Giới Thiệu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN
GIANG
KHOA SƯ PHẠM
Giáo trình
TÂM LÍ
HỌC LỨA
TUỔI
VÀ
TÂM LÍ
HỌC SƯ
PHẠM
(DÙNG CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM)
Người biên soạn
Thạc sĩ ĐỖ VĂN THÔNG
LƯU HÀNH NỘI BỘ
2001
Chương I: Nhập Môn Tâm
Lý Học Lứa Tuổi
Khái quát về tâm lý học lứa
tuổi và sư phạm
1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lí học lứa tuổi và
tâm lí học sư phạm
a. Đối tượng:
- Đối tượng của tâm lí học lứa tuổi là động
lực phát triển tâm lí theo lứa tuổi của con
người ; sự phát triển cá thể của các quá trình
tâm lí và các phẩm chất tâm lí trong nhân
cách của con người đang được phát triển
(quá trình con người trở thành nhân cách
như thế nào ?) ;
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của
các quá trình và các phẩm chất tâm lí riêng
lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và
sự khác biệt của chúng ở mỗi cá nhân trong
phạm vi một lứa tuổi, nghiên cứu những khả
năng lứa tuổi của việc lĩnh hội tri thức,
phương thức hành động ;
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu các dạng
hoạt động khác nhau của các cá nhân đang
được phát triển (vui chơi, lao động…)
Do yêu cầu của thực tiễn và thành tựu của
khoa học, ngày nay tâm lí học lứa tuổi có
nhiều phân ngành : tâm lí học trẻ em trước
tuổi học, tâm lí học tuổi nhi đồng, tâm lí học
tuổi thiếu niên, tâm lí học tuổi thanh niên…
- Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học sư
phạm là những quy luật tâm lí của việc dạy
học và giáo dục.
Tâm lí học sư phạm nghiên cứu những vấn
đề tâm lí học của việc điều khiển quá trình
dạy học, nghiên cứu sự hình thành quá trình
nhận thức, tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin
cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định
những điều kiện để đảm bảo phát triển trí
tuệ có hiệu qủa trong quá trình dạy học, xem
xét những vấn đề và mối quan hệ qua lại
giữa giáo viên và học sinh cũng như giữa
học sinh với học sinh.
Những phân ngành của tâm lí học sư phạm:
tâm lí học dạy học, tâm lí học giáo dục và
tâm lí học về người giáo viên.
b. Nhiệm vụ:
Từ những nghiên cứu trên tâm lí học lứa
tuổi và tâm lí học sư phạm có nhiệm vụ : rút
ra những quy luật chung của sự phát triển
nhân cách theo lứa tuổi, những nhân tố chỉ
đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi ;
rút ra những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ
năng kỹ xảo trong quá trình giáo dục và dạy
học, những biến đổi tâm lí của học sinh do
ảnh hưởng của giáo dục và dạy học…từ đó
cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ
chức hợp lí quá trình sư phạm, góp phần
nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và
dạy học.
c. Ý nghĩa: Những thành tựu của tâm lí học
lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có ý nghĩa lí
luận và thực tiễn lớn lao.
- Về mặt lí luận, các nghiên cứu của tâm lí
học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm sử dụng
các tài liệu của một số khoa học khác, nhưng
đến lượt mình nó lại cung cấp tài liệu có ý
nghĩa quan trọng cho các khoa học khác.
- Về mặt thực tiễn có thể khẳng định sự hiểu
biết về tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư
phạm là điều kiện cần thiết để tổ chức có
hiệu quả và đúng đắn quá trình học tập và
giáo dục.
2. Quan hệ giữa tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học
sư phạm
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chúng
quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học
khác, đặc biệt là tâm lí học đại cương, giáo
dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn…
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm là
những chuyên ngành của tâm lí học, đều dựa
trên cơ sở tâm lí học đại cương. Tâm lí học
lứa tuổi và tâm lí học sư phạm gắn bó chặt
chẽ với nhau, thống nhất với nhau, vì chúng
có chung khách thể nghiên cứu.
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm
đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy
học và giáo dục.
Sự phân chia ranh giới giữa hai ngành tâm lí
học này chỉ có tính chất tương đối.
Lý luận về sự phát triển
tâm lý học của trẻ
1. Khái niệm về sự phát triển tâm lý trẻ em:
a. Quan niệm về trẻ em:
Dựa trên những quan điểm triết học rất khác
nhau, người ta đã hiểu về trẻ em rất khác
nhau :
- Có quan niệm cho rằng trẻ em là “người
lớn thu nhỏ lại”, sự khác nhau giữa trẻ em
và người lớn khác nhau về mọi mặt (cơ thể,
tư tưởng, tình cảm...) chỉ ở tầm cở, kích
thước chứ không khác nhau về chất.
- Theo J.J. Rútxô (1712 - 1778) : Trẻ em
không phải là người lớn thu nhỏ lại và người
lớn cũng không phải lúc nào cũng có thể
hiểu được trí tuệ,nguyện vọng và tình cảm
độc đáo của trẻ thơ…vì “Trẻ em có những
cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng
của nó”.
- Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng
định: Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ
lại. Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn
là sự khác nhau về chất. Trẻ em là trẻ em, nó
vận động, phát triển theo quy luật của trẻ
em. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời,
đứa trẻ đã là một con người, một thành viên
của xã hội, có nhu cầu giao tiếp với người
lớn. Việc nuôi nấng, dạy dỗ trẻ phải theo
kiểu người. Mỗi thời đại khác nhau có trẻ
em riêng của mình.
b. Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm
lý trẻ em:
- Quan điểm duy tâm coi sụ phát triển tâm lý
trẻ em chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về số
lượng của các hiện tượng đang được phát
triển, mà không có sự chuyển biến về chất
lượng.
- Quan điểm này xem sự phát triển của mỗi
hiện tượng như là một quá trình diễn ra một
cách tự phát mà người ta không thể điều
khiển được, không thể nghiên cứu
được,không nhận thức được.
- Quan điểm sai lầm này được biểu hiện ở
các thuyết sau:
b.1. Thuyết tiền định:
+ Thuyết này coi sự phát triển tâm lí là do
các tiềm năng sinh vật gây ra, con người có
tiềm năng này từ khi mới sinh ra và sự phát
triển chỉ là sự trưởng thành, chín muồi của
những thuộc tính đã có sẳng ngay từ đầu và
được quyết định trước bằng con đường duy
truyền này.
+ Các nhà tâm lí học tư sản cho rằng :
những thuộc tính của nhân cách, năng lực
cũng đã được mã hoá, chương trình hoá
trong các trang bị gien.
+ Tuy nhiên, có những người theo thuyết
này có đề cập đến yếu tố môi trường. Nhưng
theo họ, mmôi trường chỉ là “yếu tố điều
chỉnh“, “yếu tố thể hiện“ một nhân tố bất
niến nào đó ở trẻ.
Nhà tâm lý học Mỹ E. Tóocđai cho rằng :
“Tự nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất
nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn
đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng
phương tiện tốt nhất“ và “vốn tự nhiên“ đó
đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên
một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được
kết quả nào đó “dù giảng dạy tốt“,số khác lại
tỏ ra lại có thành tích “dù giảng dạy tồi “...)
+ Từ quan điểm này làm cho con người mất
lòng tin vào giáo dục, vào sự tu dưỡng và
cải tạo bản thân, họ cho rằng vai trò của giáo
dục là thứ yếu, trẻ tốt hay xấu.học giỏi hay
kém không phải do giáo dục mà do gien tốt
hay xấu. Từ đó, họ đi đến kết luận : Trẻ em
khó bảo, năng lực trí tuệ kém phát triển là
do bẩm sinh chứ không phải do giáo dục,do
môi trường.
Như vậy, vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp.
Giáo dục chỉ là yếu tố bên ngoài có khả
năng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình
bộc lộ những phẩm chất tự nhiên, bị chế ước
bởi tính di truyền. Và họ đã rút ra kết luận
sai sư phạm lầm: mọi sự can thiệp vào quá
trình phát triển tự nhiên của trẻ đều là sự tùy
tiện, không thể tha thứ.
b.2 . Thuyết duy cảm :
Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm
giải thích sự phát triển của trẻ chỉ bằng
những tác động của môi trường xung quanh.
Theo các tác giả thuộc trường phái này thì :
+ Môi trường là nhân tố tiền định sự phát
triển của tẻ em. Vì thế, họ cho rằng, muốn
nghiên cứu con người chỉ cần nghiên cứu,
phân tích môi trường mà con người sống.
+ Quan điểm này cho rằng : môi trường xã
hội là cái bất biến, quyết định trước sự phát
triển tâm lý cá nhân, còn con người được
xem như là đối tượng thụ động trước ảnh
hưởng của môi trường.
+ Mọi người sinh ra đều có sẳn những đặc
điểm bẩm sinh như nhau để phát triển trí tuệ
và đạo đức. Sự khác nhau giữa các cá nhân
về điểm này hay khác là do ảnh hưởng của
môi trường, ảnh hưởng của những tác động
khác nhau.
Với quan niệm như vậy, chúng ta không thể
giải thích được vì sao trong một môi trường
sống như nhau lại có những nhân cách khác
nhau.
b.3 . Thuyết hội tụ hai yếu tố :
Những người theo quan điểm này cho rằng:
Sự tác động qua lại giữa hai yếu tố di truyền
và môi trường quyết định trực tiếp quá trình
phát triển, trong đó di truyền giữ vai trò
quyết định và môi trường là điều kiện để
biêns những đặc điểm tâm lý đã được định
sẳn thành hiện thực.
Theo họ, sự phát triển là sự chón muồi của
những năng lực , những nét tính cách, những
hứng thú…mà trẻ sinh ra đã có. Những nét
và những đặc điểm tính cách do cha mẹ
truyền lại cho trẻ dưới dạng có sẵn, bất
biến…
Một số người theo thuyết này có đề cập đễn
vai trò của môi trường đối với tốc độ chín
muồi của năng lực và nét tính cách được
truyền lại cho trẻ em. Nhưng theo họ, môi
trường không phải là toàn bộ những điều
kiện và hoàn cảnh mà trẻ em sống mà chỉ là
gia đình của trẻ…
Phê phán các thuyết trên :
Mặc dù quan niệm của những người đại diện
cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ khác
nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm
giống nhau: + Họ đều thừa nhận đặc điểm
tâm lý của con người là bất biến hoặc tiền
định hoặc do tiềm năng sinh vật di truyền
hoặc ảnh hưởng của môi trường bất biến.
Những quan điểm này nhầm phục vụ cho
giai cấp bốc lột. (Có nghĩa là sự bất bình
đẳng trong xã hội là tất nhiên, là hợp lý).
+ Họ đánh giá không đúng vai trò của giáo
dục, từ đó thiếu biện pháp giáo dục, bi quan
trước sản phẩm xấu của giáo dục. Họ xem
xét sự phát triển của trẻ một cách tách rời và
không phụ thuộc và những điều kiện cụ thể
mà trong đó quá trình phát triển của trẻ diễn
ra.
+ Họ đều cho rằng trẻ em là đối tượng thụ
động, cam chịu ảnh hưởng có tính chất
quyết định của yếu tố sinh vật hoặc môi
trường…Họ phủ nhận tính tích cực riêng
của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn
biện chứng được hình thành trong quá trình
phát triển tâm lí của cá nhân, mà không thấy
được con người vừa là sản phẩm của hoàn
cảnh, vừa là chủ thể có ý thức sáng tạo nên
hoàn cảnh.
c. Quan điểm duy vật biện chứng về sự
phát triển tâm lý trẻ em:
- Triết học mácxit thừa nhận : sự phát triển
là quá trình biến đổi cảu sự vật từ thấp đến
cao,từ đơn giản đến phức tạp. Đó là một quá
trình tích luỹ dần về số lượng, dẫn đến sự
thay đổi về chất lượng, là quá trình nảy sinh
cái mới trên cơ sở cái củ do sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản
thân sự vật hiện tượng.
- Nguyên lí này được vận dụng để xem xét
sự phát triển tâm lí trẻ em. Bản chất của sự
phát triển tâm lý trẻ em không phải chỉ là sự
tăng hay giảm về số lượng mà là một quá
trình biến đổi về chất trong tâm lý, sự thay
đổi về lượng của các chức năng tâm lí dẫn
đến sự thay đổi về chất và đưa đến sự hình
thành cái mới một cách nhảy vọt (có nghĩa
là làm xuất hiện những đặc điểm mới về
chất) - những cấu tạo tâm lý mới ở những
giai đoạn lứa tuổi nhất định.
Ví dụ : Trẻ em lên 3 tuổi có nhu cầu tự lập.
Thiếu niên có cảm giác mình là người lớn...
- Như vậy, trong các giai đoạn phát triển
khác nhau(sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo, nhi
đồng...) có sự cải biến về chất của các quá
trình tâm lý và toàn bộ nhân cách của trẻ.
- Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình
trẻ em lĩnh hội văn hoá - xã hội của loài
người dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của người
lớn thông qua hoạt động của bản thân làm
cho tâm lý của trẻ được hình thành và phát
triển. Có thể nói, sự phát triển tâm lý là một
quá trình kế thừa. Bất cứ một mức độ nào
của trình độ trước cũng là sự chuẩn bị cho
trình độ sau. Yếu tố tâm lý lúc đầu ở vị trí
thứ yếu, chuẩn bị cho tâm lý sau chuyển
sang vị trí chủ yếu.
Trẻ em không tự lớn lên giữa môi trường, nó
chỉ lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội
khi có vai trò trung gian của người lớn.
Người lớn chỉ bảo cho trẻ rất nhiều điều, từ
tên các đồ vật đến cách hành động với các
đồ vật…
-Sự phát triển thể hiện ở hai hình thái:
+ Sự phát triển về sinh lí thể hiện ở sự phát
triển về cơ thể, ở sức chịu đựng, chống đỡ
với những ảnh hưởng bên ngoài của cơ thể,
ở sự hình thành và phát triển hệ thống cơ,
xương, thần kinh và sự hoàn thiện các chức
năng của hệ thống đó.
+ Sự phát triển về tâm lý - xã hội thể hiện ở
sự hình thành nên con người với tư cách là
một thành viên của xã hội, tích cực tham gia
cải tạo xã hội, thể hiện:
Ở sự nhận thức thế giới: nhận thức của
trẻ ngày càng phát triển cao hơn, sâu sắc
hơn, từ nhận thức cảm tính phát triển lên
nhận thức lý tính...
Ở thái độ đối với thế giới xung quanh, ở
ý chí, nhu cầu, nếp sống, thói quen...
Ở sự tích cực, tự giác tham gia vào các
mặt khác nhau trong đời sống xã hội.
Ở hoạt động cải tạo thế giới và cải tạo
bản thân.
³Tóm lại :
Sự phát triển của trẻ đầy biến động và diễn
ra cực kỳ nhanh chóng, là một quá trình liên
tục ngay từ khi mới sinh ra, nó phát triển
cùng với sự phát triển sinh lý. Quá trình này
không phẳng lặng mà có khủng hoảng và đột
biến. Chính hoạt động của trẻ dưới sự hướng
dẫn của người lớn làm cho tâm lí của trẻ
được hình thành và phát triển. Đồng thời,
các nhà tâm lí duy vật biện chứng cũng thừa
nhận rằng, sự phát triển tâm lí chỉ có thể xảy
ra trên nền của một cơ sở vật chất nhất định
(cơ thể trẻ em). Những đặc điểm cơ thể là
điều kiện cần thiết, là tiền đề của sự phát
triển tâm lí trẻ em. Sự phát triển tâm lí mỗi
người dựa trên những điều kiện riêng của cơ
thể, nhưng những điều kiện này không quyết
định trước sự phát triển tâm lí, không phải là
động lực của sự phát triển tâm lí. Sự phát
triển tâm lí còn phụ thuộc vào một tổ hợp
những yếu tố khác nữa. Trẻ phải sống và
hoạt động trong điều kiện xã hội tương ứng
thì tâm lí của nó mới được phát triển.
2. Quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em:
a. Tính không đồng đều của sự phát triển
tâm lý:
Sự phát triển tâm lý trẻ em diễn ra một cách
không đồng đều và đầy biến động, có nghĩa
là trong điều kiện bất kỳ, thậm chí ngay cả
trong điều kiện thuận lợi nhất của việc giáo
dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức
năng tâm lý khác nhau…cũng thể phát triển
ở mức độ như nhau. Có những giai đoạn các
em phát triển bình thường, nhưng cũng có
những giai đoạn đột biến, phát triển một
cách tối ưu của một biểu hiện nào đó.
Tính không đồng đều của sự phát triển tâm
lý còn thể hiện ở chỗ có sự khác biệt về sự
phát triển tâm lý giữa các cá nhân trong
cùng một độ tuổi.
b. Tính toàn vẹn của tâm lý:
- Cùng với sự phát triển, tâm lý con người
ngày càng có tính trọn vẹn, thống nhất và
bền vững. Sự phát triển tâm lý là sự chuyển
biến dần các trạng thái tâm lý thành các đặc
điểm tâm lý cá nhân.Ví dụ:tâm trạng vui vẻ,
thoải mái trong lao động được lập lại thường
xuyên sẽ chuyển thành yêu lao động.
- Xem thêm -