Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luật Giáo trình luật công đoàn ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )...

Tài liệu Giáo trình luật công đoàn ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )

.PDF
76
299
118

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT ________________________________________________ TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP LUẬT CÔNG ĐOÀN  Biên soạn: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên Lưu hành nội bộ MỤC LỤC Trang Lời giới thiệu ...............................................................................................2 Bài 1: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ...........................................................3 Bài 2: Tổng quan về lịch sử ra đời và chức năng của Công đoàn Việt Nam .................................................................7 Bài 3: Hệ thống tổ chức Công đoàn và tài chính Công đoàn ....................24 Bài 4: Đoàn viên, cán bộ công đoàn và đại hội công đoàn các cấp ..........31 Bài 5: Nhiệm vụ và quyền hạn của Công đoàn các cấp ............................38 Bài 6: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các doanh nghiệp ...................52 Bài 7: Công đoàn với công tác vận động lao động nữ .............................59 Bài 8: Công tác đối ngoại và đổi mới hoạt động Công đoàn trong giai đoạn hiện nay ................................................................66 Danh mục tài liệu tham khảo .....................................................................74 1 LỜI GIỚI THIỆU Luật Công đoàn là môn học trong chương trình đào tạo Cử nhân Luật của Khoa Luật – Đại học Cần Thơ. Giáo trình Luật Công đoàn được biên soạn nhằm mục đích giảng dạy và học tập môn học Luật Công đoàn, bên cạnh đó đây còn là tài liệu để cán bộ công đoàn các ngành, các cấp và người lao động tham khảo vận dụng vào thực tiễn hoạt động của tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn. Họat động công đoàn đã và đang được đổi mới phù hợp với chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và tổ chức Công đoàn, do vậy, yêu cầu xây dựng được giáo trình thật hoàn thiện là điều rất khó. Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, giáo trình sẽ được tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh để đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Việt Nam. Trong quá trình biên soạn có thể còn nhiều khiếm khuyết nhất định, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Tác giả Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên Giảng viên Khoa Luật – Đại học Cần Thơ 2 Bài 1 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là động lực chính của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay. Đặc biệt hiện nay trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò của giai cấp công nhân hết sức quan trọng. Đó là yêu cầu khách quan đối với giai cấp công nhân, nhằm bảo đảm cho giai cấp công nhân đảm đương là vị trí trung tâm của cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6 năm 1996) chỉ rõ: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ chức kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. 1. Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng và đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Vào giữa thế kỷ XIX, trên cơ sở phân tích sâu sắc nền kinh tế đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã rút ra kết luận khoa học: Giai cấp công nhân là người lãnh đạo cách mạng thủ tiêu xã hội tư bản chủ nghĩa và xây dựng thành công xã hội XHCN. Là đại biểu cho phương thức sản xuất mới và lại là giai cấp tiên tiến, cách mạng nhất trong xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam đảm nhận trọng trách lãnh đạo cách mạng, xây dựng một xã hội mới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam vẫn có đầy đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng và trong thực tế đã giữ vai trò ấy một cách xuất sắc. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế (tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới, triệt để cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao), giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như trưởng thành trước giai cấp tư sản dân tộc, ra đời khi có sự khai thác đầu tiên của thực dân Pháp trên đất nước 3 ta và gắn liền với nền kinh tế đó, có mối liên hệ tự nhiên, mật thiết với nông dân, sớm có Đảng trung thành với học thuyết Mác – Lênin lãnh đạo cho nên không bị chia rẽ về tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta. Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN hiện nay giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực lượng quan trọng đi đầu và trực tiếp tham gia quá trình chuyển đổi từ nền sản xuất thủ công nghiệp sang nền sản xuất có công nghệ hiện đại. Bởi vậy phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đồng thời với việc phát huy vai trò lãnh đạo và nòng cốt của giai cấp công nhân. 2. Giai cấp công nhân là nền tảng của liên minh công – nông – trí thức và của khối đại đoàn kết dân tộc Xuất phát từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta coi liên minh công – nông – trí thức là một vấn đề chiến lược, là một điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nông dân lao động nước ta là lực lượng cách mạng rất đông đảo, nhưng giai cấp nông dân phải đi cùng với giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thì mới có thể tự giải phóng và mới đi lên CNXH được. Mặt khác, giai cấp công nhân đánh giá đầy đủ vai trò cách mạng to lớn của nông dân lao động, luôn coi họ là người bạn đồng minh tự nhiên đáng tin cậy, cùng đoàn kết, giáo dục và lãnh đạo họ làm cách mạng. Trong xây dựng đất nước, giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức tạo thành nòng cốt của khối đoàn kết toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất. Trong liên minh công – nông – trí thức, giai cấp công nhân giữ vị trí trung tâm để phát triển các mối quan hệ liên minh vững chắc về kinh tế và chính trị với nông dân; thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, từng bước công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, mở rộng thành phần công nhân trong lao động nông nghiệp. Giai cấp công nhân vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đồng thời động viên đội ngũ trí thức đem hết tâm huyết và tài năng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội mới. 3. Giai cấp công nhân là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước Mỗi chính đảng đều có cơ sở chính trị - xã hội của mình, đó trước hết là lực lượng chính trị - xã hội mà chính đảng đó đại biểu. Điều quan trọng là lực lượng chính trị - xã hội đó giữ vai trò như thế nào trong quy luật phát triển xã hội, đối với các giai cấp, đội ngũ cũng như cộng đồng xã hội. 4 Trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là lực lượng trung tâm của thời đại, giai cấp công nhân là lực lượng chính trị - xã hội quyết định chiều hướng phát triển xã hội, theo quy luật phát triển của nhân loại. Cơ sở chính trị - xã hội của Đảng là giai cấp công nhân cũng có nghĩa Đảng cộng sản vừa là sản phẩm, vừa là đội tiên phong, là bộ phận tiên tiến nhất của giai cấp công nhân. Mặt khác, giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản còn có một cơ sở chính trị - xã hội nữa là quốc gia, dân tộc, Tổ quốc. Giai cấp công nhân có nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ chính quyền Nhà nước của mình, gương mẫu chấp hành mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước, không ngừng phấn đấu tăng năng suất lao động, tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, góp phần vào việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. 4. Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, chỉ trở thành giai cấp lãnh đạo khi giác ngộ sâu sắc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp và chỉ khi giai cấp công nhân được tổ chức chặt chẽ, được dẫn dắt bởi một Đảng tiên phong trong sạch, vững mạnh. Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tầm nhìn sâu rộng, tổ chức chặt chẽ nghiêm minh, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo giỏi, có khả năng đề ra và chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đưa đất nước vượt qua mọi thử thách. Để làm cho Đảng trong sạch, Đảng cần loại bỏ những phần tử thoái hóa biến chất, Đảng kết nạp những quần chúng ưu tú từ phong trào quần chúng vào tổ chức Đảng. 5. Chú trọng tạo động lực cho giai cấp công nhân vươn lên đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, không ngừng phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Động lực trực tiếp đối với công nhân là những lợi ích thiết thực về việc làm và các yêu cầu về văn hóa, xã hội. Đảng, Nhà nước, Công đoàn cần quan tâm thường xuyên và có những giải pháp cụ thể khắc phục hiện tượng thiếu việc làm, thu nhập thấp, ít được hưởng thụ văn hóa của công nhân. Trong giai đoạn mới, để nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, điều trước hết là phải tổ chức tốt việc đào tạo nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp, khả năng tiếp cận với công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Đồng thời nâng cao giác ngộ giai cấp, bồi dưỡng truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, ý 5 thức trách nhiệm cho công nhân, tạo thêm việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, thực hiện đúng pháp luật lao động, xây dựng cơ chế bảo đảm quyền của công dân trong từng doanh nghiệp, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa của công nhân, đẩy mạnh thi đua xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân, lao động. 6. Xây dựng giai cấp công nhân là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng trong thời kỳ phát triển mới Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân là một điều kiện quyết định cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của giai cấp công nhân trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với công nhân lao động. Toàn thể Đảng viên có trách nhiệm xây dựng giai cấp công nhân và đẩy mạnh phong trào công nhân, xây dựng tổ chức công đoàn – tổ chức chính trị-xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, tích cực tham gia sinh hoạt công đoàn, gương mẫu thực hiện công tác công đoàn, thể hiện vai trò, trách nhiệm vận động công nhân của Đảng. 7. Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn nhằm thực hiện tốt đường lối vận động công nhân của Đảng Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam. Công đoàn mang tính chất giai cấp của giai cấp công nhân và tính chất quần chúng. Công đoàn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo tổ chức Công đoàn nhằm phát huy vai trò của Công đoàn. Công đoàn là sợi dây chuyền nối liền Đảng với quần chúng công nhân, lao động. Công đoàn là chỗ dựa, là người cộng tác của Nhà nước. Công đoàn có nhiệm vụ vận động, tổ chức, tập hợp, giáo dục và xây dựng đội ngũ công nhân, lao động thành lực lượng cách mạng thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những quan điểm trên đây của Đảng là những định hướng lớn cho công tác vận động, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện nay. 6 Bài 2 TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM 1. Tổng quan về lịch sử ra đời của Công đoàn 1.1. Lịch sử ra đời và sự phát triển của Công đoàn trên thế giới Giữa thế kỷ 18, cuộc Cách mạng công nghiệp đã diễn ra ở Anh, sau đó tiếp tục ở nhiều nước khác. Cuộc cách mạng này bắt đầu từ việc phát minh và sử dụng các máy kéo sợi, máy dệt và đặc biệt là máy hơi nước cùng các máy móc khác, chuyển lao động bằng tay sang lao động bằng máy đưa năng suất lao động lên cao chưa từng thấy. Từ cuộc cách mạng công nghiệp, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã ra đời. Hai giai cấp này đối lập nhau về quyền lợi. Do bị bóc lột tàn tệ, giai cấp công nhân đã đấu tranh chống giai cấp tư sản từ lẻ tẻ, rời rạc, tự phát dần dần thành cuộc đấu tranh của cả một phân xưởng, một nhà máy, một ngành, một địa phương. Trong đấu tranh, công nhân nhận thấy cần tập hợp lực lượng, thống nhất hành động mới bảo vệ được quyền lợi của mình. Do đó đã hình thành một tổ chức để đáp ứng yêu cầu ấy- đó là Công đoàn. Vậy nguyên nhân chủ yếu công đoàn ra đời là vì quan hệ lao động do mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ thợ và để tập hợp bảo vệ quyền lợi của công nhân, công đoàn ra đời là tất yếu khách quan. Công đoàn ra đời đầu tiên ở Anh vào đầu năm 1776, Pháp năm 1789, Mỹ năm 1827, Đức năm 1848. Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác, phong trào đấu tranh của công nhân ngày càng được củng cố. Để truyền bá Chủ nghĩa Mác vào sâu rộng trong giai cấp công nhân, Mác và Ăng-gen đã đứng ra thành lập Hội Liên hiệp Lao động quốc tế (tức Quốc tế thứ nhất) vào ngày 28-9-1864 ở Luân Đôn. Quốc tế thứ nhất đồng thời làm nhiệm vụ Quốc tế công đoàn, vạch ra cương lĩnh cơ bản và tích cực đấu tranh cho các yêu cầu cụ thể của công đoàn. Phong trào đấu tranh của công nhân và công đoàn ngày càng diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là sau Quốc tế II được thành lập ngày 14-5-1889 và trong những năm Chiến tranh thế giới lần thứ I. Thắng lợi Cách mạng tháng 10 Nga 1917 đã làm vang dội thế giới, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga, thành lập nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, phong trào công đoàn thế giới bước sang giai đoạn mới. Trong thời kỳ này, công đoàn Xô Viết có một vị trí cực kỳ quan trọng trong tổ chức công đoàn quốc tế. Từ sự thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, phong trào 7 công nhân và công đoàn đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước khác trên thế giới như Ý, Hung-ra-ri. Sự ra đời của quốc tế III (1919) và Công hội Đỏ (RILU) năm 1921 đã đánh dấu một bước tiến mới của công đoàn thế giới. Chiến tranh thế giới lần II kết thúc, hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa ra đời thể hiện sự cân bằng lực lượng giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư bản. Bấy giờ, tổ chức công đoàn đã tích cực tham gia quản lý kinh tế -xã hội. Trong thời kỳ này, nhiều tổ chức công đoàn ra đời, tiêu biểu nhất là Liên hiệp công đoàn thế giới tháng 10-1945 (Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức này từ năm 1949); Liên hiệp Quốc tế các công đoàn tự do (1949). Những tổ chức công đoàn mang tính quốc tế này vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, vào thập kỷ cuối của thế kỷ 20, khi chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, phong trào công đoàn thế giới đã có những khủng hoảng về kinh nghiệm, mô hình tổ chức, nội dung và phương pháp hoạt động. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa còn lại như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, công đoàn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền đang tiến hành đổi mới để phù hợp với tình hình mới. Hiện nay, trong cơ chế thị trường đang diễn ra sôi động trên phạm vi toàn thế giới, các tập đoàn tài chính quốc tế, các công ty đa quốc gia đã áp dụng chính sách đầu tư linh hoạt và phương pháp quản lý mềm dẻo, tăng cường bóc lột công nhân. Thêm vào đó là tình hình việc làm của công nhân và người lao động trên thế giới đang trở thành vấn đề lớn.Vì vậy, công đoàn thế giới cần phải đổi mới, kiện toàn tổ chức công đoàn, phải phấn đấu vươn lên không ngừng vì sự nghiệp hoà bình thế giới, ổn định kinh tế xã hội và bảo vệ người lao động. Trải qua một thời gian dài phát triển, nhiều tổ chức công đoàn ở các quốc gia đã có đủ điều kiện nhận thức và kinh nghiệm xây dựng tổ chức công đoàn, vai trò và vị trí công đoàn ngày càng được khẳng định. Nhiều tổ chức công đoàn đã đứng ra đấu tranh đòi dân chủ, công bằng xã hội, đưa ra nhiều kiến nghị đòi tăng tiền lương, giảm giờ làm, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động. Từ khi ra đời cho đến nay, tổ chức công đoàn đã có nhiều đóng góp đáng kể cho tiến trình cách mạng thế giới. Ngày nay, công đoàn đã trở thành một tổ chức quan trọng trong hệ thống chính trị của nhiều quốc gia. 1.2. Lịch sử ra đời và sự phát triển của Công đoàn ở Việt Nam Sau Đại chiến thế giới lần thứ I, thực dân Pháp tiến hành ồ ạt đợt khai thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929) ở nước ta. Đây là lúc giai cấp công nhân Việt Nam tăng nhanh về số lượng và chuyển biến mau lẹ về chất lượng. Đến cuối năm 1929, số công nhân chuyên nghiệp đã lên tới 22.000 người với cơ cấu thuần nhất, sống tập trung và phân bố đều trên địa bàn kinh tế cả nước. 8 Ảnh hưởng từ Cách mạng tháng 10 Nga và sau đó đặc biệt là với sự truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, phong trào công nhân Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, hoàn thành bước chuyển biến từ tự phát sang tự giác, từ đó, sự hình thành và phát triển của tổ chức công đoàn Việt Nam gắn chặt với cuộc vận động thành lập Đảng. Có thể nói, từ khi Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội được thành lập (tháng 6-1925) đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) cũng là lúc xuất hiện các tổ chức công đoàn đầu tiên trong lịch sử phong trào công nhân nước ta. Các cuộc bãi công từ 1925 đã thể hiện rõ nét ý thức giai cấp, mục đích chính trị của cuộc tranh đấu. Từ những tổ chức tương tế buổi đầu đã dần dần xuất hiện các Công hội đỏ bí mật. Năm 1919, sau khi tham gia vụ binh biến Hắc Hải bị trục xuất về nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lập ra Công hội đỏ Sài Gòn với nhiều cơ sở ở nhà máy đèn chợ Quán, xưởng Ba Son. Trong cuộc bãi công lịch sử ở Ba Son (tháng 8-1925), số hội viên Công hội đỏ ở Sài Gòn lên tới 300 người, ghi một dấu son trong lịch sử công nhân Việt Nam. Cùng lúc ấy, một số công nhân và thuỷ thủ Việt Nam làm việc ở Pháp và Trung Quốc được kết nạp vào Tổng công đoàn thống nhất Pháp và Hải viên Công hội (Công nhân tàu biển). Từ mùa thu 1928, khi Kỳ bộ Bắc kỳ của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội phát động phong trào vô sản hoá thì Công hội đỏ càng lớn mạnh nhất là ở Bắc kỳ- trung tâm của phong trào công nhân nước ta. Sau cuộc bãi công A-vi-a (tháng 6-1929) thắng lợi, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã triệu tập Hội nghị Công hội đỏ Bắc kỳ lần thứ I vào ngày 28-7-1929 tại số nhà 15 Phố Hàng Nón (Hà Nội). Hội nghị quyết định ra báo Lao động, tạp chí Công hội đỏ để đẩy mạnh công tác công vận. Công hội đỏ trong cao trào 1930-1931 đã có cơ sở mạnh mẽ khắp trong nước và đi đầu trong các cuộc bãi công mở đường cho việc thành lập Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tháng 8-1930, thay mặt Đông phương Bộ của Quốc tế cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chỉ định Công hội đỏ Việt Nam cử đại biểu đi dự Đại hội Công hội đỏ quốc tế lần thứ VI ở Mát-xcơ-va. Khi ấy thông qua Công hội đỏ, đồng chí Trần Phú đã đi khảo sát phong trào công nhân Nam Định, Hải phòng, Hòn Gai để viết bản Luận cương chính trị lịch sử. Được cử làm trưởng ban Công vận trung ương, ngày 20-1-1931 tại Sài Gòn, đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng đã triệu tập Hội nghị công nhân Đông Dương lần thứ I vạch ra phương hướng tổ chức và đấu tranh cho phong trào công nhân và công đoàn. Trong thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) hưởng ứng phong trào Đông Dương đại hội và đòi tự do cơm áo hoà bình dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương hàng ngàn cuộc bãi công của nửa triệu công nhân tham gia đã nổ ra liên tiếp ở các thành phố lớn trong cả nước. Đầu năm 1937 công nhân đấu tranh sôi sục đòi quyền tự do lập nghiệp đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn, Vinh. Mặc dù 9 bọn phản động thuộc địa ngăn cản, nhiều nghiệp đoàn vẫn được thành lập và tự do hoạt động, báo chí vẫn tự do xuất bản và công khai tuyên truyền Chủ nghĩa MácLênin. Chưa giành được toàn bộ quyền tự do nghiệp đoàn, công nhân Việt Nam không bỏ lỡ cơ hội lập các Hội ái hữu ở khắp nơi. Tháng 9-1939, Đại chiến Thế giới lần thứ II bùng nổ, các tổ chức của công nhân và công bộ công đoàn phải rút vào bí mật. Trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng Tám (1939-1945), Hội công nhân cứu quốc - một lực lượng quan trọng của Mặt trận Việt Minh được thành lập nhất là ở Bắc và Trung Bộ. Hội công nhân cứu quốc vừa bí mật đấu tranh đòi quyền lợi hằng ngày, vừa tổ chức các đội võ trang làm nòng cốt cho cuộc nổi dậy ở đô thị. Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân lao động Việt Nam từ chỗ là dân nô lệ mất nước đã đứng lên làm chủ đất nước, chủ xí nghiệp. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà- nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Để thực sự thống nhất về tổ chức công đoàn, Hội nghị cán bộ công nhân cứu quốc họp ngày 20-51946 quyết định đổi Hội công nhân cứu quốc thành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Ngày 20-7-1946, tại thủ đô Hà Nội, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam chính thức tuyên bố thành lập đánh dấu bước ngoặt của phong trào công đoàn Việt Nam với một tổ chức thống nhất và ổn định thật sự trong cả nước. Tháng 1-1949, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam lần thứ I họp ở Thái Nguyên đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch danh dự và đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch. Trong sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam (1954-1975), công đoàn Việt Nam lớn mạnh vượt bậc. Ngày 149-1957, Quốc hội nhất trí thông qua Luật công đoàn qui định vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của công đoàn Việt Nam. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960), trong Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ II (tháng 2-1961), Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đổi tên thành Tổng công đoàn Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới. Tháng 2-1974, tiến hành đại hội Đại biểu lần thứ III. Khi nước nhà đã thống nhất từ năm 1978 đến nay công đoàn Việt Nam đã tiến hành 5 lần đại hội: Đại hội lần thứ IV (tháng 5-1978) và tiếp theo Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ V (tháng 11-1983), Đại hội công đoàn lần VI (tháng 101988), Đại hội công đoàn lần VII (tháng 11-1993), Đại hội công đoàn lần VIII (tháng 11-1998). Đặc biệt tại Đại hội công đoàn lần VI, đại hội quyết định đổi tên Tổng công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam nhằm xác định rõ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động công đoàn không chỉ chú 10 trọng đến đối tượng công nhân- viên chức trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước mà phải mở rộng đến mọi công nhân lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để định hướng và xây dựng nền tảng cho hoạt động công đoàn trong giai đoạn mới, Nhà nước ta đã ban hành Luật công đoàn được Quốc hội thông qua ngày 30-6-1990 thay cho Luật công đoàn 1957; đồng thời các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Công đoàn Việt Nam đã thông qua Điều lệ Công đoàn Việt Nam, và Điều lệ Công đoàn Việt Nam hiện hành được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX thông qua vào ngày 13/10/2003. Đại hội lần IX công đoàn Việt Nam đã thành công tốt đẹp, với sứ mệnh lịch sử của mình công đoàn sẽ tiếp tục là một nhân tố không thể thiếu được trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu không ngừng cho sự nghiệp công đoàn, cho việc bảo vệ quyền lợi của người lao động. 2. Chức năng của Công đoàn Việt Nam 2.1. Khái niệm về công đoàn Việt Nam Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 10 Hiến pháp 1992). Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động (Điều 1 Luật Công đoàn 1990). Nghiệp đoàn là tổ chức cơ sở của công đoàn, tập hợp những người lao động tự do hợp pháp cùng ngành, nghề, được thành lập theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao động có 10 đoàn viên trở lên và được công đoàn cấp trên quyết định thành lập.1 Công đoàn xuất hiện khi giới công nhân biết ý thức về sức mạnh tập thể và biết chăm lo bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Tổ chức công đoàn ban đầu chỉ là một tổ chức được lập ra nhằm đấu tranh và hạn chế sự bóc lột của giới chủ chứ chưa phải là một tổ chức có nhiều quyền năng như ngày nay. Sự phát triển của công đoàn gắn liền với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân, với sự phát triển của công nghiệp, kỹ nghệ và sự liên kết của giới những người chủ. Chính trong sự phát triển đó, sinh hoạt công đoàn cũng được thúc đẩy và dần chiếm được vị trí quan trọng trong hệ thống các tổ chức xã hội, cũng như trong đời sống của người lao động. Từ 1 Điều 16 Điều lệ Công đoàn năm 2008. 11 chỗ chỉ được thừa nhận trong phạm vi hẹp, ngày nay công đoàn đã được thừa nhận trong phạm vi toàn xã hội. 2.2. Chức năng của công đoàn Việt Nam Chức năng của công đoàn biểu hiện một cách khái quát về phạm vi hoạt động, mục đích hoạt động và sự định hướng trong hoạt động của các cấp trong tổ chức công đoàn. Các chức năng của công đoàn bao gồm : - Chức năng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân và người lao động. - Chức năng tổ chức giáo dục, vận động công nhân và người lao động; - Chức năng đại diện cho người lao động tham gia quản lý kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước. Chức năng này có thể thay đổi tùy thuộc và điều kiện kinh tế xã hội có liên quan ở từng giai đoạn. Từ các chức năng đó có thể xác định được các nhiệm vụ chung và những nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp công đoàn ở từng lĩnh vực phù hợp. 2.3. Mục đích, vai trò của công đoàn * Mục đích của Công đoàn Hoạt động của công đoàn vừa có mục đích kinh tế vừa có mục đích xã hội. Mục đích kinh tế của công đoàn thể hiện ở chỗ hoạt động của tổ chức công đoàn gắn với việc bảo đảm đời sống và điều kiện lao động cho giới lao động, như đòi tăng lương, giảm giờ làm, bảo đảm các phúc lợi xã hội... Mục đích xã hội của công đoàn thể hiện ở chỗ bên cạnh các mục tiêu kinh tế, tổ chức này còn nhằm bảo vệ các quyền gắn liền với việc bảo vệ nhân phẩm của người lao động và nâng cao địa vị của người lao động trong mối tương quan lao động và xã hội của giới chủ. * Vai trò của Công đoàn Trong xã hội tư bản, các nghiệp đoàn có vai trò rất quan trọng. Ở đó, các tổ chức nghiệp đoàn có tư cách như là “lực lượng quân bình”, kéo cân lại vị thế vốn nhỏ bé của người lao động làm thuê so với thế lực “vạn năng” của nhà tư bản. Nhà nước tư sản đã dùng công cụ pháp lý để xác lập quyền thành lập và hoạt động nghiệp đoàn của người lao động, và cũng bằng công cụ pháp lý giữ cho các nghiệp đoàn hoạt động trong khuôn khổ của trật tự xã hội tư bản. Ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng, công đoàn cũng có một vị trí, vai trò rất quan trọng. Ngoài tính chất là một tổ chức nghề nghiệp của người lao động, công đoàn ở Việt Nam còn được xác định là một tổ chức chính trị xã hội. Chính tính chất nghề nghiệp và tính chất chính trị xã hội đã khiến cho tổ chức công đoàn có vị trí, vai trò, chức năng đặc biệt: không chỉ đại diện cho lực lượng tự mình, công đoàn còn đại diện cho mọi người lao động trong xã hội; không 12 chỉ bảo vệ cho lợi ích của người lao động, công đoàn còn đại diện cho họ tham gia quản lý kinh tế xã hội. 2.4. Tính chất, vị trí của Công đoàn * Tính chất của Công đoàn Việt Nam Tính chất của một tổ chức là đặc điểm riêng tương đối ổn định của tổ chức, để từ đó phân biệt tổ chức đó với đó chức khác. Công đoàn Việt Nam có tính chất giai cấp của giai cấp công nhân và tính chất quần chúng rộng lớn. Biểu hiện tính chất giai cấp công nhân của Công đoàn Việt Nam - Công đoàn Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Hoạt động của Công đoàn Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng đề ra và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng chế độ xã hội mới không có người bóc lột người. - Xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam đảm bảo thống nhất hành động của giai cấp công nhân Việt Nam. - Xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn theo đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Tổ chức và hoạt động Công đoàn quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ một nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Biểu hiện tính chất quần chúng của Công đoàn Việt Nam - Công đoàn Việt Nam kết nạp đông đảo công nhân, viên chức và lao động vào tổ chức Công đoàn. Mọi người công nhân, viên chức và lao động đều có quyền tự nguyện gia nhập và ra khỏi tổ chức Công đoàn theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam. - Cơ quan lãnh đạo của Công đoàn Việt Nam bao gồm những người được quần chúng người lao động tín nhiệm để đại diện cho họ. - Nội dung hoạt động của Công đoàn Việt Nam đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của người lao động. - Cán bộ Công đoàn trưởng thành từ phong trào công nhân, từ phong trào quần chúng ở cơ sở. Hai tính chất của Công đoàn nêu trên có mối quan hệ gắn bó với nhau và đều quan trọng như nhau. * Vị trí của Công đoàn Việt Nam Vị trí của Công đoàn là địa vị của Công đoàn giữa các tổ chức khác của hệ thống chính trị và mối quan hệ của Công đoàn với các tổ chức đó. 13 Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, vị trí của Công đoàn khác nhau căn bản. Trong chủ nghĩa tư bản, công đoàn đại diện cho quần chúng lao động đứng đối lập với giai cấp bóc lột đấu tranh đòi lợi ích kinh tế, tiến tới giành chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trong chủ nghĩa xã hội, Công đoàn trở thành một thành viên quan trọng trong hệ thống chính trị, là đại diện cho những người làm chủ xã hội. Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao động. Công đoàn là chổ dựa vững chắc của Đảng, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng. Công đoàn là người cộng tác đắc lực của Nhà nước. 2.5. Nhiệm vụ của công đoàn Nhiệm vụ của công đoàn là toàn bộ những mục tiêu mà công đoàn cần đạt tới, là những vấn đề đặt ra mà công đoàn cần giải quyết. Thực hiện các nhiệm vụ đó chính là thực hiện các chức năng đã được xác định của công đoàn trong một giai đoạn nhất định, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của giai đoạn ấy. Nhiệm vụ của công đoàn là yếu tố dễ biến động hơn so với chức năng. Mỗi nhiệm vụ cũng có thể có sự quan tâm ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, công đoàn có những nhiệm vụ sau đây : - Đại diện cho người lao động tham gia với cơ quan Nhà nước xây dựng và thực hiện các chương trình kinh tế xã hội, các chính sách, các cơ chế quản lý kinh tế, các chủ trương chính sách có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của người lao động. - Tập hợp, giáo dục và tuyên truyền pháp luật để người lao động hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, của các cơ quan và các tổ chức. Từ đó tạo cho người lao động các phương thức xử sự phù hợp trong các mối quan hệ xã hội và pháp lý. - Thực hiện các quyền đã được pháp luật ghi nhận một cách có hiệu quả để bảo vệ và chăm lo đến lợi ích và đời sống của người lao động. - Tham gia các quan hệ trong nước và quốc tế nhằm xây dựng các mối quan hệ đối nội và đối ngoại rộng rãi, góp phần thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện tốt cho môi trường lao động xã hội. Những nhiệm vụ này đã được thể chế trong các văn bản pháp luật của Nhà nước và chi tiết hóa thành những nhiệm vụ trực tiếp của công đoàn trong quá trình hoạt động ở các công đoàn cơ sở. Song muốn quá trình hoạt động đó đạt được hiệu quả, công đoàn cần có những điều kiện nhất định bao gồm: - Quyền tự do công đoàn, - Tư cách pháp nhân - Quyền sở hữu tài sản, 14 - Sự bảo trợ của Nhà nước và các đơn vị sử dụng lao động, - Các điều kiện khác. Các điều kiện này, vừa mang tính chất pháp lý, vừa mang tính chất kinh tế xã hội, có ý quan trọng đối với hoạt động của công đoàn, chi phối và quyết định quá trình thực hiện các nhiệm vụ đề ra. 2.6. Đặc điểm và phân loại thẩm quyền của công đoàn * Đặc điểm thẩm quyền của công đoàn Thẩm quyền của công đoàn là tổng hợp các quyền và các nghĩa vụ của công đoàn được pháp luật ghi nhận, có thể thực hiện hoặc phải thực hiện một cách độc lập với tư cách là một chủ thể, trong một giới hạn nhất định. Đề cập đến thẩm quyền của công đoàn chính là đề cập đến vấn đề quyền hạn và trách nhiệm của công đoàn. Thẩm quyền của công đoàn có những đặc điểm sau đây : - Mặc dù Công đoàn là một tổ chức chính trị-xã hội của người lao động nhưng thẩm quyền của công đoàn không phải do công đoàn sáng tạo mà do ý chí của Nhà nước. Nhà nước quy định cho công đoàn những quyền hạn và trách nhiệm nhất định trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua Luật Công đoàn. - Tuy chịu sự điều chỉnh của pháp luật song giới hạn của thẩm quyền không chỉ ở pháp luật mà còn ngay ở các hành vi của tổ chức công đoàn, hơn nữa còn bị chi phối bởi pháp luật quốc tế trong những trường hợp nhất định. - Thẩm quyền của công đoàn được pháp luật ghi nhận là các quyền của công đoàn chứ không gồm các nghĩa vụ. Nói cách khác, pháp luật chỉ ghi nhận quyền hạn của công đoàn mà không trực tiếp ghi nhận các nghĩa vụ. - Thẩm quyền của công đoàn vừa là quyền hạn trong việc đại diện cho tập thể người lao động trong mối tương quan với người sử dụng lao động, vừa là quyền hạn trong việc tham gia “điều chỉnh” quan hệ lao động. * Phân loại thẩm quyền của công đoàn: Việc phân loại các quyền của công đoàn là cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn. Nó chẳng những cho thấy được tính chất các quyền của công đoàn mà còn cho thấy sự tương quan về địa vị pháp lý của tổ chức này với địa vị pháp lý của các cơ quan, tổ chức hữu quan khác, đặc biệt là với người sử dụng lao động. Tùy theo những tiêu chí phân biệt khác nhau, thẩm quyền của công đoàn được phân thành những loại khác nhau. 15 Căn cứ vào lĩnh vực tác động, công đoàn có thẩm quyền trên hai lĩnh vực chủ yếu sau: - Lĩnh vực tham gia quản lý Nhà nước về lao động, quản lý sản xuất kinh doanh, thực hiện quyền làm chủ tập thể của người lao động. - Lĩnh vực chăm lo cải thiện điều kiện lao động, điều kiện sống, bảo vệ quyền và lợi lịch hợp pháp của người lao động. Căn cứ vào tính chất, công đoàn có ba loại quyền sau : - Loại quyền tham gia: là loại quyền mà công đoàn chỉ được tham gia đóng góp ý kiến, hỏi ý kiến, còn việc quyết định là thuộc về cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hay người sử dụng lao động. - Loại quyền chung: Tổ chức công đoàn và cơ quan Nhà nước, người sử dụng lao động có quyền như nhau trong khi quyết định một vấn đề nào đó. - Loại quyền độc lập: công đoàn có quyền quyết định, còn nghĩa vụ đáp ứng là thuộc về phía các cơ quan Nhà nước, người sử dụng lao động. Căn cứ vào cấp công đoàn, thẩm quyền của Công đoàn được chia thành: - Thẩm quyền của công đoàn trung ương: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. - Thẩm quyền của công đoàn cấp trên cơ sở: Các công đoàn tỉnh, ngành, quận, huyện... - Các quyền của công đoàn cơ sở: công đoàn của các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. 3. Địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam Địa vị pháp lý của công đoàn thể hiện trên hai lĩnh vực chủ yếu là: - Lĩnh vực tham gia quản lý nhà nước về lao động, quản lý sản xuất kinh doanh, thực hiện quyền làm chủ tập thể lao động. - Lĩnh vực chăm lo cải thiện đời sống và việc làm cho người lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động được pháp luật quy định. 3.1. Địa vị pháp lý của Công đoàn trong lĩnh vực tham gia quản lý nhà nước về lao động, quản lý sản xuất kinh doanh, thực hiện quyền làm chủ của tập thể lao động 3.1.1. Công đoàn trong việc tham gia quản lý Nhà nước về lao động Nội dung quản lý Nhà nước về lao động bao gồm: việc xây dựng và tổ chức các chương trình quốc gia về lao động, việc làm, các chế độ chính sách về lao động và xã hội; phân bổ sử dụng nguồn lao động, thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật lao động... Trong hoạt động quản lý Nhà nước về lao động, công đoàn có quyền : 16 - Tham gia xây dựng các chương trình quốc gia về kinh tế xã hội, - Quyền tham dự hội nghị của các cơ quan chính quyền các cấp, - Tham gia giải quyết việc làm, - Tham gia quản lý bảo hiểm xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và công đoàn các cấp có quyền tham gia giám sát việc quản lý Nhà nước về lao động theo quy định của pháp luật. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có quyền trình dự án luật ra Quốc hội, tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động, tham gia hướng dẫn việc thực hiện những văn bản pháp quy về lao động có liên quan và trong phạm vi được Nhà nước giao. Liên đoàn lao động địa phương tham gia ý kiến với chính quyền cùng cấp về những vấn đề quản lý lao động tại địa phương, tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản pháp luật lao động. Công đoàn ngành đi sâu vào việc quản lý kinh tế kỹ thuật trong ngành, tham gia xây dựng và thực hiện các chế độ chính sách về lao động, tiền lương, tiền thưởng, về đào tạo, quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ kỹ thuật của ngành. Trong phạm vi chức năng của mình, công đoàn tham gia kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hợp đồng lao động, tiền lương, kỷ luật lao động, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội và các quy định khác có liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động. Trong khi kiểm tra giám sát, công đoàn có quyền yêu cầu người sử dụng lao động (người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức...) trả lời những vấn đề đặt ra, kiến nghị các biện pháp sửa chữa thiếu sót, ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm. Người sử dụng lao động trong phạm vi chức trách của mình, phải trả lời cho công đoàn biết kết quả giải quyết những kiến nghị do tổ chức này nêu ra trong thời hạn pháp luật quy định. Đối với những vấn đề chưa có điều kiện giải quyết hoặc không thể giải quyết được cũng cần phải cho biết rõ lý do. Ngoài ra trong những trường hợp cần thiết, công đoàn có thể tổ chức đối thoại giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động để giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động. 3.1.2. Việc thừa nhận tổ chức công đoàn cơ sở và tạo điều kiện thuận lợi để công đoàn hoạt động Khi tổ chức công đoàn được thành lập theo đúng Luật Công đoàn, Điều lệ công đoàn, thì người sử dụng lao động phải thừa nhận tổ chức đó. Người sử dụng lao động phải cộng tác chặt chẽ và tạo điều kiện thuận lợi để công đoàn hoạt động theo quy định của Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn. Người sử dụng lao động không được phân biệt đối xử vì lý do người lao động thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, không được dùng các biện pháp kinh tế và các thủ đoạn khác để can thiệp 17 vào tổ chức, hoạt động công đoàn; phải bảo đảm các phương tiện cần thiết cho công đoàn hoạt động, phải dành một số thời gian cần thiết cho cán bộ công đoàn không chuyên trách hoạt động, có trả lương2. Đối với người làm công tác công đoàn chuyên trách thì tiền lương của họ do quỹ công đoàn chi trả, song phúc lợi tập thể và các quyền lợi khác cũng được hưởng như mọi người khác trong doanh nghiệp. Ở những doanh nghiệp đang hoạt động chưa có tổ chức công đoàn thì chậm nhất sau sáu tháng, kể từ ngày 01/01/2003 và ở những doanh nghiệp mới thành lập thì sau sáu tháng kể từ ngày bắt đầu hoạt động, công đoàn địa phương, công đoàn ngành có trách nhiệm thành lập tổ chức công đoàn lâm thời tại doanh nghiệp để đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và tập thể lao động. 3.1.3. Công đoàn trong việc tổ chức, chỉ đạo đại hội công nhân viên chức, và phong trào thi đua trong cơ quan, doanh nghiệp Đại hội công nhân viên chức là hình thức hoạt động dân chủ của người lao động để bàn về việc thực hiện mục tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh và vấn đề cải thiện các điều kiện làm việc, sinh hoạt và đời sống của người lao động. Giám đốc cùng với công đoàn chịu trách nhiệm chuẩn bị nội dung và tổ chức đại hội. Thông thường đại hội công nhân viên chức họp mỗi năm 2 lần, ít nhất mỗi năm 1 lần. Thông qua đại hội, tập thể lao động đề ra phương hướng và biện pháp thực hiện sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, kể cả việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động. Để có thể hoàn thành tốt mục tiêu sản xuất kinh doanh, trên cơ sở đó cải thiện đời sống của người lao động, công đoàn cùng với người sử dụng lao động đề ra phương hướng, biện pháp và các chỉ tiêu thi đua để tổ chức và vận động các phong trào thi đua. Mục đích của việc tổ chức các phong trào thi đua là nhằm phát huy sáng kiến, trao đổi kinh nghiệm để tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác, tiết kiệm nguyên vật liệu, hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Đối với những người trực tiếp sản xuất, mục tiêu đó thể hiện ở việc áp dụng các biện pháp hoàn thành tốt định mức lao động, định mức tiêu hao vật tư.... Đối với những người làm công tát khoa học kỹ thuật, mục tiêu đó thể hiện ở các biện pháp thực hiện tốt các đề tài nghiên cứu nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đối với những người làm công tác nghiệp vụ hành chính, mục tiêu đó là việc hoàn thành nhiệm vụ, chương trình công tác chuyên môn. Trong phong trào thi đua, giám đốc có nghĩa vụ cung cấp các điều kiện vật chất cho việc duy trì phong trào thi đua. Công đoàn có quyền yêu cầu giám đốc và các 2 Không được ít hơn 3 ngày làm việc trong một tháng. 18 cơ quan chuyên môn hữu quan khác giải quyết những khó khăn về vật chất kỹ thuật, nhất là việc áp dụng các thành tựu khoa học, sáng kiến mới vào sản xuất. Công đoàn phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức việc sơ kết, tổng kết phong trào thi đua; có khen thưởng đối với những người lao động có thành tích trong phong trào và bồi dưỡng những điển hình tốt. Công đoàn có quyền cử đại diện của mình vào các ban thi đua để tổ chức và chỉ đạo phong trào thi đua. 3.1.4. Công đoàn trong việc ký kết thỏa ước lao động tập thể với người sử dụng lao động Thỏa ước lao động tập thể là văn bản ký kết giữa Ban chấp hành công đoàn cơ sở (hoặc tổ chức công đoàn lâm thời) với giám đốc doanh nghiệp về những vấn đề có liên quan trong quan hệ lao động. Theo điều 45 Bộ luật Lao động, công đoàn la một trong hai chủ thể tham gia xây dựng thỏa ước lao động tập thể. nội dung thỏa ước lao động tập thể bao gồm những cam kết về việc làm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, tiền thưởng, định mức lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Nhà nước khuyến khích các bên ký kết thỏa ước lao động tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật lao động. Các điều khoản của thỏa ước lao động tập thể chỉ có thể được hình thành trên cơ sở các bên thương lượng, thỏa thuận tự nguyện và bình đẳng. Người sử dụng lao động không thể đưa ra các điều kiện ép buộc phía công đoàn ký kết những điều khoản vi phạm pháp luật. Nhà nước, bằng công cụ pháp luật để cho công đoàn đại diện cho người lao động trong việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với tổ chức rộng rãi nhất của giai cấp công nhân và những người lao động. Với quy định đó Nhà nước không chỉ tạo điều kiện để công đoàn thực hiện chức năng cơ bản nhất là bảo vệ người lao động, mà còn là một phương pháp pháp lý hữu hiệu để công đoàn tham gia có hiệu quả vào việc quản lý doanh nghiệp, điều hòa quyền lợi, ngăn ngừa xung đột. Đối với tổ chức công đoàn, việc pháp luật lao động quy định sự tham gia của công đoàn vào việc ký kết thỏa ước lao động tập thể cho thấy vai trò và trách nhiệm của công đoàn rất to lớn trong việc tham gia có hiệu quả vào quản lý doanh nghiệp, và đặc biệt trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. 3.1.5. Công đoàn trong việc kiểm tra, giám sát an toàn lao động, vệ sinh lao động và kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tham gia cùng với Chính phủ trong việc xây dựng chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan