanh chóng, mạnh mẽ, nằm ngoài những tác động qua lại ở cấp ý thức – tư tưởng. Nói cách khác, lây lan là thuộc tính vô ý thức, ngẫu nhiên của cá thể biểu hiện qua việc chuyển toả trạng thái cảm xúc nhất định. Quy luật này được thể hiện với phạm trù rất rộng trong xã hội như trong quân sự, trong sản xuất, trong giáo dục... Nhà giáo dục A.X Makarenko cho rằng, một nhà sư phạm tài năng không được có nét mặt ủ rủ, chán chường, cáu giận khi làm việc với học sinh. Ông luôn đánh giá cao việc các nhà giáo làm chủ được tâm trạng của mình, bởi lẽ tâm trạng của nhà giáo nhất định sẽ truyền sang học sinh và đồng nghiệp. Tâm lý xã hội được hình thành và lây lan do nhiều yếu tố: - Tình trạng khí hậu tự nhiên cũng có ảnh hưởng đến tâm lý con người Chẳng hạn như trong thời gian có cơn bão từ, con người thường thấy mệt mỏi, các tai nạn ôtô tăng lên 5 lần trong thời gian đó, số người tự sát trong thời gian đó cũng tăng lên. Khí hậu tự nhiên còn có ảnh hưởng tâm lý đến như vậy, huống chi là bầu không khí tâm lý trong tập thể. Bởi vậy chúng ta phải tạo ra một bầu không khí tự nhiên trong xí nghiệp, trong sản xuất phải được trong lành để tạo nên sự phấn khởi, vui vẻ trong tâm hồn con người. - Nhân tố quan trọng là con người: Theo Makarenko, để tạo nên bầu không khí tâm lý vui vẻ, phấn chấn và sung sức cần phải có con người vui nhộn có khả năng kể chuyện phiếm, chuyện khôi hài, gây được tiếng cười vui tươi trong tập thể, cần có những cô gái đẹp để tạo ra cảm xúc thẩm mỹ... - Nhân tố thẩm mỹ: Ngồi làm việc ở một căn phòng khang trang, đàng hoàng và đẹp đẽ, tâm lý tập thể của nhiều người làm việc sẽ vui tươi hơn, hơn hẳn những người làm việc trong phòng chật hẹp, nóng nảy và xấu xí. - Nhân tố vật chất: Ở Liên Xô có hiện tượng dân nông thôn di chuyển ra thành phố để ở và làm việc, trở thành một phong trào. Để hạn chế dòng người từ nông thông đổ ra thành phố, bằng cách xây dựng thị trấn ở vùng nông thôn. Ở đó được xây dựng tất cả mọi tiện nghi như trong thành phố. Xây dựng dãy nhà cao tầng cho nhân dân ở... - Một yếu tố nữa gây không khí tập thể vui vẻ, đồng cảm với nhau là các thành viên trong tập thể phải phụ trợ tâm lý với nhau. 2.2.2. Cơ chế của sự lây lan tâm lý “Vi trùng” của sự lây lan tâm lý đang được các nhà tâm lý học khám phá theo nhiều 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan