Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Giáo trình môn học luật kinh tế- cần thơ...

Tài liệu Giáo trình môn học luật kinh tế- cần thơ

.PDF
74
368
61

Mô tả:

GIÁO TRÌNH MÔN HỌC luật kinh tế- cần thơ
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KỸ THUẬT TP. CẦN THƠ __________________ GIÁO TRÌNH MÔN HỌC LUẬT KINH TẾ (TRÌNH ĐỘ CAO ĐẲNG) TP. CẦN THƠ, NĂM 2008 48 Giáo trình môn Pháp luật kinh tế Trình độ cao đẳng (45 tiết) Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật TP. Cần Thơ Ngƣời biên soạn: Trần Hữu Hiệp E-mail: [email protected] ******** Bài 1: Lý luận chung về luật kinh tế I. Quá trình phát triển của lý luận về luật kinh tế: Kinh tế thị trƣờng xuất hiện đã thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhƣng cũng bộc lộ những khuyết tật của nó. Nhà nƣớc với vai trò quản lý mọi mặt đời sống xã hội, không thể đứng trên và đứng bên ngoài. Quyền lực Nhà nƣớc đã xuất hiện để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trƣờng, để bảo vệ tự do cạnh tranh - động lực phát triển kinh tế, để thực hiện mục tiêu kinh tế của Nhà nƣớc. Quyền lực đó đƣợc thể hiện trong pháp luật: pháp luật kinh tế. Nhƣ vậy, khi thể hiện yêu cầu của công quyền, luật kinh tế khởi sinh trong khu vực luật công. Mặc dù đã có lịch sử phát triển khá lâu dài nhƣng cho đến nay, các nhà khoa học pháp lý vẫn còn đang tranh cãi về đối tƣợng điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này, vẫn chƣa có quan niệm thống nhất về luật kinh tế. ở Việt Nam, lý luận về luật kinh tế, xuất hiện về cơ bản, dựa trên cơ sở lý luận của hệ thống pháp luật Xô Viết và các nƣớc Đông Âu, đƣợc hình thành bởi những điều kiện lịch sử nhất định của nƣớc ta: Thứ nhất, khi mà lý luận về luật kinh tế đƣợc truyền bá vào khoa học pháp lý Việt Nam thì nói chung, toàn bộ hệ thống khoa học pháp lý Việt Nam còn rất non trẻ. Vì vậy, lý luận Luật Kinh tế đã không vấp phải sự phản kháng của những lực lƣợng khoa học hùng mạnh. Thứ hai, vào giữa những năm 70, các quan điểm lý luận về luật kinh tế của Liên Xô và ở các nƣớc Đông Âu đang rất thịnh hành và có ảnh hƣởng to lớn, mang tính quyết định trong việt hình thành một ngành luật kinh tế độc lập ở Việt Nam. Luật kinh tế đƣợc coi là một công cụ mới, hữu hiệu để quản lý kinh tế và sau này còn đƣợc thừa nhận trong Hiến pháp (1980). II. Khái niệm về luật kinh tế: 1. Đối tƣợng điều chỉnh của Luật Kinh tế: Trƣớc hết cần phân biệt khái niệm luật kinh tế (với tính cách là một ngành luật độc lập) với khái niệm pháp luật kinh tế (với tƣ cách là một hệ thống hỗn hợp các qui phạm pháp luật, thuộc nhiều ngành luật khác nhau liên quan đến toàn bộ đời sống kinh tế trong xã hội). 49 Pháp luật kinh tế chủ yếu điều chỉnh những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế hoặc với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước với tính cách là chủ thể của quyền lực công cộng. Có thể kể đến những nhóm quan hệ chủ yếu sâu đây: - Quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh (pháp luật về doanh nghiệp). - Quan hệ phát sinh từ hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế (pháp luật về hợp đồng). - Quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp và bất đồng trong kinh doanh (pháp luật tài về phán kinh tế). - Quan hệ phát sinh trong quá trình can thiệp và điều tiết của Nhà nƣớc đối với các hoạt động kinh tế (pháp luật hành chính kinh tế - pháp luật kinh tế công) ... Nhƣ vậy, hiểu theo cách đó, pháp luật kinh tế trước hết không phải là một ngành luật mà là một hệ thống các lĩnh vực pháp luật và có đối tượng rất rộng. Trong khi đó, nếu coi luật kinh tế là một ngành luật (độc lập) trong hệ thống pháp luật thì luật kinh tế chỉ là một bộ phận của pháp luật kinh tế, là một ngành luật (độc lập) có đối tượng, phương pháp điều chỉnh và hệ thống chủ thể riêng. Hiện nay, vấn đề về một ngành luật kinh tế độc lập đang đƣợc tranh luận trong khoa học pháp lý Việt Nam và còn có những quan niệm khác nhau. Mặc dù vậy, khi nói đến Luật kinh tế và đối tƣợng của Luật kinh tế, đa số các nhà khoa học pháp lý đều coi Luật kinh tế có đối tƣợng chủ yếu là: 1. Các quan hệ xã hội diễn ra trong quá trình hình thành, tổ chức quản lý doanh nghiệp, bao gồm cả giải thể và phá sản doanh nghiệp (pháp Luật Doanh nghiệp). 2. Các quan hệ xã hội diễn ra trong quá trình tổ chức và thực hiện các giao dịch kinh tế (pháp luật hợp đồng). 3. Các quan hệ xã hội diễn ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, bao gồm thông qua trọng tài và toà án (pháp luật tài phán kinh tế). 2. Phƣơng pháp điều chỉnh của luật kinh tế Chuyển sang quản lý kinh tế theo cơ chế thị trƣờng theo định hƣớng XHCN, luật kinh tế không hề khƣớc từ phương pháp hành chính, nó vẫn tồn tại và tiếp tục phát huy hiệu quả. Nếu có khác trƣớc đây, chỉ là mức độ, phạm vi và phương thức thực hiện sự điều chỉnh pháp luật theo phương pháp hành chính. Tuy nhiên, điều chỉnh pháp luật bằng phƣơng pháp hành chính không đồng nghi· với việc điều chỉnh các hoạt động hành chính Nhà nƣớc và không chỉ là hoạt động có sự tham gia của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc. Khi điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống kinh tế bằng phƣơng pháp hành chính, Luật Kinh tế đƣợc coi là một lĩnh vực của hệ thống pháp luật công, các chủ thể của quan hệ pháp luật không có sự bình đẳng, không đƣợc tự do thoả thuận vì nội dung, và thậm chí hình thức của quan hệ pháp luật đã đƣợc pháp luật ghi nhận và mô tả. Chính vì thế, theo phƣơng pháp này, "các chủ thể đƣợc 50 làm những gì mà pháp luật ghi nhận". ở các nƣớc thuộc hệ Civil Law, mảng pháp luật kinh tế này đƣợc gọi là pháp luật kinh tế công. Bên cạnh việc điều chỉnh bằng phƣơng pháp của luật công, Luật Kinh tế của cơ chế thị trƣờng điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng phƣơng pháp của luật tƣ - phương pháp dân sự. Theo phƣơng pháp này, pháp luật tạo cho các chủ thể những khả năng pháp lý của tự do sáng tạo và thoả thuận. Việc sử dụng hay không và đến mức nào của sự tự do và bình đẳng sẽ phụ thuộc vào ý chí riêng của từng chủ thể quan hệ pháp luật. Việc một công dân hay doanh nghiệp nào đó quyết định đầu tƣ hay không, mức vốn bao nhiêu hay có ký hợp đồng với một đối tác nào đó và với số lƣợng, chất lƣợng và giá của sản phẩm, dịch vụ là bao nhiêu hay họ sử dụng phƣơng thức nào để giải quyết các bất đồng, tranh chấp phát sinh đều do họ tự quyết định. 3. Chủ thể của Luật Kinh tế: Chủ thể của Luật Kinh tế đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, chủ thể thƣờng xuyên và chủ yếu của Luật Kinh tế là các cơ quan, doanh nghiệp hay các đơn vị kinh tế nói chung, có chức năng chủ yếu là hoạt động trên lĩnh vực kinh tế và có thẩm quyền kinh tế. Theo nghĩa rộng, đó là các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội cũng có thể do Luật Kinh tế điều chỉnh khi tham gia các quan hệ kinh tế nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Khi đó, những cơ quan và tổ chức này cũng đƣợc coi là chủ thể của Luật Kinh tế, nhƣng do nhiều ngành luật khác nhau điều chỉnh. 4. Quan niệm về Luật Kinh tế trong hoàn cảnh mới: Thực ra, luật kinh tế là khái niệm rất rộng, khó có thể định lƣợng chính xác về nội dung. Hiểu theo cách chung nhất, thì Luật Kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật mà với các quy phạm đó, Nhà nước tác động vào các tác nhân tham gia đời sống kinh tế và các quy phạm liên quan đến mối tương quan giữa sự tự do của từng cá nhân và sự điều chỉnh của Nhà nước. Nếu hiểu theo cách đó thì Luật Kinh tế điều chỉnh khả năng và cách thức của sự can thiệp của Nhà nƣớc vào đời sống kinh tế, bảo vệ lợi ích công, nó thể hiện nguyên tắc bình đẳng và bảo vệ lợi ích tƣ của các thành viên tham gia thƣơng trƣờng1. Luật Kinh tế đƣợc coi là bộ phận cấu thành của cơ chế kinh tế. Theo nghĩa đó, pháp luật kinh tế đƣợc hiểu là sự biểu hiện về hình thức pháp lý những nội dung của các hoạt động và quá trình kinh tế. Hiện nay, chƣa có thể nói tới một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về Luật Kinh tế trong tƣơng lai. Song, có thể đƣa ra một số vấn đề lý luận thể hiện sự thay đổi hoặc bổ sung cho quan niệm truyền thống về luật kinh tế, về đối tƣợng, phƣơng pháp điều chỉnh và hệ thống chủ thể của luật kinh tế: 1 Xem: Nguyễn Nhƣ Phát, Luật kinh tế - mấy kinh nghiệm từ nƣớc ngoài, T/C Khoa học pháp lý, Số 1, tr. 36 -37. 51 Thứ nhất, đối tượng của ngành luật kinh tế trong tương lai sẽ càng ngày càng được mở rộng. Do nội dung và tính chất kinh doanh của nền kinh tế thị trƣờng, sẽ xuất hiện nhiều nhóm quan hệ mới cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Thứ hai, hệ thống chủ thể của luật kinh tế cũng được mở rộng hơn nhiều so với trước đây. Việc thiết lập một cơ cÂu kinh tế nhiều thành phần tất yếu sẽ dẫn đến một cơ cÂu đa dạng và phong phó của các chủ thể kinh doanh. Nhƣ vậy có thể tạm thời nêu ra những tiêu chí để xác định của Luật Kinh tế nhƣ sau: - Chủ thể của Luật Kinh tế trƣớc hết là một doanh nghiệp, đơn vị kinh tế hay cơ quan quản lý kinh tế đƣợc thành lập một cách hợp pháp2. - Dấu hiệu tiếp theo của chủ thể luật kinh tế là tài sản. - Một dấu hiệu nữa của chủ thể luật kinh tế là thẩm quyền kinh tế. Thẩm quyền kinh tế là hệ thống thẩm quyền cơ bản và chủ yếu trong toàn bộ thẩm quyền của một chủ thể luật kinh tế mà nó có thể có đƣợc. Thứ ba, phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế cũng được bổ sung nhiều điểm mới. Về mặt kinh tế, do có sự phân định chức năng quản lý vi mô và quản lý vĩ mô nên tính chất của mỗi quan hệ kinh tế không còn đƣợc hiểu là sự kết hợp của yếu tố tổ chức kế hoạch và yếu tố tài sản. Điều đó không có nghĩa rằng, các quan hệ tài sản ngày nay không còn khả năng chứa đựng tính tổ chức, kế hoạch. Vấn đề là ở chỗ, cần phải quan niệm lại về kế hoạch. Tóm lại, dù các nhà khoa học tiền bối và đƣơng thời đến nay vẫn chƣa thống nhất với nhau về diện mạo của ngành luật kinh tế, song tất cả đã đều phải thừa nhận rằng, có một lĩnh vực pháp luật, thuộc hệ thống pháp luật của mỗi Quốc gia luôn đồng thời quan tâm hai vấn đề lớn. Đó là:  Sự can thiệp của công quyền vào đời sống kinh tế.  Tự do và bình đẳng của chủ thể tham gia thƣơng trƣờng. III. Nguồn Luật Kinh tế: Nguồn của Luật Kinh tế là những văn bản pháp luật, chứa đựng những qui phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành. Hệ thống pháp luật nƣớc ta là hệ thống pháp luật theo trƣờng phái luật qui phạm. Vì vậy, các án lệ không đƣợc coi là nguồn luật, là khuôn mẫu xử sự chung cho các hành vi của các chủ thể pháp luật. Các quyết định hành chính, các quyết định của toà án, của trọng tài kinh tế ... không phải là nguồn của luật kinh tế. Theo truyền thống, nguồn của Luật Kinh tế ở nƣớc ta bao gồm các văn bản luật và những văn bản dƣới luật: 1. Hiến pháp: 2 ở nhiều quốc gia khác pháp luật có thừa nhận loại công ty thực tế, có nghĩa là những thực thể pháp lý không đƣợc thành lập theo thủ tục đã định song vẫn tồn tại và khi tham gia một số quan hệ pháp luật, chúng đƣợc coi là thƣơng gia (thực tế). 52 2. Luật do Quốc hội thông qua. 3. Nghị quyết của Quốc hội về kinh tế, 4. Pháp lệnh của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội (nh- Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế...). Đáng lƣu ý là, giá trị pháp lý của pháp lệnh vẫn còn là vấn đề tranh luận trong khoa học pháp lý. Pháp lệnh có giá trị pháp lý nh- một đạo luật hay là một văn bản có giá trị pháp lý dƣới luật? Vấn đề còn đƣợc tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ. 5. Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tƣớng Chính 6. Thông tư, Quyết định, Chỉ thị của các Bộ, cơ quan ngang bộ; Nghị quyết của Hội phủ. đồng nhân dân và các quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh ... IV. Khái niệm về chủ thể kinh doanh và phân loại doanh nghiệp: 1. Khái niệm về chủ thể kinh doanh: Lần đầu tiên, một định nghĩa về hành vi kinh doanh đƣợc nêu tại Điều 3 của Luật Công ty 1990. Định nghĩa này lại đƣợc nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp ngày 12/6/1999 và mới đây, trong Khoản 2, Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, định nghĩa về “kinh doanh” trong Luật Doanh nghiệp mặc nhiên đƣợc áp dụng chung cho các loại chủ thể kinh doanh. Hơn thế nữa, vấn đề đặt ra là, bên cạnh khái niệm kinh doanh (hành vi kinh doanh) còn có khái niệm hành vi thƣơng mại. Hành vi thƣơng mại theo Điều 5 của Luật thƣơng mại có nội hàm hạn hẹp hơn khái niệm kinh doanh theo Điều 4 của Luật Doanh nghiệp: "kinh doanh là việc thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi". Theo định nghĩa này, một hành vi sẽ đƣợc coi là hành vi kinh doanh, theo đồng thời phải đáp ứng các dấu hiệu sau : - Thứ nhất, hành vi đó phải mang tính chất nghề nghiệp. - Thứ hai, hành vi phải diễn ra trên thị trƣờng. - Thứ ba, hành vi có mục đích sinh lợi. - Thứ tƣ, hành vi đó phải là những hành vi thƣờng xuyên. Nhƣ vậy, những chủ thể thực hiện trên thực tế những hành vi kinh doanh đƣợc coi là doanh nghiệp. Chủ thể kinh doanh hợp pháp, trên thực tế, là những đơn vị kinh doanh có tƣ cách pháp nhân hoặc không có tƣ cách pháp nhân. Nhƣ vậy, có hay không có tƣ cách pháp nhân không phải là điều kiện tiên quyết để xác định sự tồn tại hợp pháp hay bình đẳng của các chủ thể kinh doanh. Vấn đề pháp nhân hay thể nhân chỉ dẫn đến kết cục về mặt pháp lý là xem xét đến chế độ trách nhiệm hữu hạn hay vô hạn của một đơn vị kinh doanh mà thôi. Trong hệ thống pháp luật hiện hành và khoa học pháp lý, ngƣời ta còn khá quen biết đến một khái niệm rất quen thuộc là doanh nghiệp. Vậy, doanh nghiệp là gì và chóng có quan hệ thế 53 nào với các đơn vị kinh doanh với tính cách là các thực thể pháp lý đƣợc thừa nhận và bảo vệ trong thƣơng trƣờng ? Điều 3 của Luật Doanh nghiệp có định nghĩa rằng: ”Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh". 2. Phân loại doanh nghiệp: Về lý thuyết cũng nhƣ thực tiễn có thể phân loại doanh nghiệp theo những dấu hiệu khác nhau. Nếu xét từ dấu hiệu sở hữu (tính chất sở hữu của những vốn và tài sản đƣợc sử dụng để thành lập doanh nghiệp - sở hữu vốn) ngƣời ta có thể chia doanh nghiệp thành: - Doanh nghiệp nhà nƣớc - Doanh nghiệp tƣ nhân - Doanh nghiệp tập thể - Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội Nếu xem xét theo dấu hiệu về phƣơng thức đầu tƣ vốn, có thể chia doanh nghiệp thành: - Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trong nƣớc - Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (bao gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài). Hoặc: - Doanh nghiệp một chủ: là doanh nghiệp do một chủ đầu tƣ vốn để thành lập. - Doanh nghiệp nhiều chủ: Là doanh nghiệp đƣợc hình thành trên cơ sở liên kết của các thành viên thể hiện qua việc cùng nhau góp vốn thành lập doanh nghiệp. Loại doanh nghiệp này đƣợc gọi là Công ty. Bên cạnh phƣơng thức phân loại doanh nghiệp nhƣ trên, ngƣời ta còn phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí về khả năng chịu trách nhiệm độc lập về tài sản mà theo đó, khoa học pháp lý biết đến cặp phạm trù pháp nhân và thể nhân. Kế tiếp cặp phạm trù pháp nhân - thể nhân, khoa học pháp lý, khi phân biệt các chủ thể kinh doanh, còn căn cứ vào mức độ của việc chịu trách nhiệm về tài sản trong kinh doanh mà theo đó, ngƣời ta biết đến trách nhiệm vô hạn và trách nhiệm hữu hạn. Nhƣ đã trình bầy trên đây, khoa học pháp lý nƣớc ta trong một số năm gần đây ®É sử dụng cặp phạm trù "trách nhiệm vô hạn" và "trách nhiệm hữu hạn". Tuy nhiên cho đến nay, trong thực tế, giới pháp lý và giới kinh doanh chƣa thực sự có sự thấu hiểu thống nhất và đầy đủ về hai dạng "trách nhiệm" này. 54 Bài 2: ĐỊA VỀ PHÁP LÝ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP VIỆT NAM I/- DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC 1. Khái niệm Doanh nghiệp nhà nƣớc (DNNN): Thuật ngữ Doanh nghiệp nhà nước đƣợc sử dụng chính thức trong Nghị định số 388/HÑBT ngày 20/11/1991 ban hành qui chế về thành lập và giải thể Doanh nghiệp nhà nƣớc (trƣớc đó thƣờng đƣợc gọi là Công ty hay Xí nghiệp quốc doanh). Điều 1, Nghị định này nêu: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu. Doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật”. Năm 1995, Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc lần đầu tiên đƣợc ra đời, hình thành khung pháp lý quan trọng trong lĩnh vực kinh tế nhà nƣớc, đã phát huy hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển kinh tế nhiều thành phần, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc năm 1995 đã thể hiện những bất cập; cần có một văn bản pháp luật mới, phù hợp thực tế hơn, cho nên Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc năm 2003. Tại Điều 1, Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc năm 2003, có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2004 định nghĩa về Doanh nghiệp nhà nƣớc nhƣ sau: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo nghĩa đó, DNNN do nhà nƣớc thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận và tổ chức (trực tiếp hoặc gián tiếp) quản lý kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nƣớc giao. DNNN coù tƣ cách pháp nhân, có các quyền, nghĩa vụ dân sự và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. 2. Đặc điểm của Doanh nghiệp nhà nƣớc: (1) - DNNN là một tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn (nhà nƣớc đầu tƣ vốn với mục đích kinh doanh hoặc kinh doanh có hoạt động công ích). Nhà nƣớc có thể đầu tƣ toàn bộ (Công ty nhà nƣớc) hoặc một phần vốn (công ty TNHH, công ty CP và một số loại hình công ty khác có vốn góp của nhà nƣớc). (2) - DNNN do nhà nước tổ chức quản lý và hoạt động theo các mục tiêu KT-XH do nhà nước giao tương ứng với vốn và tài sản giao cho doanh nghiệp. Nhà nƣớc có quyền đặt ra mục tiêu và thay đổi mục tiêu đó. 55 Ví dụ: Mục tiêu gồm có mục tiêu kinh doanh (thu lợi nhuận) và mục tiêu công ích (đáp ứng yêu cầu kinh tế và yêu cầu xã hội) thì nhà nƣớc cũng có thể thay đổi từ mục tiêu này sang mục tiêu khác. DNNN là đối tượng quản lý trực tiếp của nhà nước xuất phát từ yếu tố nhà nƣớc đầu tƣ vốn:  Quản lý về: mô hình, cơ cấu Doanh nghiệp, nhiệm vụ, quyền hạn nhƣ Hội đồng quản trị (HÑQT), Chủ tịch HÑQT, Tổng Gíam đốc, Giám đốc, Ban kiểm soát, thẩm quyền, trình tự thủ tục bổ nhiệm, bãi nhiệm…thực hiện các quyền sở hữu tài sản. Ví dụ: Thủ tƣớng Chính phủ bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch HÑQT, Tổng Gíam đốc, Gíam đốc, Kế toán trƣởng, hoặc các thành viên Ban kiểm soát theo đề nghị của các cơ quan Bộ hoặc Hội đồng quản trị. (3) - DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền quản lý vốn và tài sản do nhà nước giao. 3. Phân loại Doanh nghiệp nhà nƣớc: 3.1. Dựa vào mục đích hoạt động của Doanh nghiệp nhà nƣớc có hai loại: - Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh (nhằm thu lợi nhuận) - Doanh nghiệp hoạt động công ích. 3.2. Dựa vào mô hình tổ chức quản lý DNNN đƣợc chia thành hai loại: - Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có Hội đồng quản trị (HÑQT): có quy mô lớn thƣờng hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế và cơ cấu tổ chức bộ máy có HÑQT. - Doanh nghiệp nhà nước không có Hội đồng quản trị: có quy mô tƣơng đối nhỏ hơn so với loại hình Doanh nghiệp có HÑQT và cơ cấu tổ chức bộ máy không có HÑQT. Có thể kể đến các tiêu chí để phân biệt giữa DNNN có HÑQT và DNNN không có HÑQT nhƣ sau:  Vốn của doanh nghiệp,  Số lƣợng ngƣời lao động trong doanh nghiệp,  Doanh thu hàng năm của doanh nghiệp,  Các khoản nộp ngân sách hàng năm của doanh nghiệp. Ví dụ: Một Doanh nghiệp đƣợc gọi là lớn (có HÑQT) phải có vốn ít nhất là 50 tyû đồng, lao động phải từ 1.500 ngƣời trở lên, doanh thu một năm ít nhất là 80 tyû đồng, các khoản phải nộp ngân sách hàng năm ít nhất từ 7 đến 10 tyû đồng. 4. địa vị pháp lý của DNNN: 4.1. Khái niệm: Địa vị pháp lý của DNNN là tổng hợp các qui phạm pháp luật quy định về việc thành lập, hoạt động, giải thể, phá sản DNNN, quy định về các quyền và nghĩa vụ của DNNN, trách nhiệm của DNNN đối với nền kinh tế nước nhà. 56 4.2. Các yếu tố quyết định địa vị pháp lý của DNNN: - DNNN chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, DNNN tồn tại trong những lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, có thể do tƣ nhân không đủ sức đầu tƣ hoặc do đáp ứng nhu cầu xã hội. - Cơ chế quản lý DNNN quyết định địa vị pháp lý của DNNN, bởi vì nhà nƣớc không quản lý DNNN bằng chỉ tiêu pháp lệnh nhƣ nhƣ thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung trƣớc đây (trƣớc năm 1986) mà quản lý bằng chính sách pháp luật, theo quy luật của nền kinh tế thị trƣờng nhƣ quy luật cung – cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh. Giờ đây, các DNNN có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của Doanh nghiệp mình nhƣ cầm có, thế chấp đối với tài sản nhà nƣớc giao để huy động vốn hoặc sử dụng các biện pháp tài chính cần thiết khác trong kinh doanh ... mà không cần xin phép cơ quan chủ quản, ngoại trừ thay đổi các dây chuyền sản xuất thuộc trƣờng hợp ñact biệt quan trọng. DNNN có quyền quản lý, là ngƣời đại diện chứ không phải là chủ sở höõuï đối với tài sản của Doanh nghiệp. 5. Thành lập và giải thể DNNN: 5.1. Thành lập DNNN: Bao gồm 5 bƣớc sau; DNNN (Công ty nhà nƣớc) đƣợc thành lập mới ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn sau đây: a) Ngành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội; b) Ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tƣ lớn; c) Ngành, lĩnh vực có lợi thỊ cạnh tranh cao; d) Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tƣ. Theo quy định, có hai loại thủ tục là xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh. - Bước 1: Đề nghị thành lập DNNN: Phải do Thủ trƣởng của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đề nghị (Thủ trƣởng của cơ quan sáng lập DNNN) nhƣ: Bộ trƣởng các Bộ, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Ngƣời đề nghị thành lập DNNN phải căn cứ vào danh mục những ngành nghề do Thủ tƣớng Chính phủ ban hành và lập hồ sơ thành lập, gửi đến ngƣời có thẩm quyền quyết định thành lập DNNN. Hồ sơ thành lập DNNN gồm có: + Tờ trình đề nghị thành lập công ty (DNNN), + Đề án thành lập DNNN (Đề án thành lập phải đầy đủ các yêu cầu: Danh mục sản phẩm, nhu cầu thị trƣờng, dịch vụ của công ty địa điểm công ty có nêu diện tích sử dụng, khả năng cung ứng lao động và các điều kiện cần thiết khác, dự kiến tổng vốn đầu tƣ, luận chứng khả thi về hiệu 57 quả kinh tế - xã hội, báo cáo đánh gía tác động môi trƣờng, dự kiến mô hình quản lý, nếu là công ty xây dựng mới thì phải có cả dự án thành lập mới). + Dự thảo điều lệ Công ty (DNNN), + Đơn xin giao đất, thuê đất, + Đơn đề nghị ƣu đãi đầu tƣ (nếu có). - Bước 2: Thẩm định hồ sơ. Phải có kết luận bằng văn bản của Hội đồng thẩm định trƣớc khi trình lên ngƣời có thẩm quyền quyết định thành lập DNNN. Hội đồng thẩm định (HÑTÑ): Do ngƣời có quyền quyết định thành lập DNNN hoặc ngƣời đƣợc ngƣời có quyền quyết định thành lập DNNN ủy quyền thành lập, HÑTÑ là cơ quan tƣ vấn liên ngành hoạt động theo nguyên tắc công khai tập thể, mà thành phần là các chuyên gia am hiểu về các lĩnh vực cần thẩm định nhƣ: Các Chuyên gia về tài chính, môi trƣờng, khoa học kỹ thuật... các thành viên của HÑTÑ phải trình bày yù kiến của mình bằng văn bản sau đó trình lên Chủ tịch HÑTÑ, Chủ tịch HÑTÑ tổng hợp các yù kiến đó cũng bằng văn bản trình lên ngƣời có thẩm quyền quyết định thành lập DNNN. - Bước 3: Quyết định thành lập DNNN: (thẩm quyền ký quyết định) + Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập mới công ty đặt biệt quan trọng, chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nƣớc, + Bộ trƣởng các Bộ, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập mới công ty nhà nƣớc không thuộc đối tƣợng qui định nhƣ đối với Thủ tƣớng chính phủ. Nhƣ vậy, trong một số trƣờng hợp ngƣời đề nghị thành lập DNNN đồng thời là ngƣời ký quyết định thành lập DNNN hoặc đƣợc ký ủy quyền. Ví dụ: Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, Chủ tịch UBND Cấp tỉnh cũng có quyền ký quyết định thành lập mới công ty ñac biệt quan trọng, chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước do Thủ tướng ủy quyền. Khi quyết định thành lập DNNN thì ngƣời có thẩm quyền quyết định thành lập DNNN phải đồng thời bổ nhiệm xong Chủ tịch HÑQT, thành viên HÑQT (nếu là DNNN có HÑQT), Giám đốc Doanh nghiệp (hoặc ký hợp đồng) nếu Doanh nghiệp không có HÑQT. - Bước 4: Đăng ký kinh doanh: Kể từ khi Doanh nghiệp đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì Doanh nghiệp mới có tƣ cách pháp nhân, đồng thời đƣợc nhận vốn từ ngân sách nhà nƣớc hoặc huy động vốn để đầu tƣ và kể từ ngày có quyết định thành lập Doanh nghiệp sáu mƣơi ngày công ty phải đăng ký kinh doanh tại Sở kế hoạch và đầu tƣ ở nơi Doanh nghiệp có trụ sở chính. 58 Trong thời hạn mƣời lăm ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở kế hoạch và đầu tƣ phải cấp giấy đăng ký kinh doanh cho Doanh nghiệp (tùy mỗi nơi khác nhau mà thời gian đƣợc qui định khác nhau, nhƣng không đƣợc vƣợt quá số thời gian luật định, trừ những trƣờng hợp hết sức đặc biệt), khi những Doanh nghiệp có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì những hành vi của Doanh nghiệp đó mới đƣợc coi là hành vi của Doanh nghiệp. Lƣu yù, sáu mƣơi ngày là ngày luật định, nếu quá sáu mƣơi ngày thì quyết định thành lập đối với Doanh nghiệp không còn giá trị pháp lý. Một số chú yù khác: - Tổng công ty 91: Là Tổng công ty hoạt động theo quyết định số 91/TTg/7/3/1994 có quy mô lớn vốn từ 1.000 tyû trở lên và có 7 thành viên liên kết với nhau (7 DNNN). - Tổng công ty 90: có quy mô nhỏ hơn Tổng công ty 91 số vốn ít nhất là 500 tyû có 5 thành viên liên kết với nhau (5 DNNN). - Bước 5: Đăng báo. Là việc Doanh nghiệp thông báo cho các đối tác khác biết trong thời hạn ba mƣơi ngày kể từ ngày đƣợc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, Doanh nghiệp phải đăng trên Báo năm kỳ liên tiếp (bao gồm Báo địa phƣơng và Báo trung ƣơng), nội dung đăng báo bao gồm: địa chỉ giao dịch của Doanh nghiệp, vốn, ngành nghề, tên ngƣời đại diện hợp pháp của Doanh nghiệp … 5.2. Giải thể DNNN: - Giải thể DNNN là một thủ tục hành chính để nhằm chấm dứt hoạt động một DNNN. - Thẩm quyền giải thể: cụ quan nào có thẩm quyền quyết định thành lập DNNN, thì cơ quan đó có thẩm quyền giải thể đối với DNNN đó. - Căn cứ quyết định giải thể: + Việc duy trì DNNN là không cần thiết (ví dụ: Sắp xếp lại các DNNN, hợp nhất DNNN...) + DNNN hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập và trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà không có gia hạn thêm, + DNNN kinh doanh thua lỗ kéo dài (khoảng hai năm liên tiếp) nhƣng chƣa đến mức mất khả năng thanh toán nợ đến hạn (phá sản), + DNNN không thực hiện đƣợc các nghĩa vụ mà nhà nƣớc giao, mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết, (ví dụ: Đổi mới công nghệ, giảm biên chế, thay đổi cơ cấu tổ chức quản lý....) Đối với Tổng công ty do Nhà nƣớc tổ chức và thành lập không thực hiện đƣợc các mục tiêu nhƣ: tổ chức các hoạt động dịch vụ tìm kiếm thị trƣờng, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị… hoạt động dịch vụ hỗ trợ khác cho các công ty thành viên; tạo điều kiện phát triển công nghệ, tăng cƣờng, tích tụ, tập trung vốn, phân công chuyên môn hóa; có cơ chế bảo đảm lợi ích và gắn bó lợi ích giữa các thành viên công ty thì giải thể bộ máy quản lý tổng công ty và chuyển thành các công ty nhà nƣớc độc lập. 59 6. Tổ chức và quản lý DNNN: 6.1. DNNN có HĐQT: Cơ cấu tổ chức bao gồm: HÑQT, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (đối với Tổng công ty nhà nƣớc, công ty nhà nƣớc độc lập), các Phó Tổng giám đốc, Bộ máy giúp việc và Kế toán trƣởng, trong đó:  HĐQT: Là cơ quan đại diện trực tiếp cho chủ sở hữu nhà nƣớc tại tổng công ty nhà nƣớc, công ty nhà nƣớc độc lập có HĐQT, có quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc xác định và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu phân cấp cho các cơ quan, tổ chức khác là đại diện chủ sở hữu thực hiện. HĐQT chịu trách nhiệm trƣớc ngƣời quyết định thành lập tổng công ty nhà nƣớc, công ty nhà nƣớc độc lập có HĐQT, ngƣời bổ nhiệm và trƣớc pháp luật về mọi hoạt động của tổng công ty, công ty. + Thành phần của HĐQT bao gồm: Chủ tịch HĐQT, tổng giám đốc và các thành viên, phải thoả các điều kiện nhƣ sau: Là công dân Việt Nam, thƣờng trú tại Việt Nam, Có trình độ Đại học, năng lực quản lý kinh doanh, kinh doanh, Riêng Chủ tịch HĐQT, phải có kinh nghiệm ít nhất ba năm trong lĩnh vực quản lý, điều hành doanh nghiệp thuộc ngành, nghề kinh doanh chính của công ty, Chủ tịch HĐQT không đƣợc kiêm chức Tổng giám đốc. Tổng giám đốc có thể là thành viên của HĐQT, phải là ngƣời có năng lực kinh doanh và tổ chức quản lý công ty, có trình độ Đại học, có chuyên môn thuộc lĩnh vực quản lý, điều hành doanh nghiệp thuộc ngành, nghề kinh doanh chính của công ty, có kinh nghiệm ít nhất ba năm trong việc quản lý; có sức khoẻ, phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, liêm khiết, hiểu biết pháp luật, và trừ những ngƣời vi phạm các điều cấm của pháp luật. Chủ tịch HĐQT cùng thành viên do ngƣời đề nghị thành lập DNNN trình Thủ tƣớng Chính phủ hoặc ngƣời ñöïôc ủy quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và kyû luật, HĐQT gồm từ năm đến bảy thành viên, làm việc theo nhiệm kỳ năm năm, bao gồm thành viên chuyên trách (Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, Trƣởng ban kiểm soát) và kiêm nhiệm (các thành viên này thƣờng là các chuyên gia), Luật cũng cấm thành viên HĐQT đồng thời đảm đƣơng các chức vụ khác trong bộ máy nhà nƣớc, không quan hệ hợp đồng làm việc với DNTN, công ty khác, không đƣợc giữ chức quản lý DNTN, công ty khác. + Chế độ làm việc và nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT: HÑQT làm việc theo chế độ tập thể, hợp thƣờng kỳ, hàng quý hoặc là bất thƣờng để giải quyết các vấn đề cấp thiết, bất thƣờng của doanh nghiệp do Chủ tịch HĐQT, tổng giám đốc hoặc 60 trên 50% thành viên HĐQT đề nghị, các cuộc họp của HĐQT phải có mặt ít nhất từ 2/3 thành viên trở lên tham dự, Nghị quyết, Quyết định của HĐQT có hiệu lực khi có trên 50% tổng số thành viên tán thành, các thành viên còn lại có quyền bảo lƣu yù kiến cho lần hợp kỳ sau, Một số nhiệm vụ,ï quyền hạn: . HĐQT quản lý nguồn lực của nhà nƣớc giao cho Doanh nghiệp, . Đại diện cho bên giao vốn là cơ quan tài chính, đại diện cho bên nhận vốn là Chủ tịch HĐQT hoặc Tổng giám đốc, . Quyết định chiến lƣợc kinh doanh hàng năm, . Phân cấp cho Tổng giám đốc quyết định dự án đầu tƣ, góp vốn, mua cổ phần của công ty khác, bán tài sản của công ty có trị giá đến 50% trên tổng số vốn, các hợp đồng vay, cho vay, thuê, cho thuê vƣợt mức vốn điều lệ của công ty, . Quyết định phƣơng án tổ chức, kinh doanh, biên chế công ty… . Tuyển chọn, ký hợp đồng, bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức, quyết định tiền lƣơng đối với Tổng giám đốc sau khi đƣợc sự chấp thuận của ngƣời ra quyết định thành lập công ty hoặc các chức danh khác khi có sự đề nghị của Tổng giám đốc, . Thông báo tài chính hàng năm, kiểm tra Tổng giám đốc và các chức danh khác, . Kiến nghị phê duyệt, sửa đổ điều lệ công ty, yêu cầu Tổng giám đốc nộp đơn tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp và các nhiệm vụ quyền hạn khác đƣợc qui định tại điều 30 của Luật doanh nghiệp nhà nƣớc.  Tổng giám đốc, các phó Tổng giám đốc, Kế toán trƣởng và Bộ máy giúp việc: Tổng giám đốc là ngƣời đại diện theo pháp luật, thực hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trƣớc HĐQT, báo cáo trực tiếp với HÑQT và pháp luật, có quyền điều hành cao nhất của công ty, đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ hoặc ngƣời đƣợc ủy quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm theo yêu cầu của HĐQT - là ngƣời ký kết các hợp đồng kinh tế, điều hành việc sử dụng nguồn vốn, giao cho các đơn vị thành viên, điều chỉnh nguồn vốn đó khi cần, là ngƣời xây dựng phƣơng án huy động vốn trình HĐQT đồng thời điều hành phƣơng án đó, chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh, xây dựng các định mức kinh tế, kyû luật, đơn giá, tiền lƣơng, quyết định giá mua, giá bán, quyết định miễn nhiệm, bổ nhiệm, khen thƣởng kỷ luật các phó tổng giám đốc, kế toán trƣởng các đơn vị thành viên cũng nhƣ các trƣởng phòng, phó trƣởng phòng…, . Bộ máy giúp việc: Bao gồm các phó Tổng giám đốc, các Giám đốc chi nhánh, Kế toán trƣởng và các phòng, ban chuyên môn nghiệp vụ; Văn phòng và các phòng, ban chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham mƣu, giúp việc cho HÑQT, Tổng giám đốc trong việc quản lý điều hành công việc. 61 . Kế toán trƣởng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán của công ty, giúp Tổng giám đốc giám sát về tài chính, kế toán theo pháp luật tại công ty, chịu trách nhiệm trƣớc Tổng giám đốc và trƣớc pháp luật,  Ban kiểm soát: Do HÑQT thành lập, chịu trách nhiệm trƣớc HĐQT, thực hiện công việc kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, trung thực trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, ghi chép sổ kế toán, báo cáo tài chính, chấp hành điều lệ công ty, nghị quyết, quyết định của HĐQT, chủ tịch HĐQT. Ban kiểm soát thƣờng có năm thành viên, nhiệm kỳ là năm năm: Trƣởng ban phải là thành viên của HĐQT, một thành viên của tổ chức công đoàn và các thành viên khác, thƣờng là các chuyên gia đã có thaââm niên công tác lâu năm am hiểu về các lĩnh vực tài chính do HĐQT quyết định đồng thời thực hiện nhiệm vụ do HĐQT giao. Tiêu chuẩn để trở thành thành viên ban kiểm soát giống nhƣ tiêu chuẩn tổng giám đốc, ngoài ra không đƣợc kiêm nhiệm chức vụ khác và vợ, chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của thành viên ban kiểm soát không đƣợc giữ chức danh thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, kế toán trƣởng hoặc thủ quỹ tại cùng công ty. 6.2. DNNN không có HĐQT: Cơ cấu tổ chức bao gồm: Gíam đốc, các phó Giám đốc, Kế toán trƣởng và Bộ máy giúp việc, trong đó;  Gíam đốc: Giám đốc là ngƣời điều hành, quản lý Công ty (Doanh nghiệp) theo chế độ thủ trƣởng và là đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trƣớc ngƣời bổ nhiệm, ngƣời ký hợp đồng thuê và trƣớc pháp luật về việc thực hiện các quyền, nhiệm vụ đƣợc giao, Giám đốc phải là ngƣời có năng lực kinh doanh, có ít nhất ba năm kinh nghiệm trong nghề, không vi phạm pháp luật, có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt… Giám đốc thực hiện các quyền và nghĩa vụ sau: Giám đốc là ngƣời đại diện theo pháp luật trong việc nhận vốn, sử dụng vốn của nhà nƣớc giao (theo nhiều cách nhƣ cho thuê, cho vay, giao..), thực hiện chức năng quản lý, điều hành cao nhất các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của công ty, điều chỉnh nguồn vốn đó khi cần, là ngƣời xây dựng phƣơng án huy động vốn đồng thời điều hành phƣơng án đó, chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh, xây dựng các định mức kinh tế, kyû luật, đơn giá, tiền lƣơng, quyết định giá mua, giá bán, quyết định miễn nhiệm, bổ nhiệm, khen thƣởng kyû luật các phó giám đốc, kế toán trƣởng các trƣởng phòng, phó trƣởng phòng… (phải thông qua ngƣời bổ nhiệm hoặc thuê Giám đốc), quyết định dự án đầu tƣ, các hợp đồng bán tài sản có giá rò đến 30% tổng giá trị tài sản còn lại trên sổ kế toán của công ty hoặc nhỏ hơn theo qui định tại điều lệ công ty và có nhiệm kỳ là năm năm. 62  Các phó Giám đốc: Các phó Giám đốc là ngƣời giúp Giám đốc điều hành công ty theo sự phân công, ủy quyền của Giám đốc, chịu trách nhiệm trƣớc Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ đƣợc phân công và ủy quyền,  Kế toán trƣởng: Kế toán trƣởng là ngƣời có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán của công ty, giúp Giám đốc giám sát tài chính, kế toán, chịu trách nhiệm trƣớc Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ đƣợc phân công và ủy quyền,  Bộ máy giúp việc: Bộ máy giúp việc của doanh nghiệp không có HĐQT có chức năng nhƣ doanh nghiệp có HÑQT, tham mƣu cho Giám đốc trong việc điều hành công việc hàng ngày của DNNN theo quy định của pháp luật. 7. Quyền và nghĩa vụ của DNNN: Quyền và nghĩa vụ của DNNN phụ thuộc vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp: Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, lấy thu bù chi có dƣ lợi nhuận. Đối với doanh nghiệp công ích, thì hầu hết hoạt động theo đơn đặt hàng của Nhà nƣớc, theo chế độ và định mức do Nhà nƣớc giao, nếu có lỗ thì Nhà nƣớc xem xét và có bù lỗ nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội là chính, Nhìn chung Doanh nghiệp nhà nƣớc có các quyền và nghĩa vụ sau: (1) Trong lĩnh vực tài chính: Đƣợc qui định ở chƣơng III Luật DNNN 2004 + Đối với DNNN hoạt động kinh doanh: Vốn của công ty bao gồm vốn do nhà nƣớc đầu tƣ, vốn do công ty tự huy động và các nguồn vốn khác do nhà nƣớc qui định, Về nguyên tắt là trong quá trình hoạt động thì doanh nghiệp phải tích tụ, bảo toàn và phát triển vốn để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nƣớc sẻ không cấp vốn bổ sung cho doanh nghiệp, trừ khi nhà nƣớc có giao nghĩa vụ bổ sung. Trong quá trình hoạt động thì doanh nghiệp có quyền huy động vốn để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ví dụ: Vay vốn trong, ngoài nƣớc đƣợc phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu và các hình thức khác theo qui định của pháp luật, Chấp hành các quyết định về thanh tra của cơ quan tài chính và cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, chịu sự giám sát của nhà nƣớc Đƣợc hƣởng các chế độ trợ cấp, trợ giá khi thực hiện các hoạt động công ích, quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai…, đƣợc chi thƣởng sáng kiến đổi mới, cải tiến kỹ thuật, quản lý công nghệ, thƣởng tăng năng suất lao động… Nhƣng không đƣợc làm thay đổi hình thức sở hữu và tổng số vốn mà doanh nghiệp nhà nƣớc huy động không đƣợc vƣợt quá vốn điều lệ của doanh nghiệp hiện có, 63 Doanh nghiệp phải nộp thuế, nộp tiền trong việc rút ra vốn từ ngân sách nhà nƣớc (khi nhà nƣớc trợ vốn), nộp phạt (nếu có), nộp vào quỹ đầu tƣ phát triển, quỹ quốc phòng, quỹ bảo trợ mất việc làm, quỹ phúc lợi, quỹ khen thƣởng, Doanh nghiệp nhà nƣớc phải bảo vệ vốn, hiện vật, giá trị doanh nghiệp, kinh doanh có lãi, bảo đảm chi tiêu tyû suất lợi nhuận trên vốn nhà nƣớc giao, sử dụng vốn và các nguồn lực khác để thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt khác khi có sự yêu cầu của nhà nƣớc, Thống kê kế toán, quản lý vốn, tài sản phải công khai, báo cáo tài chính hàng năm. + Đối với doanh nghiệp nhà nƣớc hoạt động công ích: Loại DNNN này không đƣợc tự huy động vốn, cho vay chuyển nhƣợng, góp vốn trừ khi đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cho phép, tuy nhiên cũng có các quyền nhƣ doanh nghiệp nhà nƣớc hoạt động kinh doanh, nhƣng nếu doanh nghiệp hoạt động bằng hình thức đặt hàng, giao kế hoạch của nhà nƣớc thì công ty có nghĩa vụ tiêu thụ sản phẩm cung ứng dịch vụ công ích đúng đối tƣợng, theo giá và phí do nhà nƣớc qui định. (2) Trong lĩnh vực quản lý vốn và tài sản mà nhà nƣớc giao cho DNNN: + Đối với doanh nghiệp nhà nƣớc hoạt động kinh doanh: Hiện nay, Nhà nƣớc mở rộng quyền tự chủ cho DNNN trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nên quyền đối với tài sản của doanh nghiệp cũng đƣợc mở rộng nhƣ: Chuyển nhƣợng, thế chấp, cho thuê, cầm cố tài sản… để đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh, trừ những nhà xƣởng và các thiết bị quan trọng đƣợc nhà nƣớc thì phải xin phép cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, đƣợc quyền cho thuê, thế chấp,... những tài sản không cần dùng thuộc quyền quản lý của mình nhằm nâng cao hiệu suất hoạt động sản xuất kinh doanh, đƣợc quyền nhƣợng, bán thanh lý tài sản không cần dùng, tài sản không thể phục hồi, lạc hậu về kyû thuật để thu hồi vốn phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ví dụ: Doanh nghiệp nhà nƣớc A hoạt động ngành dệt, khi nhà nƣớc giao thêm nghĩa vụ may thì lúc này nhà nƣớc sẽ bổ sung thêm vốn. Doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc sử dụng vốn và các quỹ của doanh nghiệp theo nguyên tắc bảo toàn phát triển vốn có hoàn trả. Ví dụ: Quỹ phúc lợi, quỹ khen thƣởng còn dƣ mà quỹ đầu tƣ thiếu hụt thì Tổng giám đốc, Giám đốc có quyền lấy quỹ khen thƣởng... đem vào quỹ đầu tƣ nhƣng phải hoàn trả. + Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích: Chỉ đƣợc cho thuê, thế chấp, chuyển nhƣợng, thanh lý tài sản khi đƣợc sự cho phép của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. (3) Trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động doanh nghiệp: Doanh nghiệp nhà nƣớc phải tổ chức và hoạt động theo mục tiêu do nhà nƣớc định hƣớng, phải đổi mới, cải tiến trang thiết bị, công nghệ, qui trình sản xuất… để càng ngày càng nâng cao chất lƣợng sản phẩm. 64 + Đối với doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh: Doanh nghiệp có quyền đặt chi nhánh và văn phòng đại diện, có quyền tự nguyện tham gia tổng công ty nhà nƣớc (đối với công ty), có quyền lựa chọn thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm, quyết định giá mua, giá bán, tuyển dụng lao động phù hợp mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. + Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích: Doanh nghiệp đƣợc quyền tổ chức kinh doanh bổ sung nhƣng không đƣợc làm ảnh hƣởng đến hoạt động chính là nhiệm vụ công ích của doanh nghiệp và có sự đồng yù của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. II/- HỢP TÁC XÃ: 1. Khái niệm Hợp tác xã (HTX): Hợp tác xã là một hình thức kinh tế tập thể, ra đời ở Châu Âu từ giữa thế kyûõ XIX tại nƣớc Anh (1840), ngày nay HTX xuất hiện và tồn tại một cách rộng rãi trên thế giới, nhất là ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa và thích hợp trong các ngành nghề nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản... Ở nƣớc ta, HTX đã trải qua hai thời kỳ phát triển; giai đoạn 1954-1986 và giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Thời gian trƣớc năm 1986, HTX là hình thức “tập hợp hóa” triệt để các tƣ liệu sản xuất, tập trung hóa cao độ trong sản xuất kinh doanh, nhà nƣớc giao chỉ tiêu pháp lệnh cho HTX, đồng thời HTX phải trợ cấp cho nhiều đối tƣợng trong xã hội mà đáng lý nhà nƣớc phải đài thọ. Từ năm 1986 đến nay, HTX đƣợc tổ chức và quản lý theo những nguyên tắc dân chủ và bình đẳng hơn, nhà nƣớc giao quyền sử dụng đất lâu dài và cấp giấy chứng nhận cho các hộ gia đình qua đó pháp luật cũng cụ thể hóa việc chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất, tập thể và xã viên có quyền tự chủ hơn trong các hoạt động, nhà nƣớc chỉ thu thuế, đối với HTX nông nghiệp thì thực hiện phân phối theo chế độ khoáng… Năm 1996 Luật HTX lần đầu tiên ra đời đánh dấu một bƣớc phát triển mới của HTX là hoïat động theo pháp luật, tuy nhiên các quan hệ xã hội luôn luôn thay đổi và diễn biến phức tạp cho nên cần phải có một văn bản pháp luật mới nhằm điều chỉnh phù hợp, trên tinh thần đó năm 2003 Luật HTX lại một lần nữa ra đời đáp ứng tình hình kinh tế - xã hội của nƣớc ta. Tại điều 1 Luật Hợp tác xã đƣợc Quốc hội khóa XI nuôùc ta thông qua tại kỳ hợp lần thứ tƣ, ngày 26 tháng 11 năm 2003 và có hiệu lực pháp luật ngày 01 tháng 7 năm 2004 định nghĩa nhƣ sau: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật Hợp tác xã để phát huy sức mạnh của tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, 65 cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo qui định của pháp luật 2. Đặc điểm của HTX: - HTX là một tổ chức kinh tế mang tính tập thể (tính xã hội), trong đó các xã viên cùng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, trƣớc hết vì lợi ích của xã viên, lợi ích của tập thể và cuối cùng là vì lợi ích của xã hội, ngoài việc góp vốn xã viên còn góp sức, nên các xã viên là ngƣời chủ của HTXû. - Trong HTX sở hữu là sở hữu tập thể, nghĩa là tài sản trong HTX là tài sản chung hợp nhất, của tất cả các thành viên HTX mà không thể phân chia đƣợc hay còn gọi là tập thể hóa tài sản. - Điều kiện để trở thành xã viên: Phải là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (không bị mất trí, tâm thần, tội phạm, hoặc đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự…) có góp vốn và góp sức tự nguyện gia nhập HTX. Nhƣ vậy, một ngƣời cùng một lúc có thể trở thành xã viên của nhiều HTX khác ngành nghề, nếu điều lệ của HTX không hạn chế. (Nhưng không phải là hiệp hội hoặc người Việt Nam cư trú ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam lâu năm) Đối với cán bộ, công chức nhà nƣớc thì chỉ đƣợc trở thành xã viên mà không đƣợc tham gia vào việc quản lý, điều hành HTX. - Hợp tác xã hạn chế số lƣợng xã viên tối thiểu là từ bảy (7) trở lên và đƣợc ghi tại điều lệ HTX. Trong HTX phải kết hợp sức mạnh của các xã viên nhằm hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và cải thiện đời sống, góp phần phát triển nền kinh tế nƣớc nhà. Trên thực tế HTX có 6 điều lệ mẫu như sau:  HTX thƣơng mại ít nhất 15 xã viên trở lên (ở vùng sâu, xa ít nhất là 07 xã viên).  Quỹ tín dụng nhân dân ít nhất là 30 xã viên.  HTX nông nghiệp ít nhất là 7 xã viên.  HTX công nghiệp ít nhất là 9 xã viên, trong đó có 2/3 phải có bằng cấp chuyên môn hoặc chứng chỉ hành nghề.  HTX giao thông vận tải có ít nhất là 10 xã viên.  HTX thủy sản có ít nhất là 10 xã viên. - Về nguyên tắc, xã viên phải vừa góp vốn vừa góp sức. - HTX là một tổ chức kinh tế tập thể, có đầy đủ tƣ cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu hạn trong số vốn của mình. 66 - HTX có vốn điều lệ và vốn tối thiểu, trừ một số trƣờng hợp đặc biệt chính phủ mới quy định vốn pháp định. Trong đó: Vốn điều lệ là vốn do các xã viên đóng góp đƣợc có ghi vào điều lệ HTX nhƣng không đƣợc ít hơn mức vốn tối thiểu. Vốn tối thiểu là tiền hoặc gía trị tài sản, bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất, quyền sở hữu các phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật và các loại giấy tờ có giá khác đƣợc huy ra tiền mà xã viên bắt buộc phải góp khi gia nhập HTX. - Việc tổ chức quản lý trong HTX luôn luôn phải tuân theo các nguyên tắc (1)tự nguyện; (2)dân chủ, bình đẳng và công khai; (3)tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; (4) hợp tác và phát triển cộng đồng. 3. Vai trò của HTX: Việc hình thành HTX là hết sức cần thiết và quan trọng trong nền kinh tế nƣớc ta trƣớc đây và hiện nay, nhằm phát huy quyền làm chủ của ngƣời lao động, phát huy truyền thống đoàn kết cùng tiến bộ về kinh tế, giúp ổn định cuộc sống nhờ vào sức mạnh tổng hợp của tập thể cộng đồng ngƣời, đồng thời ổn định, phát triển các ngành kinh tế thế mạnh của nƣớc ta nhƣ: Nông nghiệp, thủy hải sản, thủ công myõ nghệ, lâm nghiệp, các ngành nghề truyền thống... Việc hình thành, tồn tại và phát triển HTX ở nƣớc ta còn góp phần to lớn trong công cuộc đổi mới đất nƣớc, thực hiện đƣờng lối xã hội chủ nghĩa một cách thiết thực và đúng đắng, nhằm đem lại lợi ích chung xã hội, phát triển nền kinh tế hiện đại theo định hƣớng XHCN, tiếp tục khẳng định chế độ sở hữu chung là cần thiết. .4. Thành lập và giải thể HTX: Bao gồm có ba bƣớc sau; + Bước 1: Các sáng lập viên (sáng lập viên có thể là cá nhân, hộ gia đình hoặc pháp nhân khởi xƣớng việc thành lập HTX và tham gia HTX) báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi dự định đặt trụ sở chính của HTX về yù định thành lập HTX về phƣơng án, chƣơng trình kế hoạch hoạt động của HTX, nếu UBND xã chấp thuận thì các sáng lập viên vận động tuyên truyền việc tham gia hợp tác xã đối với các pháp nhân, hộ gia đình và các cá nhân khác, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức Hội nghị thành lập HTX. + Bước 2: Tổ chức Hội nghị thành lập HTX, thành phần bao gồm những sáng lập viên và những ngƣời có nguyện vọng trở thành xã viên HTX, Hội nghị thảo luận thống nhất về phƣơng hƣớng sản xuất kinh doanh kế hoạch hoạt động của HTX, dự thảo điều lệ HTX, tên, biểu tƣợng (nếu có), lập danh sách xã viên và tiến hành đăng ký kinh doanh. + Bước 3: Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nơi HTX có trụ sở chính, một số trƣờng hợp mà HTX đăng ký thuộc các lĩnh vực kinh tế trọng yếu nhƣ: 67
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan