Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm...

Tài liệu Giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm

.PDF
84
124
109

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON GIÁO TRÌNH (Lưu hành nội bộ) TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM (Dành cho sinh viên ngành ĐHGD Tiểu học) Tác giả: Hoàng Thị Tường Vi Nguyễn Thị Diễm Hằng Năm 2016 1 MỤC LỤC Trang CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................................................. 4 VỀ TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM ............................................................... 4 1.1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM .................................................................................................. 4 1.2. QUAN HỆ GIỮA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ....................... 6 1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM...................................................................................................................................................... 7 CHƯƠNG 2. LÍ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÍ TRẺ EM......................................................... 8 2.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ EM............................................. 8 2.2. ĐIỀU KIỆN, ĐỘNG LỰC VÀ QUY LUẬT PHÁT TRIỂN TÂM LÝ .................................... 10 2.3. DẠY HỌC, GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ EM ....................................... 12 2.4. SỰ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ .......................................................... 13 CHƯƠNG 3. TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH TIỂU HỌC ....................................................... 15 3.1. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH TIỂU HỌC ...................... 15 3.2. TIỀN ĐỀ VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI HỌC SINH TIỂU HỌC ... 15 3.3. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC................................................... 18 3.4. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC SINH TIỂU HỌC................................................. 20 3.5. NĂNG KHIẾU CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC............................................................................ 31 3.6. SỰ CHÍN MUỒI ĐẾN TRƯỜNG CỦA TRẺ 6 TUỔI CHUẨN BỊ VÀO LỚP 1 ................... 31 3.7. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT VÀ CÓ HÀNH VI SAI LỆCH.......... 34 CHƯƠNG 4. TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC............................................................................................... 36 4.1. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC..................................................................... 36 4.2. SỰ HÌNH THÀNH KHÁI NIỆM, KỸ NĂNG, KỸ XẢO HỌC TẬP....................................... 47 4.3. DẠY HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ.............................................................................. 52 CHƯƠNG 5. TÂM LÝ HỌC GIÁO DỤC .............................................................................................. 56 5.1. ĐẠO ĐỨC VÀ HÀNH VI ĐẠO ĐỨC........................................................................................ 56 5.2. CẤU TRÚC CỦA HÀNH VI ĐẠO ĐỨC ................................................................................... 57 5.3. NHÂN CÁCH LÀ CHỦ THỂ CỦA HÀNH VI ĐẠO ĐỨC...................................................... 60 5.4. CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC........................................................................................................................ 62 CHƯƠNG 6. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN ..................................................... 70 TIỂU HỌC ................................................................................................................................................. 70 6.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TRAU DỒI NHÂN CÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC....................................................................................................................................................... 70 6.2. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC......................................... 71 6.3. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC ................................................ 73 6.4. SỰ HÌNH THÀNH UY TÍN CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC ..................................... 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................... 84 2 LỜI NÓI ĐẦU Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là hai chuyên ngành tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm góp phần trực tiếp hình thành quan điểm sư phạm và bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học. Nội dung tài liệu gồm 6 chương được quy định khác nhau về thời lượng và được trình bày khác nhau, nhưng cả bài giảng là một thể thống nhất theo quan điểm đổi mới nội dung dạy và học ở bậc đại học. Để tài liệu tiếp tục được hoàn thiện trong những năm tới, chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của cán bộ giảng dạy và sinh viên. Xin chân thành cảm ơn 3 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM 1.1. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm 1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm - Đối tượng tâm lí học lứa tuổi: nghiên cứu những đặc điểm tâm lí, các quy luật, các điều kiện, động lực phát triển tâm lí theo lứa tuổi, những biến đổi của các quá trình tâm lí, các phẩm chất tâm lí trong sự hình thành, phát triển nhân cách con người. Nghĩa là nghiên cứu những đặc điểm của quá trình và các phẩm chất tâm lý riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng của mỗi cá nhân trong cùng phạm vi cùng một lứa tuổi. Nghiên cứu những khả năng lứa tuổi trong việc lĩnh hội các tri thức và phương thức hành động, các dạng hoạt động khác nhau của cá nhân đang được phát triển. Các dấu hiệu đặc trưng cho sự phát triển tâm lý trẻ từ việc nảy sinh cái mới sự chuyển biến từ những phản ứng đơn giản đến những hành động phức tạp, từ việc nắm ngôn ngữ đến việc hình thành ý thức, từ ý thức nhân cách của trẻ. Từ đó rút ra ra những quy luật cơ bản cho sự phát triển tâm lý trẻ nói chung, học sinh tiểu học nói riêng. Tâm lý học lứa tuổi bao gồm nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau với tư cách là phân ngành cuả tâm lý học phát triển: + Tâm lý học về thai nhi trong bụng mẹ. + Tâm lý học tuổi hài nhi. + Tâm lý học lứa tuổi mầm non. + Tâm lý học học sinh tiểu học. + Tâm lý học tuổi trưởng thành. + Tâm lý học người già. + Tâm lý học trẻ em phát triển không bình thường. - Đối tượng của Tâm lí học sư phạm: nghiên cứu các đặc điểm tâm lí, qui luật tâm lí của việc dạy học và giáo dục, nghiên cứu cơ sở tâm lí của quá trình lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các phẩm chất trí tuệ và nhân cách người học, nghiên cứu các yếu tố tâm lí của người làm công tác giáo dục, mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau. Hay nói cách khác tâm lý học sư phạm là sự vận dụng tâm lý học vào quá trình giảng dạy và giáo dục học sinh. 1.1.2. Nhiệm vụ của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm * Nhiệm vụ tâm lý học lứa tuổi tiểu học - Nghiên cứu những đặc điểm, quy luật hình thành phát triển tâm lý và các điều kiện động lực của sự phát triển tâm lý ở học sinh tiểu học. 4 - Cung cấp cơ sở tâm lý cho việc xây dựng nguyên tắc, phương pháp, biện pháp dạy học và giáo dục phù hợp với đặc điểm quy luật tâm lý của lứa tuổi học sinh tiểu học. Từ đó tổ chức quá trình sư phạm nhằm mục đích nâng cao hiệu quả dạy học và giáo dục học sinh tiểu học. - Tâm lý học lứa tuổi tiểu học không những cung cấp cơ sở tâm lý cho giáo viên tiểu học trong hoạt động sư phạm mà còn giúp cho giáo viên có phương pháp đối xử khéo léo với đồng nghiệp, học sinh, đồng thời qua đó tự rèn luyện hoàn thiện bản thân mình. * Nhiệm vụ tâm lý học sư phạm tiểu học Trên cơ sở vận dụng tâm lý học đại cương, tâm lý tuổi vào hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh tiểu học mà ta có các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu các quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục tiểu học. - Nghiên cứu những vấn đề tâm lý của việc hình thành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất nhân cách học sinh tiểu học. - Tìm ra được cơ sở tâm lý của việc điều khiển quá trình dạy học, giáo dục, tổ chức hoạt động học sinh trong và ngoài lớp cũng như xây dựng mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau, giữa gia đình, nhà trường và xã hội. 1.1.3. Phương pháp nghiên cứu tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm a. Phương pháp quan sát - Là phương pháp sử dụng các giác quan để tri giác đối tượng nhằm thu nhập thông tin, dữ kiện cần nghiên cứu. - Những yêu cầu cơ bản khi sử dụng phương pháp này: + Phải xác định được mục đích, nhiệm vụ quan sát. + Quan sát những biểu hiện tâm lý của học sinh trong điều kiện tự nhiên của cuộc sống nhất là hoạt động vui chơi, học tập, lao động và quan hệ giao tiếp. Trên cơ sở nguyên tắc “vừa nghiên cứu vừa giáo dục” hướng học sinh vào “ vùng phát triển gần nhất” để dạy học và giáo dục. + Cần quan sát trong điều kiện thuận lợi. + Quan sát phải đảm bảo tính khách quan, hệ thống. + Phải ghi chép, phân tích, rút ra kết luận những sự kiện đã quan sát được. b. Phương pháp thực nghiệm - Thực nghiệm là quá trình tác động vào con người một cách chủ động trong những điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện cần nghiên cứu một cách khách quan. - Yêu cầu thực nghiệm: + Lựa chọn đối tượng tiêu biểu để thực nghiệm. + Phải xây dựng giả thuyết tốt. + Phải có nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm. + Phải thực nghiệm nhiều lần. + Phải tách yếu tố tất nhiên, ngẫu nhiên. 5 + Phải bão hòa yếu tố làm mất tính tự nhiên. + Phải ghi chép đầy đủ. c.Phương pháp trắc nghiệm( test) - Là một phép thử để đo lường tâm lý, đã được chuẩn hóa trên một lượng người là đại diện tiêu biểu. Trong tâm lý học lứa tuổi sư phạm người ta dùng một số Test về trí tuệ, năng lực, tình cảm, nhân cách. - Yêu cầu về trắc nghiệm: + Khi soạn thảo bộ Test phải đảm bảo tính chuẩn hóa. + Test phải đảm bảo 4 phần: - Văn bản Test - Hướng dẫn quá trình tiến hành - Hướng dẫn đánh giá - Bản chuẩn hóa d. Phương pháp phân tích sản phẩm - Dựa vào sản phẩm của đối tượng nghiên cứu để tìm ra đặc điểm, tính chất những hoạt động cũng như đặc điểm tâm lý nhân cách của cá nhân trong quá trình tạo ra sản phẩm. - Yêu cầu: + Phải nghiên cứu nhiều sản phẩm khác nhau. + Phân loại sản phẩm, hệ thống khái quát. + Nghiên cứu lịch sử tạo ra sản phẩm. + Phân tích tìm ra bản chất. 1.2. Quan hệ giữa tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là những chuyên ngành của tâm lý học, đều dựa trên cơ sở tâm lý học đại cương, Tâm lý học đại cương cung cấp cho hai ngành này những khái niệm cơ bản về các hiện tượng tâm lý để hai chuyên ngành này sử dụng khi đi sâu vào đối tượng nghiên cứu của mình. Ngược lại, nhờ những sự kiện của hai chuyên ngành này mà những khái niệm cơ bản của tâm lý đại cương cũng trở nên phong phú và sâu sắc hơn. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ và thống nhất với nhau vì chúng có chung khách thể nghiện cứu là những con người bình thưởng ở những giai đoạn khác nhau (trẻ nhỏ, thiếu niên, thanh niên) là khách thể của tâm lý học lứa tuổi nếu nghiên cứu động thái của sự phát triển theo lứa tuổi. Chúng là khách thể của tâm lý học sư phạm nếu chúng được nghiên cứu với tư cách là người được dạy và được giáo dục trong quá trình tác động có mục đích của nhà giáo dục. Tâm lý học lứa tuổi chỉ có thể nghiên cứu nếu việc nghiên cứu của nó không dừng lại ở mức độ thực nghiệm, mà được tiến hành trong những điều kiện cụ thể của việc dạy học và giáo dục trong điều kiện tự nhiện của đời sống trẻ. Nhưng đồng thời việc dạy học và giáo dục cũng không được xem xét như những hiện tượng độc lập, trừu xuất khỏi đối tượng của dạy học và giáo dục. Như vậy, cả tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm đều nghiên cứu trẻ 6 em trong quá trình dạy học, giáo dục và cùng phục vụ đắc lực cho sự phát triển của chính trẻ em đó. Do đó mà sự phân ranh giới giữa hai chuyên ngành này chỉ có tính chất tương đối. 1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm - TLH lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt lí luận, góp phần tích cực chống lại các quan điểm duy tâm, phản khoa học về sự nảy sinh, phát triển tâm lí con người, về nguồn gốc hình thành và phát triển tâm lí con người, khẳng định quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về sự phát triển tâm lí con người. - TLH lứa tuổi cung cấp cơ sở khoa học tâm lí cho TLH sư phạm cũng như các ngành tâm lí học khác trong việc tổ chức quá trình dạy học, giáo dục phù hợp đặc điểm tâm lí lứa tuổi cũng như mục đích, nội dung, phương pháp tổ chức hoạt động trong quá trình giáo dục học sinh nói chung, học sinh tiểu học nói riêng. - Những hiểu bết về đặc điểm tâm lý lứa tuổi, về quy luật hình thành phát triển tâm lý lý giúp giáo viên, học sinh trong dạy học, giáo dục, trong quan hệ ứng xử giao tiếp cũng như trong việc tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức nhân cách. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Phân tích mối quan hệ giữa Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. 2. Trình bày đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm. 3. Phân tích ý nghĩa của Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm trong giảng dạy và trong giáo dục tiểu học. Thảo luận: các phương pháp nghiên cứu tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm 7 CHƯƠNG 2. LÍ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÍ TRẺ EM 2.1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em 2.1.1 Quan niệm về trẻ em Có nhiều quan niệm khác nhau về trẻ em, đối với tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học phát triển quan tâm tới bản chất các quy luật, đặc điểm, trình độ phát triển, các yếu tố chi phối tâm lý phát triển nhân cách trẻ. Dựa trên các quan điểm triết học khác nhau, người ta hiểu về trẻ em khác nhau: - Có quan niệm cho rằng: Trẻ em là người lớn thu nhỏ lại, trẻ em chỉ khác người lớn ở kích thước cơ thể, về mức độ biểu hiện, trình độ đạt được về nhận thức, tư tưởng, tình cảm…chứ không khác nhau về chất. Từ đó dẫn đến sai lầm lấy người lớn làm thước đo mọi thứ cho trẻ em. - Những nghiên cứu của tâm lý học duy vật biện chứng đã khẳng định: trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em, nó vận động và phát triển theo quy luật của trẻ em. Trẻ em chưa phải là người lớn nhưng là một con người, một thành viên xã hội. Ngay khi ra đời đứa trẻ đã có những nhu cầu đặc trưng của con người “nhu cầu về người khác, nhu cầu giao tiếp với con người”. Đứa trẻ trở thành con người tùy thuộc vào trình độ nhóm và gia đình mà trẻ tham gia. 2.1.2. Quan niệm về sự phát triển tâm lí trẻ em 2.1.2.1. Quan niệm duy tâm Quan điểm duy tâm xem sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự chín muồi trưởng thành của các yếu tố sinh vật định sẵn có trước trong gen di truyền, nó chỉ tăng lên hoặc giảm đi về số lượng của các hiện tượng đang được phát triển mà không có sự chuyển biến về chất lượng. Họ xem sự phát triển tâm lý trẻ là sự tăng số lượng từ của trẻ, tăng tốc độ hình thành kỹ xảo, tăng thời gian tập trung chú ý, hay khối lượng tri thức được giữ lại trong trí nhớ... Sự tăng về số lượng của các hiện tượng tâm lý có ý nghĩa nhất định trong sự phát triển của trẻ em, nhưng không thể giới hạn toàn bộ sự phát triển tâm lý của trẻ em chỉ vào những chỉ số ấy. Từ đó những người theo quan niệm này đã nhìn nhận sai lầm về nguồn gốc của sự phát triển tâm lý. Quan niệm này xem sự phát triển của hiện tượng như là một quá trình diễn ra một cách tự phát. Sự phát triển diễn ra dưới ảnh hưởng của một sức mạnh nào đó mà người ta không thể điều khiển, nghiên cứu, không nhận thức được. Quan niệm sai lầm này được biểu hiện dưới các thuyết sau: + Thuyết tiền định Học thuyết này cho rằng mọi đặc điểm tâm lí của con người là những cấu tạo bẩm sinh, do tiềm năng sinh vật gây ra có sẵn trong cấu trúc sinh vật, do cơ chế di truyền qua gen quyết định. Trên thực tế yếu tố bẩm sinh có vai trò quan trọng được xem như là tiền đề vật chất cho sự phát triển tâm lí con người, chúng không hoàn toàn định sẵn từ trước mọi khả năng phát 8 triển tâm lí. Cùng tiền đề vật chất như nhau nhưng do sự tác động của giáo dục, sự rèn luyện và mức độ tính tích cực hoạt động khác nhau con người khác nhau về sự phát triển tâm lí. Như vậy theo quan niệm này họ đã hạ thấp vai trò giáo dục, coi giáo dục là nhân tố có khả năng tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự nhiên, bị ức chế bởi di truyền mà thôi. + Thuyết duy cảm (môi trường) Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của trẻ chỉ bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo những người thuộc trường phái này thì môi trường là nhân tố tiền định sự phát triển của trẻ em, vì thế muốn nghiên cứu con người chỉ cần phân tích cấu trúc môi trường của họ, cơ chế hành vi những con đường phát triển của hành vi. Họ xem môi trường xã hội là bất biến, quyết định trước số phận con người, còn con người được xem là một đối tượng thụ động trước ảnh hưởng của môi trường. Quan điểm xem trẻ em sinh ra như “tờ giấy trắng” hoặc “tấm bảng sạch sẽ”. Sự phát triển tâm lý của trẻ em hoàn toàn phụ thuộc vào tác động bên ngoài, do vậy người lớn có thể vẽ những thứ mình muốn lên đó... quan điểm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường như nhau, lại có những nhân cách khác nhau. + Thuyết hội tụ hai yếu tố di truyền và môi trường Những người theo thuyết này chú ý tới tác động của 2 yếu tố (môi trường và tính di truyền) khi nghiên cứu trẻ em. Nhưng họ hiểu tác động của hai yếu tố đó một cách máy móc, sự tác động qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp quá trình phát triển, trong đó di truyền giữ vai trò quyết định, môi trường là điều kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã định sẵn thành hiện thực. Thuyết hội tụ 2 yếu tố sai lầm vì mang tính chất máy móc, siêu hình của các quan niệm này đều đã bị phê phán. Tóm lại: mặc dù quan niệm của những người đại diện cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực chất đều có sai lầm giống nhau: Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến, tiền định, do tiềm năng sinh vật di truyền, hoặc ảnh hưởng của môi trường bất biến. Các quan niệm này đã đánh giá không đúng vai trò của giáo dục. Họ xem xét sự phát triển của trẻ em một cách tách rời và không phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể mà trong đó quá trình phát triển tâm lý đang diễn ra. Họ đã phủ nhận tính tích cực riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn biện chứng được hình thành trong quá trình phát triển tâm lý. Coi đứa trẻ là một thực thể tự nhiên, thụ động, cam chịu ảnh hưởng có tính chất quyết định của yếu tố sinh vật hoặc môi trường... không thấy được con người là thực thể xã hội tích cực, chủ động trước tự nhiên, có thể cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân để phát triển nhân cách. 2.1.2.2. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý trẻ em Nguyên lý phát triển trong triết học Mác –Lênin thừa nhận, sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là một quá trình tích lũy dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cũ do sự 9 đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật hiện tượng. Quan điểm mác xít được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lý trẻ em không phải là sự tăng hoặc giảm về số lượng, mà là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lý. Sự thay đổi về lượng của các chức năng tâm lý dẫn đến sự thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt. Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện các đặc điểm mới về chất, những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định. Trong những giai đoạn phát triển khác nhau có sự cải biến về chất của quá trình tâm lý và toàn bộ nhân cách trẻ. Xét trong toàn cục: phát triển là một quá trình kế thừa. Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em lĩnh hội nền văn hóa xã hội loài người. Ngay từ khi ra đời, đứa trẻ đã sống trong thế giới đối tượng và những mối quan hệ xã hội. Đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới đồ vật và hiện tượng do con người tạo ra, mà còn lĩnh hội thế giới đó. Đứa trẻ đã tiến hành những hoạt động căn bản tương ứng với những hoạt động mà loài người trước đó đã thể hiện vào trong đồ vật, hiện tượng, nhờ cách ấy nó lĩnh hội được những năng lực đó cho mình. Quá trình đó là quá trình tâm lý trẻ phát triển. Như vậy, phát triển tâm lý là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ và những đối tượng do loài người tạo ra. Nhưng đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường. Nó có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội khi có vai trò trung gian của người lớn. Nhờ sự tiếp xúc với người lớn và sự hướng dẫn của người lớn mà quá trình nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo, nhu cầu xã hội cũng như ngôn ngữ, phương thức hoạt động được hình thành phát triển. Những biến đổi về chất trong tâm lý trẻ từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác, bất cứ một mức độ nào của trình độ trước cũng là sự chuẩn bị cho trình độ sau. Yếu tố tâm lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, sau chuyển sang vị trí chủ yếu. Dựa vào 3 nguyên lý cơ bản về sự phát triển tâm lý của A.N.Leonchiev mà các nhà tâm lý học Xô Viết đã xem xét sự phát triển tâm lý con người như là: - Sự phát triển tâm lý là quá trình lĩnh hội kinh nghiệm của loài người được thể hiện qua tri thức cũng như phương thức hoạt động. Đây là điều cơ bản quyết định sự phát triển tâm lý. - Sự phát triển tâm lý trước hết là phát triển trí tuệ mà thực chất là hình thành các hoạt động trí tuệ, - Sự phát triển tâm lý trong đó sự phát triển các thuộc tính của nhân cách giữ một vai trò, vị trí rất quan trọng trong quá trình giáo dục học sinh. Tóm lại: sự phát triển tâm lý của trẻ em đầy biến động và diễn ra cực kỳ nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng, mà có khủng hoảng và đột biến. Chính hoạt động của trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển. Nhưng các nhà tâm lý học macxit cũng thừa nhận rằng sự phát triển tâm lý chỉ có thể xảy ra trên nền của một cơ sở vật chất nhất định. Chúng là tiền đề cân thiết để phát triển tâm lý, có trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào tổ hợp những yếu tố khác nữa. 2.2. Điều kiện, động lực và quy luật phát triển tâm lý 2.2.1. Điều kiện của sự phát triển tâm lí 2.2.1.1. Điều kiện thể chất 10 Đặc điểm cơ thể, đặc điểm của các giác quan, hệ thần kinh được coi là tiền đề vật chất, tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho việc hình thành một loại hình hoạt động nào đó. Song các đặc điểm thể chất của con người không phải là nhân tố quyết định, không phải là động lực của sự phát triển tâm lý. 2.2.1.2. Điều kiện sống Điều kiện sống có ảnh hưởng đến sự phát triển của con người, nhưng chúng không quyết định trực tiếp đến phát triển tâm lý mà chúng tác động thông qua mối quan hệ qua lại giữa con người với hoàn cảnh. Các ảnh hưởng bên ngoài ảnh hưởng đến tâm lý cá nhân thông qua điều kiện bên trong của con người, trong đó kinh nghiệm riêng và vai trò chủ thể của cá nhân. Trong các nhân tố của cuộc sống trước hết phải nói đến vai trò xã hội nền văn hóa xã hội. Ở các mối quan hệ xã hội có ý nghĩa quyết định bản chất con người cũng như các đặc điểm tâm lý cá nhân. “Bản chất con nguời là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội” (Cac Mác) 2.2.1.3. Tính tích cực hoạt động của con người Là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển tâm lý. Hoạt động của con người có tính mục đích có tính xã hội được xem là điều kiện quyết định sự phát triển tâm lý 2.2.2. Động lực của sự phát triển tâm lý Phát triển là sự đấu tranh thống nhất giữa các mặt đối lập, giữa các mâu thuẫn bên trong bên ngoài. Động lực của sự phát triển là nảy sinh các mâu thuẫn và giải quyết các mâu thuẫn đó. Sự phát triển tâm lý trẻ em, thực chất là cuộc đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, giữa những cái đang được nảy sinh, đang được khắc phục trong quá trình dạy học và giáo dục giữa nhu cầu mới nảy sinh do hoạt động và khả năng thỏa mãn chúng, giữa khả năng trẻ đang được phát triển với những hình thức hoạt động cũ, giữa yêu cầu xã hội, tập thể, người lớn với trình độ phát triển tâm lý của trẻ... Việc nảy sinh các mâu thuẫn và trẻ tích cực giải quyết các mâu thuẫn đó dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lý trẻ hình thành và phát triển. Những mâu thuẫn này được trẻ giải quyết sẽ tạo nên động lực phát triển tâm lý trẻ. 2.2.3. Qui luật chung của sự phát triển tâm lí trẻ - Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lí Trong những điều kiện bất kỳ, thậm chí ngay cả trong điều kiện thuận lợi nhất của giáo dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý khác nhau... cũng không thể phát triển ở một mức độ như nhau, có những thời kỳ tối ưu đối với sự phát triển của một hình thức hoạt động tâm lý nào đó. Ví dụ: Trẻ từ 1-5 tuổi là giai đoạn thuận lợi cho sự phát triển về ngôn ngữ. Tuổi học sinh tiểu học thuận lợi cho sự hình thành những kỹ xảo vận động... Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý còn được thể hiện ở giữa các cá nhân trong cùng một độ tuổi. - Tính toàn vẹn của tâm lí Cùng với sự phát triển của lứa tuổi thì tâm lý con người ngày càng có tính trọn vẹn, thống nhất và bền vững. Sự phát triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng thái tâm lý thành các đặc điểm tâm lý riêng của cá nhân. Tâm lý trẻ nhỏ phần lớn là một tổ hợp thiếu 11 hệ thống, những tâm trạng rời rạc khác nhau. Sự phát triển thể hiện ở chỗ những tâm trạng đó dần dần chuyển thành các nét của nhân cách. Ví dụ: Tâm trạng vui vẻ thoải mái nảy sinh trong quá trình lao động chung, phù hợp với lứa tuổi nếu được lặp lại thường xuyên nó sẽ chuyển thành lòng yêu lao động. Tính trọn vẹn của tâm lý còn phụ thuộc nhiều vào động cơ chỉ đạo hành vi của trẻ. Dưới tác động của giáo dục làm cho kinh nghiệm sống ngày càng được mở rộng thì động cơ hành vi của trẻ ngày càng trở nên tự giác và có ý nghĩa xã hội, điều đó được bộc lộ rất rõ trong nhân cách của trẻ. - Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ Hệ thần kinh của trẻ rất mềm dẻo. Dựa trên tính mềm dẻo của hệ thần kinh mà tác động của giáo dục có thể làm thay đổi tâm lý trẻ. Tính mềm dẻo cũng tạo ra khả năng bù trừ khi một chức năng sinh lý hoặc tâm lý nào đó yếu hoặc thiếu thì những chức năng tâm lý khác được tăng cường, phát triển mạnh hơn để bù đắp hoạt động không đầy đủ của chức năng bị yếu hoặc bị hỏng. Thí dụ: khuyết tật của thị giác được bù đắp bằng sự phát triển mạnh mẽ hoạt động của thính giác. Trí nhớ kém có thể bù trừ bằng tính tổ chức cao, tính chính xác của hoạt động. 2.3. Dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý trẻ em Sự phát triển tâm lý của trẻ là sự lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội lịch sử. Nhưng trẻ chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội và phát triển tâm lý của bản thân nhờ sự tiếp xúc với người lớn. Nhưng sự tiếp xúc với người lớn chỉ có thể đạt hiệu quả tốt khi nó được diễn ra trong quá trình hoạt động sư phạm (dưới tác động của dạy học và giáo dục). Vì giáo dục và dạy học là con đường đặc biệt để truyền đạt kinh nghiệm xã hội, những phương tiện hoạt động cho thế hệ sau. Do vậy, giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm lý trẻ. Tính chủ đạo của giáo dục được thể hiện ở những điểm sau: - Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự phát triển nhân cách và tổ chức dẫn dắt sự hình thành phát triển nhân cách của trẻ theo chiều hướng đó. - Giáo dục có thể tạo điều kiện thuận lợi để cho những tư chất của trẻ được bộc lộ, phát triển để có thể biến khả năng của trẻ thành hiện thực. - Giáo dục có thể đem lại những cái mà yếu tố bẩm sinh di truyền hoặc môi trường tự nhiên không thể đem lại được. - Giáo dục có thể bù đắp lại những thiếu hụt do khuyết tật hay do bệnh tật đem lại. Đồng thời, nó có thể uốn nắn những nét tâm lý xấu được hình thành do ảnh hưởng tự phát của môi trường để nhân cách của trẻ được phát triển tốt đẹp. Khi khẳng định vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự phát triển tâm lý của trẻ ta cần lưu ý rằng: Tâm lý con người mang tính chủ thể, những tác động của điều kiện bên ngoài luôn luôn bị khúc xạ thông qua kinh nghiệm sống của con người. Do vậy những học sinh khác nhau có thể có thái độ khác nhau trước cùng một yêu cầu của giáo viên. Mặt khác, con người là một chủ thể tích cực hoạt động có thể tự giác thay đổi được chính bản thân mình, nên mọi tác động bên ngoài chỉ ảnh hưởng tới tâm lý con người một cách gián tiếp thông qua quá trình tác động qua lại của con người với môi trường. 12 Giáo dục, dạy học có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm lý của trẻ, chúng có quan hệ biện chứng với nhau hai quá trình này không phải là hai quá trình diễn ra song song mà chúng thống nhất với nhau có quan hệ tương hỗ với nhau. Bởi vì, sự phát triển tâm lý của trẻ chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong điều kiện dạy học và giáo dục. Để giữ được vai trò chủ đạo thì giáo dục và dạy học phải luôn kích thích, dẫn dắt sự phát triển chứ không phải là sự chờ đón sự phát triển. Giáo dục phải đi trước một bước để đón bắt sự phát triển, tạo nên ở trẻ quá trình giải quyết mâu thuẫn liên tục để thúc đẩy sự phát triển. Tuy vậy, trong khi kích thích sự phát triển thì dạy học và giáo dục cần phải tính đến mức độ trẻ đã đạt được, tính đến đặc điểm lứa tuổi và qui luật bên trong của sự phát triển. Muốn tâm lý của trẻ phát triển đúng đắn thì bên cạnh yếu tố giáo dục rất cần sự tự giáo dục của trẻ trong tất cả các thời kỳ của cuộc đời. 2.4. Sự phân chia giai đoạn phát triển tâm lý 2.4.1. Quan niệm về giai đoạn phát triển tâm lý Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phân chia giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ. Quan niệm sinh vật coi sự phát triển tâm lý như là một quá trình sinh vật tự nhiên. Họ căn cứ vào những nhân tố sinh vật thuần túy (như sự thay răng hay mọc răng của trẻ...) đã khẳng định tính bất biến, tính tuyệt đối của các giai đoạn lứa tuổi. Quan niệm khác lại phủ nhận khái niệm lứa tuổi, họ coi sự phát triển như là sự tích lũy tri thức, kỹ năng kỹ xảo một cách đơn giản. Quan điểm của TLH Mácxit, đại diện là L.X.Vưgốtxki coi lứa tuổi là một thời kỳ phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối. Trong mỗi thời kỳ có qui luật phát triển chung và được thể hiện một cách độc đáo về chất. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao giờ cũng xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời kỳ trước. Những cấu tạo mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển tâm lý của trẻ. Những đặc điểm lứa tuổi là đặc điểm chung, đặc trưng, điển hình nhất, chỉ ra phương hướng phát triển chung. Nhưng lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến mà giai đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối. Giới hạn tuổi chỉ có ý nghĩa như là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ chứ nó không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ, hoặc có thể đi nhanh hơn hay chậm hơn... là do ta biết tận dụng thời gian và điều kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống của trẻ. 2.4. 2. Phân chia giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ Các nhà TLH Mác xit đã căn cứ vào sự thay đổi căn bản trong điều kiện sống và hoạt động của trẻ, vào sự phát triển về thể chất ở trẻ và sự thay đổi trong cấu trúc chức năng tâm lý của trẻ. Người ta chia sự phát triển tâm lý của trẻ như sau : * Giai đoạn trước tuổi học: + Tuổi sơ sinh: 0 - 2 tháng + Tuổi hài nhi: Từ 2 - 12 tháng + Tuổi nhà trẻ: Từ 1 - 3 tuổi 13 + Tuổi mẫu giáo: Từ 3 - 6 tuổi. Hoạt động chủ đạo trong giai đoạn này là hoạt động vui chơi. * Giai đoạn tuổi HS: + Tuổi nhi đồng: Từ 6 - 11 tuổi + Tuổi thiếu niên: Từ 11 - 15 tuổi + Tuổi đầu thanh niên: Từ 15 -18 tuổi. Hoạt động chủ đạo trong giai đoạn này là hoạt động học tập. Mỗi thời kỳ có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chuyển từ đứa trẻ mới sinh sang một nhân cách trưởng thành. Mỗi thời kỳ có những nét tâm lý đặc trưng nhất định mà đứa trẻ phải trải qua. Sự chuyển từ thời kỳ này sang thời kỳ khác bao giờ cũng gắn với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới về chất. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Phân tích các quan điểm tâm lý về sự phát triển tâm lý trẻ em. 2. Các điều kiện, động lực, quy luật của sự phát triển tâm lí.. 3. Vai trò dạy học và giáo dục đối với sự phát triển tâm lý ở trẻ em. 4. Phân tích các quan điểm về các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ. Thảo luận: các quan điểm về sự phát triển tâm lý trẻ em. 14 CHƯƠNG 3. TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH TIỂU HỌC 3.1. Vị trí, ý nghĩa của tâm lý học lứa tuổi học sinh tiểu học Lứa tuổi học sinh tiểu học từ 6 đến 11 tuổi là những em đang học từ lớp 1 đến lớp 5. Học sinh tiểu học là nhân vật trung tâm của trường tiểu học. Đó là một thực thể hồn nhiên tiềm tàng khả năng phát triển. Do đó khi trẻ chưa bị “biến dạng, méo mó” trước sức ép của xã hội và kinh nghiệm sống đã được tích lũy của bản thân thì nó vẫn giữ nguyên hình là một thực thể “hồn nhiên tiềm tàng khả năng phát triển”. Học sinh tiểu học ở mỗi độ tuổi khác nhau đều thể hiện nét tính cách riêng rất rõ qua xu hướng cá nhân, ý chí với tính ngay thẳng, trung thực cũng như thói quen điều chỉnh hành vi bản thân. Vì thế khi tham gia hoạt động mỗi em có biểu hiện hành vi, ngôn ngữ khác nhau. Qua đó, bộc lộ phẩm chất năng lực của mỗi trẻ. Học sinh phát triển thành chính mình, nhờ vào phương thức hoạt động giao tiếp, đặc biệt hoạt động học tập được xem là hoạt động chủ đạo có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giáo dục nhân cách phẩm chất của trẻ. Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách lứa tuổi này là tính tích cực, say mê trong hoạt động học tập mà không có lứa tuổi nào có được. Thông qua hoạt động học tập cùng các hoạt động khác các em đã lĩnh hội được mọi chuẩn mực nhằm khẳng định vị trí bản ngã của mình trong mối quan hệ xã hội nhưu sự phát triển nhân cách. Chính vì lẽ đó, khi nghiên cứu tâm lý học lứa tuổi học sinh tiểu học có ý nghĩa rất lớn trong quá trình dạy học nói riêng và giáo dục nói chung. Vì đây là điều kiện tốt nhất để giáo dục phát huy chức năng của mình trong vấn đề giáo dục nhân cách tiểu học. 3.2. Tiền đề và điều kiện phát triển tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học 3.2.1. Sự biến đổi về mặt giải phẩu sinh lý học sinh tiểu học - Cơ thể trẻ em là tiền đề vật chất cho sự phát triển tâm lý, thể chất của học sinh tiểu học được thể hiện thông qua sự phát triển thể lực của các em, sự phát triển đó thể hiện như sau: - Chiều cao mỗi năm của trẻ em tăng thêm 4cm và nặng thêm 2kg. - Hệ xương đang ở giai đoạn cốt hóa để cứng dần lên nhưng còn nhiều mô sụn. Ở trẻ 7 - 9 tuổi cột xương sống giữ mật độ mềm rất lớn trong phần ngực. Sự ổn định của đường cong thắt lưng được thiết lập vào khoảng 12 tuổi. Ở em trai 7 đến 8 tuổi trên lồng ngực được mở rộng, tới 12 – 13 tuổi lồng ngực của trẻ có hình giống như người lớn, vòng ngực của em trai 12 tuổi khoảng 6, 8 cm; ở em gái 12 tuổi lớn hơn vài cm. Ở em gái khung chậu được tăng lên mạnh nhất từ 8 đến 10 tuổi, ở em trai chậm hơn em gái. Hệ xương của học sinh tiểu học mềm dẻo và linh hoạt tạo ra khả năng lớn cho việc giáo dục thể chất và tập luyện thể hục thể thao, song cần quan tâm đến tư thế đi đứng, ngồi, chạy nhảy của các em để phòng bệnh cong lưng, vẹo cốt sống... - Về cơ bắp: Cơ bắp và dây chằng được phát triển mạnh vì lẽ đó hình dáng học sinh tiểu học khác với THCS đó là thấp, béo, tròn, chắc. Cho nên thích vận động chạy nhảy bởi thích vận động của cơ bắp. 15 - Hệ tim mạch: Tim trẻ đập mạnh từ 85-90 lần/phút, mạch máu tương đối mở rộng, sự hoạt động của tim mạch tương đối ổn định và chưa hoàn thiện. Vì vậy tránh gây kích động như: quát mắng, dọa nạt... - Hệ thần kinh: Trọng lượng não tăng đạt tới 80 – 90 % trọng lượng não người lớn và đến cuối tiểu học gần bằng não người lớn, cấu tạo não được hoàn thiện dần. Do đó, khả năng phân tích não được phát triển. Hệ thần kinh phát triển mạnh, mối tương quan giữa 2 quá trình là sự hưng phấn, ức chế thay đổi. Do vậy trẻ rất hiếu động dễ bị kích động, giáo viên cần khéo léo giáo dục tính tự chủ, lòng kiên trì cho trẻ. 3.2.2. Sự thay đổi của điều kiện sống học sinh tiểu học 3.2.2.1. Đời sống gia đình của học sinh tiểu học Ở lứa tuổi này địa vị của các em trong gia đình đã thay đổi, được gia đình thừa nhận là một thành viên tích cực của gia đình, được cha mẹ, anh chị giao cho những nhiệm vụ cụ thể như là chăm sóc các em nhỏ khi cha mẹ đi vắng, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc... ở các gia đình neo đơn, đã phải lao động thực sự để đóng góp vào thu nhập chung của gia đình. Các em đã nhận thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện một cách tích cực. Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn với các em là được cha mẹ, anh chị quan tâm đến việc học hành của các em. Các em có quyền hạn và trách nhiệm, ví dụ như có quyền có chỗ học tập riêng, có thời gian làm bài ở nhà, có chế độ sinh hoạt hàng ngày, có ý thức trách nhiệm thực hiện các yêu cầu học tập đặt ra. Điều đó tạo điều kiện để trẻ hình thành, phát triển ý thức bản thân. Vì vậy, gia đình cần tổ chức và hoạt động cho trẻ, tạo điều kiện để trẻ thực hiện tốt vai trò của mình. 3.2.2.2. Đời sống trong nhà trường của học sinh tiểu học Hoạt động học tập và các hoạt động khác của học sinh tiểu học có rất nhiều sự thay đổi, nó tác động đến sự hình thành và nhân cách của học sinh. Đặc biệt hoạt động học đã trở thành hoạt động chủ đạo, nó có ý nghĩa và tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Hoạt động này làm thay đổi căn bản hành vi của trẻ đồng thời mở ra những bước phát triển mới trong nhận thức của trẻ. Hoạt động học tập có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự phát triển tâm lý của học sinh lứa tuổi tiểu học. Nó đòi hỏi sự nghiêm túc, có những yêu cầu nghiêm ngặt, có kỷ cương. Kết quả mà trẻ đạt được trong hoạt động này là tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Việc tổ chức hoạt động học tập của các em được tiến hành bằng phương pháp nhà trường, nhờ phương pháp này mà trẻ lĩnh hội những phương pháp làm việc bằng trí óc. Các em tự tạo ra sản phẩm và phải làm việc hết mình nhưng không quá sức, đồng thời cần tạo không khí thoải mái để các em cảm thấy niềm vui trong quá trình học tập. Phương pháp nhà trường giúp các em chấp nhận những yêu cầu của giáo viên, những chuẩn mực, quan hệ bạn bè, thời gian biểu, những yêu cầu của hoạt động học tập đòi hỏi. Việc các em tuân thủ những quy tắc, chuẩn mực mới là điều kiện cần thiết để tổ chức cuộc sống ở nhà trường phù hợp với những tập thể để chuẩn bị để đi học. 16 Trong thời gian đầu các em chưa thực sự hiểu nội dung của các môn học cụ thể, chưa có hứng thú nhận thức với bản thân tri thức của môn học và tài liệu học tập, mà chỉ hứng thú chung chung. Nét đặc trưng giai đoạn cuộc sống của nhà trường là các em tuân thủ những yêu cầu mới của giáo viên, những yêu cầu điều chỉnh hành vi học tập ở lớp và ở nhà. Tuy nhiên, không phải mọi đứa trẻ đều chuẩn bị tâm thế để đi học, mà nhiều trẻ còn gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu như sợ sệt, mất bình tĩnh, mất niềm tin vào khả năng của bản thân mình. Nhiệm vụ mà nhà giáo dục phải làm cho các em hứng thú với môi trường học tập, gần gũi thân thiết giúp các em thiết lập mối quan hệ với bạn bè để nhanh chóng bước vào quá trình học tập. 3.2.2.3. Khả năng nhận thức của học sinh tiểu học Vào học tiểu học, trẻ gia nhập cuộc sống nhà trường và đã có được thái độ tự giác cùng với phương thức tư duy trực giác cùng với tư duy trực quan, do đó các em lĩnh hội được cách làm việc trí tuệ và có khả năng thực hiện được quá trình tái tạo lại được đối tượng học tập, dưới sự tổ chức chỉ đạo của giáo viên bằng chính hoạt động học tập của mình. Đặc biệt ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh là điều kiện quan trọng cho sự phát triển quá trình nhận thức cũng như tâm lý, nhân cách của trẻ. 3.2.2.4. Tâm lý sẵn sàng đi học của học sinh tiểu học Vào lớp một là bước ngoặt trong cuộc sống của trẻ. Khi trở thành học sinh, học tập là bổn phận hàng đầu, quan trọng nhất, một hoạt động bằng phương pháp nhà trường đã trở thành chủ đạo của các em tạo ra năng lực mới mà trước đó các em không có được. Sự thích thú đến trường, thích thú những nguyện vọng được đi học, sự chuẩn bị chu đáo cho các em, các quan hệ mới đối với trẻ đã tạo ra cho các em khao khát đến trường nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Lên 6 tuổi trẻ đã có khả năng điều khiển các hoạt động tâm lý của bản thân, cho nên các em có thể chấp hành các quy định của nhà trường làm tiền đề cần thiết cho việc học tập có hiệu quả. Điều kiện tiên quyết đối với sự hình thành, phát triển nhân cách học sinh tiểu học là phải hình thành hoạt động học tập. Để tổ chức các hoạt động học tập cần chú ý các hoạt động tư duy nhằm giúp học sinh tiếp nhận, giải quyết hệ thống nhiệm vụ học tập thông qua các hoạt động học tập để đạt được mục đích nhận định. 3.2.2.5. Đời sống xã hội của học sinh tiểu học Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tham gia các hoạt động học sinh tiểu học có nhiều hạn chế. Tuy nhiên trong quá trình đi học các em tiếp xúc với bạn bè, thầy cô và hiện thực hoá các hoạt động xã hội theo yêu cầu bảo vệ cây trồng, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ ... từ đó tâm lý, ý thức, nhân cách trẻ được hình thành và phát triển. Ngoài ra, người giáo viên tiểu học phải tổ chức hoạt động lao động, hoạt động xã hội mang hoạt động giáo dục, tính hòa nhập cộng đồng, tạo điều kiện cho việc lĩnh hội các chuẩn mực hành vi phương thức giao tiếp, cách ứng xử khi tiếp xúc với trẻ nhằm góp phần phát triển nhân tính, năng khiếu thẩm mỹ cho học sinh. Tóm lại, sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của các em trong gia đình, nhà trường, xã hội mà vị trí của các em được nâng lên. Các em ý thức được điều này và tích cực 17 hoạt động cho phù hợp với sự thay đổi đó. Vì vậy tâm lý, nhân cách các em đang hình thành, phát triển mạnh, đặc trưng cho lứa tuổi học sinh tiểu học. 3.3. Các hoạt động cơ bản của học sinh tiểu học 3.3.1. Hoạt động học tập của học sinh tiểu học Nhiều nhà tâm lí học cho rằng, học sinh tiểu học có hoạt động học là hoạt động chủ đạo, bởi vì: Hoạt động học là loại hình hoạt động lần đầu tiên xuất hiện ở học sinh tiểu học (bắt đầu từ lớp 1) với tư cách là hoạt động học đích thực (học tập với đúng nghĩa của nó).Trước đó, ở tuổi mẫu giáo, trẻ em cũng đã thực hiện hoạt động vui chơi, “chơi mà học”, kể cả trò chơi học tập, nhưng bản chất của các hoạt động đó vẫn là hoạt động vui chơi chứ chưa phải là hoạt động học đích thực, người lớn càng không nên quan niệm và cư xử với hoạt động vui chơi của trẻ như hoạt động học tập. Những sai lệch trong cách cư xử của người lớn đối với trẻ em về việc tổ chức hoạt động vui chơi và hoạt động học cho các em được biểu hiện ra qua cách cư xử cụ thể đối với trẻ em như: + Bắt trẻ em học trước (lớp một hoá trẻ mẫu giáo lớn) với hi vọng rằng khi vào lớp 1 trẻ sẽ học thuận lợi hơn, đạt kết quả tốt hơn (được điểm số cao). + Không quan tâm và chuẩn bị trước tâm lí khi bước vào lớp 1 cho trẻ. + Thông qua hoạt động học, học sinh tiểu học gắn liến với các yếu tố của môi trường xung quanh. + Hoạt động học tạo ra cái mới trong tâm lí trẻ em, đó là những nét tâm lí mới như chú ý có chủ định, không có chủ định, xuất hiện những tiền đề ban đầu của tư duy khoa học... + Hoạt động học tập không những đem đến những biến đổi tâm lý cơ bản ở tuổi này mà còn đem đến các hoạt động khác như hoạt động giao tiếp, hoạt động xã hội, từ đó làm tiền đề cho hoạt động chủ đạo giao tiếp. + Cùng với hoạt động học tập chủ đạo các em còn tham gia vào các hoạt động vui chơi khác, lao động, xã hội. Thông qua các hình thức đa dạng và phong phú mà hình thành nhân cách và phát triển nhân cách của trẻ. 3.3.2. Hoạt động giao tiếp của học sinh tiểu học Về khái niệm giao tiếp của học sinh tiểu học được hiểu theo nội hàm sau đây: – Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với con người thể hiện qua sự tiếp xúc tâm lí giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, và khi giao tiếp với nhau thì người ta tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Bằng giao tiếp con người xác lập và vận hành các quan hệ người – người, bằng giao tiếp con người hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác. – Giao tiếp của học sinh tiểu học với những người khác có thể xảy ra với các mối quan hệ khác nhau: + Giao tiếp giữa cá nhân với từng bạn bè, từng người thân, từng người khác trong cuộc sống. 18 + Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm (chủ yếu là nhóm bạn của mỗi em). + Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng (nhóm mà từng học sinh là thành viên với các nhóm khác). – Giao tiếp vừa mang tính chất xã hội vừa mang tính chất cá nhân. Tính chất xã hội của giao tiếp thể hiện ở chỗ nó được nảy sinh, hình thành trong xã hội và sử dụng các phương tiện do con người tạo ra và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tính cá nhân của giao tiếp được thể hiện ở nội dung, phạm vi, nhu cầu, phong cách, kĩ năng giao tiếp của mỗi người, mỗi học sinh tiểu học. Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, học sinh giao tiếp với thầy cô, bạn bè cùng tuổi, mọi người xung quanh. Thông qua sự giao tiếp đó mà học sinh được tiếp thu, lĩnh hội mọi chuẩn mực đạo đức xã hội, tạo nên ý thức đạo đức, ý thức tập thể, tình cảm, đạo đức, hành vi, thói quen đạo đức. - Thông qua giao tiếp trẻ em dần dần ý thức tự khẳng định mình, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm, tính cách. - Tóm lại: việc đi học ở trường là một bước ngoặt, trong đời sống của trẻ, đồng thời từ đó hình thành nên mối quan hệ trong tập thể trường học. Việc tham gia vào các hoạt động tập thể buộc trẻ phải thực hiện mọi quy tắc chế độ sinh hoạt tập thể, từ đó hình thành nên mối quan hệ tập thể cũng như các phẩm chất nhân cách. 3.3.3. Hoạt động vui chơi của học sinh tiểu học - Vui chơi là hoạt động không thể thiếu được ở lứa tuổi học sinh tiểu học. Hoạt động vui chơi vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống học sinh, nhất là những lớp đầu cấp. Nó mang tính chất hoạt động chủ đạo. - Hoạt động vui chơi của học sinh tiểu học gần gũi với đời thường, với cuộc sống dân gian của cộng đồng, ngoại trừ một số trò chơi có tính kĩ thuật hiện đại như trò chơi điện tử, trò chơi kĩ thuật... - Hoạt động vui chơi là hoạt động tự giác, phục vụ nhu cầu theo sở thích cá nhân về vận động cơ bắp, về thử sức trí tuệ, về sự hoà nhập giao lưu bạn bè, về sử dụng thời gian rỗi... - Tiêu chí đánh giá hoạt động vui chơi cũng không theo thông lệ mà có tính chủ quan nhiều hơn, đó là sự thoả mãn, sự khoái cảm của từng cá nhân sau khi tham gia trò chơi. - Điều đáng chú ý là các nhà giáo, các bậc cha mẹ, người lớn, nhà trường, các đoàn thể và xã hội cần quan tâm tạo điều kiện và tổ chức để học sinh tiểu học được vui chơi, được tham gia tự giác vào các trò chơi lành mạnh, phù hợp với lứa tuổi. 3.3.4. Các hoạt động khác của học sinh tiểu học - Các loại hình hoạt động khác của học sinh tiểu học cũng khá phong phú, đa dạng như những hoạt động ngoài giờ lên lớp có tính xã hội, hoạt động tìm hiểu thiên nhiên, môi trường tự nhiên, hoạt động Sao và hoạt động Đội, giúp đỡ cha mẹ và các công việc tự phục vụ... 19 - Các hoạt động phong phú đa dạng này mỗi loại hình có đối tượng, phương pháp và những phương tiện riêng, tuỳ thuộc vào điều kiện và mục đích cụ thể, nhưng đều có điểm chung là góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện ở bậc tiểu học. - Các hoạt động đa dạng nêu trên góp phần làm bộc lộ và phát triển tính hồn nhiên nhiều vẻ của trẻ em. Đồng thời khi chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác, đối với trẻ em, có tác dụng như hình thức nghỉ ngơi tích cực, kích thích, bổ trợ cho hoạt động học và góp phần tích cực đối với sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học. - Các loại hình hoạt động này đều ít nhiều đòi hỏi sự vận dụng kiến thức, kĩ năng đã lĩnh hội được qua hoạt động học và sử dụng những kinh nghiệm sống mà trẻ em đã tích luỹ được. Nhờ vậy mà một số kiến thức học sinh học được có cơ hội được vận dụng, được luyện tập, củng cố và trở nên có ích đối với cuộc sống của trẻ. - Nhà trường, giáo viên và cả gia đình, xã hội cần chú ý là làm sao tổ chức cho trẻ em thực hiện các loại hình hoạt động này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi và điều kiện thực tế ở từng cơ sở trường học, từng địa phương, từng gia đình. - Trong hoàn cảnh hiện nay, nếu đơn phương thì nhà trường không đủ điều kiện để tổ chức cho học sinh tiểu học thực hiện các loại hình hoạt động phong phú đa dạng cần thiết cho cuộc sống và sự phát triển của các em. Công việc quan trọng và rất có ý nghĩa này, trước hết đòi hỏi từ phía nhà trường một chương trình và kế hoạch học tập, hoạt động phù hợp dành cho học sinh từng lớp ở cấp tiểu học (nếu chương trình quá tải và dành cho một vài môn học nhiều thời lượng thì không còn thời gian để học sinh thực hiện các loại hình hoạt động khác), đồng thời cần huy động được sự tham gia của gia đình và xã hội, trong đó nhà trường và giáo viên có vai trò là người định hướng và tổ chức. 3.4. Đặc điểm phát triển tâm lý học sinh tiểu học 3.4.1. Học sinh tiểu học Cấp tiểu học có 5 lớp từ lớp 1 đến lớp 5 dành cho trẻ em từ 6 đến 11 tuổi (đối với một số trẻ em không có điều kiện bình thường để đi học đúng tuổi có thể học muộn hơn 1 – 2 năm, nghĩa là học sinh tiểu học có thể có trẻ em ở tuổi 13 – 14). Nhìn tổng thể, học sinh tiểu học có những đặc trưng sau: a. Là thực thể hồn nhiên tiềm tàng khả năng phát triển (khả năng hiện thực và khả năng tiềm ẩn) - Là thực thể hồn nhiên nên trẻ em ngây thơ, trong sáng. Bản tính của trẻ em luôn được thể hiện ra bên ngoài không hề che giấu hay “đóng kịch”. Chính vì thế mà người xưa có câu “đi hỏi già về nhà hỏi trẻ”. Trong những hoàn cảnh nhất định, do tác động không đúng từ bên ngoài, từ phía người lớn nên nhiều trẻ em đã tập nhiễm tật xấu mà ta vẫn thường gặp, đó là “tật nói dối”. Hiện nay, nhiều nền giáo dục văn minh tiên tiến đang hướng tới việc giữ gìn và tôn trọng bản tính hồn nhiên của trẻ em. Trong mỗi trẻ em tiềm tàng khả năng phát triển, khả năng tiềm tàng đó vẫn còn là ẩn số mà các nhà chuyên môn chưa hiểu tường tận, chưa làm sáng tỏ. Chính vì vậy mà kể cả 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan