Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Giáo trình lịch sử việt nam. tập iv từ 1858 đến 1918...

Tài liệu Giáo trình lịch sử việt nam. tập iv từ 1858 đến 1918

.PDF
361
448
94

Mô tả:

Từ 1858 đến 1918 NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC s ư PHẠM GS.TS. NGUYỄN NGỌC c ơ (Chủ biên) PGS.TS. TRẦN ĐỨC CƯỜNG GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM ■ ■ Tập IV Từ 1858 ĐẾN 1918 NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC s ư PHẠM Mã số: 01.01.409/1185 - ĐH 2010 MỤC LỤC ■ ■ Trang Chương 1 VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU c u ộ c XÁM LƯỢC CỦA LIÊN QUÂN PHÁP - TAY BAN NHA (1858 - 1867) I. Nước Việt Nam giữa thế kỉ XIX trước cuộc xâm lược của tư bản P háp........................................................................ 7 1. Bối cảnh quốc t ế ..........................................................................................7 2. Tình hình trong nước................................................................................. 10 II. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha xâm lược Việt N a m ......................... 11 1. Tư bản Pháp và Tây Ban Nha tìm cớ can thiệp vào Việt Nam ............ 22 2. Mặt trận Đà Nang và những cuộc chiến đấu chống Pháp đầu tiên của quân dân Việt Nam (9/1858-2/1959)................................................ 25 3. Về một số trận đánh tiêu biểu trên chiến trường Đà Nang 1858 -1859.....30 4. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì. Nhân dân Nam Kì chống xâm lược. Hiệp ước 1862............................................................................................ 37 2. Về phong trào nông dân khỏi nghĩa dưới thời N guyễn.......................... 63 3. Vai trò của các giáo sĩ trong cuộc xâm lược Việt Nam của P háp.........63 IV. Thực dân Pháp chiêm ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Nhân dân Việt Nam tiếp tục kháng chiến chống xâm lược...................................................64 1. Tình hình Việt Nam từ sau Hiệp ước 1862 đến năm 1867.....................64 2. Phong trào phản đối Hiệp ước Nhâm Tuất. Khởi nghĩa chống Pháp tiếp tục ở các tỉnh Nam K ì............ ễ'.................. 69 3. Cuộc đấu tranh yêu nước trên mặt trận văn hoá tư tưởng.....................73 4. Ba tỉnh miền Tây Nam Kì bị giặc chiếm ................................................... 76 5. Nhân dân ba tỉnh miền Tây tiếp tục kháng chiến....................................79 Câu h ỏ i............................................................................................................86 3 Chương 2 VIỆT NAM TỪ 1867 ĐẾN 1874 1. Tình hình nước Việt Nam từ sau khi Pháp chiêm đóng Nam Kỉ đến khi chúng đem quân ra Bắc Kì lần thứ nhât 93 1ểTình hình nhà nước phong kiến N guyễn................................................. 93 2. Chính sách thống trị của thực dân Pháp tại Nam Kì trong những năm đầu thời kì thuộc địa.................................................. 105 Ị|ễThực dân pháp tiến đánh Bắc Kì lần thứ nhât. Hiẹp ước Giáp Tuất 1874......................................................................117 1. Vấn đề sông Hồng trong âm mưu của Pháp 3. Cuộc kháng chiến của nhân dân Bắc Kì. Trận cầu Giấy lần 1(21/12/1873). Hiệp uớcGiáp Tuất 15/3/1874.................................................................... 122 Câu hỏi.........................................................................................................129 Chương 3 VIỆT NAM TỪ 1874 ĐẾN 1884 I. Tình hình Việt Nam sau Hiệp ước Giáp Tuất 1874........................... 130 1. Nội trị, ngoại g ia o .................................................................................... 130 2. Trào lưu đòi cải cách...............................................................................134 3. Những chuyển biến kinh tế, xã hội, văn hoá ở Trung Kì và Bắc Kì trong những năm 1874/1884................................................. 135 II. Thực dân Pháp xâm lược Bắc Kì lần 2. Sự sụp đổ của nhà nưóc phong kiến Nguyễn................................. 139 1. Tư bản tài chính hình thành ả Pháp và cuộc vận động xâm lược toàn bộ Việt Nam ...................................... 139 2. Quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ h a i............................................... 142 3. Cục diện chiến trường Bắc Kì sau khi Pháp chiếm Hà Nội lần thứ hai...... 145 4. Trận cầu Giấy lần thứ hai (19/5/1883) H. Rivie tử trậ n .......... ....... .....149 5. Quân Pháp tấn công thẳng vào Thuận An. Hoà ước Quý Mùi 1883... 151 6. Phong trào phản đối Hoà ước Quý Mùi. Nội bộ triều đình Huế lục đục.... 156 7. Quân Pháp tiếp tục mở rộng chiếm đóng các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Kì...................................................................................158 8. Quy ước Thiên Tân 11/5/1884 và Hiệp ước Patơnốt 6/6/1884............161 Câu hỏi.................................................................................... 4 ........ 165 Chương 4 VIỆT NAM TỪ 1885 ĐẾN c u ố i THẾ KỈ XIX I. Nhân dân Việt Nam đấu tranh chống chính sách bình định của thực dân P h áp.............................................................. 166 1. Tình hình Việt Nam sau các hiệp ước 1883 và 1884........................... 166 2. Cuộc phản công của phe chủ chiến tại Kinh thành Huế vua Hàm Nghi rời bỏ Kinh thành, kêu gọi cần Vương......................... 172 3. Bước đầu chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt N a m ...............................184 II. Phong trào vũ trang chống Pháp tiếp tục phát triển và lan rộng trong những năm cuối thê kỉ X IX .................................. 198 1. Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi và tình hình ứng nghĩa trong cả nước .198 2. Cuộc đấu tranh tự vệ của nông dân và các dân tộc thiểu số ở miền núi chống P h á p .......................................................................... 261 III. Những biên đổi về kinh tê - xã hội Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ X IX ......................................................277 1. Những thay đổi về chính trị..................................................................... 278 2. Về việc hoạch định biên giới Việt - Trung cuối thế kỉ XIX ....................281 3. Những thay đổi trong cơ cấu kinh t ế .....................................................283 4. Những chuyển biến mới về văn hoá, giáo dục..................................... 288 5. Bộ mặt thành thị đổi mới......................................................................... 289 6. Tình hình các giai cấp trong xã hội Việt Nam cuối thế kỉ X IX ............. 291 Câu hỏi.......................................................................................................... 295 Chương 5 VIỆT NAM TỪ 1897 ĐẾN 1914 1. Ách thống trị của thực dân Pháp và những chuyển biến về kinh tế - xã hội Việt Nam đầu thế kỉ X X ......................................... 296 1ễ Chính trị thâm đ ộ c.................................................................................... 297 2. Khai thác bóc lột về kinh t ế .....................................................................300 3. Tăng cường bộ máy quân sự, cảnh sát tòa án và nhà t ù .................... 305 4. Nô dịch về văn h ó a ..................................................................................306 5. Những biến chuyển về xã h ộ i................................................................. 308 5 IlằẢnh hưởng, tác động của tân thư, tân văn và các trào lưu tư tưởng tư sản từ bên ngoài vào Việt Nam............ 313 1. Ảnh hưởng từ Trung Q uốc...................................................................... 313 2. Ảnh hưởng từ Nhật Bản...........................................................................314 3. Ảnh hưởng của tân thư, tân văn, tân báo................................. ............ 415 III. Phong trào yêu nước và cách mạng đầu thê kỉ XX 316 1. Phan Bội Châu và xu hướng bạo động..................................................316 2. Phan Châu Trinh và xu hướng cải cách................................................ 321 3. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907)............................................. 323 4. Phong trào Duy tân và Phong trào chống thuế ở Trung Kì (1906-1908) .324 5. Phong trào nông dân Yên Thế trong những năm đầu thế kỉ XX........ 325 6. Vụ Đầu độc binh lính Pháp ở Hà nội (27/6/1908).................................329 7. Các cuộc đấu tranh của đồng bào dân tộc ít người............................. 330 8. Việt Nam Quang phục hội (1912)............................................ >............. 331 Câu hỏi......................................................................................................... 333 Chương 6 VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM CHIẾN TRANH THỂ GIỚI THỨ NHẤT (1914-1918) |ẽ Chính sách cai trị thời chiến của thực dân Pháp và tình hình kinh tê - xã hội Việt Nam trong thời kì chiến tranh.......334 II. Phong trào dân tộc ở Việt Nam trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhâ't................................................................337 1. Các cuộc bạo động của một số hội viên Việt Nam Quang phục hội . 337 2. Vụ mưu khởi nghĩa ở H uế........................................................................338 3. Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên (8/1917)....... 339 4. Những cuộc bạo động chống Pháp của đồng bào dân tộc thiểu số... 342 5. Hoạt động của các hội kín Nam K ì........................................................ 345 6. Phong trào công nhân Việt Nam đầu thê' kỉ X X ................................... 350 Câu hỏi.......................................................................................................... 351 Kết luận......................................................................................................... 352 Tài liệu tham khảo.......................................................................................356 6 ChươNq 1 VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU CUỘC XÂM LƯỢC CỦA LIÊN ỌUÂN PHÁP * TÂY BAN NHA (1898 -1867) NỘI DUNG CHƯƠNG - Âm mưu xâm lược V iệt Nam của tư bản phương Tây và Pháp. - Tinh hình nước Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XIX trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp. - Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam từ 1858 đến 1873ề I. NƯỚC VIỆT NAM GIỮA THẾ KỈ XIX TRƯỚC c u ộ c XÂM LƯỢC CỦA TƯ BẢN PHÁP 1. Bôi cảnh quốc tê Từ đầu thế kỉ XV, phương thức sản xuất tư bản xuất hiện ở phương Tây và ngày càng phát triển mau chóng. Đến thế kỉ XVIII-XIX, nhiều quốc gia Âu Mĩ như Hà Lan, Anh, Mĩ, Pháp, Đức, Ý.ễ. đã tiến hành cách mạng tư sản thành công. Cách mạng tư sản Pháp 1789 - 1794 lật đổ chế độ phong kiến và dọn đường không chỉ cho chủ nghĩa tư bản ở Pháp mà còn cho cả một số nước khác ở châu Âu. Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chiếm địa vị ưu thế và thắng lợi tại nhiều quốc gia trên thế giới. Sự ra đời và xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa đã đặt ra nhu cầu cấp bách về thị trường và nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp với những máy móc tinh xảo về giao thông vận tải và kĩ thuật quân sự đã hỗ trợ rất nhiều cho tư bản phương Tây thực hiện các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Tại Anh, từ cuối thê kỉ XVIII đã có máy tự động. Đến giữa thế ki XIX, việc sản xuất bằng máy đã hoàn toàn thay thế lao động bằng tay. Năm 1800, Anh mới chỉ sản xuất 193.000 tấn gang, đến năm 1840 đã sản xuất được 1.400.000 tấn. Năm 1830 - Anh bắt đầu làm đường xe lửa đầu tiên và nhanh chóng phát triển kĩ nghệ đường sắt. Từ 1839 đến 1842 - Anh .đã xâm lược Trung Quốc. Chạy đua với Anh, Pháp mang quân sang phương Đông. Trong khi kĩ thuật phương Tây có bước phát triển mau lẹ như vậy thì phần lớn các nước phương Đông, tiêu biểu như Trung Quốc, Ân Độ, Nhật Bản... vẫn nằm trong trạng thái lạc hậu. Nền kinh tế các nước này tuy đã có tiến bộ, nhưng cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên. Thành thị chưa phải là những trung tâm kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội và cũng không có mối quan hệ chặt chẽ với nông thôn như các thành thị trung đại Tây Âu. Nhà nước phong kiến đã suy yếu và trở thành lực lượng bảo thủ, phản động. Sự yếu kém về kinh tế và kĩ thuật chính là một thách thức lớn đối với các . quốc gia phong kiến phương Đông lúc bấy giờ. Ngay từ năm 1850, ở các nước châu Âu người ta đã chế tạo được các cỗ súng đại bác bắn nhanh, nòng có rãnh xoắn, đúc bằng thép và nạp đạn đằng sau. Súng tay bắn bằng đá lửa được thay thế bằng súng có pit tông và quy lát kiểu bécđăng. Những chất nổ mạnh như đi namít, nitrôgrixêrin, thuốc không khói... đã được chế tạo. Chiến thuyền bằng gỗ, chạy nhờ sức gió, đã được thay bằng tàu máy có chân vịt, vỏ sắt được trang bị súng đại bác và thuỷ lôi. Trong khi các quốc gia tư bản chủ nghĩa như Tây Ban Nha, Bổ Đào Nha, Anh, Pháp... đang nhòm ngó và tìm cách đứng chân ở các thương điếm hoặc căn cứ quân sự của chúng ở phương Đông thì trong nội bộ các nhà nước phong kiến phương Đông đang diễn ra một quá trình khủng hoảng trầm trọng. Quan hệ sản xuất phong kiến và sự bóc lột nặng nề của giai cấp địa chù đã làm bùng nổ hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân, làm lung lay giai cấp thống trị và dẫn chế độ phong kiến tới chỗ tan rã, sụp đổ. Tại nhiều quốc gia phương Đông, do nhà nước trung ương tập quyền suy yếu nên tình trạng cát cứ trở thành phổ .biến, phá vỡ sự thống nhất quốc gia, gây cản trở cho sự hình thành thị trường dân tộc. Lợi dụng tình trạng trên, các nước tư bản phương Tây lần lượt chiếm các nước phương Đông và biến thành thuộc địa. Ẩn Độ sau thời kì hùng mạnh dưới vương triều Môgôn vĩ đại (cuối thế kỉ XVI) đã bị các nước phươns Tây xâu xé. Cuối cùng thực dân Anh dựa vào các 8 chúa phong kiến và các thân vương đã nhanh chóng xâm chiêm toàn bộ An Độ. Năm 1857, Anh xây dựng gần 7000km đường sắt ở Ân Độ nhằm tãng cường khai thác nguyên liệu và tiêu thụ hàng hoá. Sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Xi Pay ở quanh vùng Đê Li, Anh tiến về phía Miến Điện, Mã Lai. Sau khi đã làm chủ ú c, Tác Mania, Tân Tây Lan, tiêu diệt gần như hoàn toàn dân bản xứ và đưa dân Anh đến khai khẩn. Nam Dương quần đảo (Inđônêxia) - mặc dầu đã anh dũng đứng lên chống lại sự xâm lăng của tư bản phương Tây thế kỉ XVIII, cuối cùng vẫn bị thực dân Hà Lan đô hộ. Trung Quốc - một quốc gia phong kiến tiêu biểu ở phương Đông cũng bị các nước phương Tây nhòm ngó. Năm 1816, người Anh đem sang bán ở Trung Quốc 3290 thùng thuốc phiện (của Ấn Độ và Ba Tư). Năm 1830, con số đó tăng lên 18.750 thùng và 1836 - 27000 thùng. Chính phủ Mãn Thanh ra lệnh cấm nhưng không được, bèn tịch thu và tiêu huỷ số thuốc phiện nói trên. Người Anh đòi bồi thường và đòi tự do buô bán thuốc phiện. Chiến tranh Nha phiến Trung - Anh bùng nổ. Năm 1840, Anh chiếm Thượng Hải, Nam Kinh. Nhà Thanh ở vào thế yếu đã phải mở 5 hải cảng cho nước ngoài tới buôn bán. Các nước Âu - Mĩ nhìn thấy ở Trung Quốc một thị trường béo bở, cũng bắt chước Anh và năm 1844, chúng đã dùng vũ lực buộc Trung Quốc kí kết nhũng hoà ước bất bình đẳng. Từ năm 1856 đến 1858 - Liên quân Anh - Pháp khai chiến với Trung Quốc, bắt triều đinh Mãn Thanh kí hiệp ước nhượng bộ rồi hợp sức với triều đình tiêu diệt phong trào nông dân Thái Bình Thiên quốc, có cả quân Mĩ tham gia. Cuối cùng Trung Quốc phải cam chịu thân phận của nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Sau chiến tranh Nha phiến ở Trung Quốc, đến lượt nước Nhật bị gõ cửa. Lúc này mầm mống tư bản chủ nghĩa đã nảy nở ở các tỉnh miền Nam của đất nước Mặt trời. Năm 1853, tàu chiến Mĩ đến đòi Nhật mở cửa thông thương, sau đó là tàu chiến Nga. Nhật không có hải quân, không có pháo binh đã phải kí hiệp ước thương mại với Mĩ, Anh, Nga và nhiều nước khác. Từ 1858 trở đi, Nhật đã trở thành một thương trường của hầu hết các nước phương Tây. Như vậy là cho đến giữa thế kỉ XIX, nước Việt Nam phong kiến tuy vẫn giữ được nền độc lập của mình nhưng khó có thể tránh khỏi sự nhòm ngó và khiêu khích xâm lược, trong khi đó thì nhiều nước xung quanh đã rơi vào nanh vuốt của chủ nghĩa tư bản phương Tây. 9 2. Tình hình trong nước Về chính trị: Kể từ năm 1802 đến năm 1858, triều Nguyễn đã có hơn 50 năm xây dụng và củng cố. Đó là một đất nước độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền; có một nền kinh tế và tổ chức xã hội, một thế lực khá mạnh mẽ, không thua kém bất kì quốc gia nào trong khu vực Đông Nam châu Á. Tuy vậy, chế độ phong kiến Việt Nam lúc này đã và đang ớ vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. Những mầm mống tư bản chủ nghĩa đầu tiên xuất hiện ở nước ta. Từ cuối thế kỉ XVIII, ngày càng mâu thuẫn với quan hệ kinh tế phong kiến bao đời thống trị xã hội, nay trở thành rào cản của sự tiến hoá. Nền kinh tế tiểu nông đang cần được phát triển nhưng bị chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến uy hiếp nghiêm trọng. Nhiểu cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đang lên và quan hệ sản xuất đã tỏ ra lỗi thời cần phải được thay thế. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp và dòng họ, ngay sau khi lên ngói, các vua triều Nguyễn, từ Gia Long đến Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã tìm mọi cách phục hồi và củng cố quan hệ sản xuất cũ, bóp chết các lực lượng sản xuất mới vừa manh nha xuất hiện. Về mặt chính trị, Nhà Nguyễn cho xây dựng một bộ máy chính quyền quan liêu, độc đoán và sâu mọt. Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam có những dòng họ lập vương triều mới sau khi lãnh đạo nhân dân đạp đổ ách thống trị của ngoại bang hoặc thay thế những vương triều đã thoái hoá. Nhưng triều Nguyễn được dựng lên là nhờ kết quả của một cuộc chiến tranh do những thế lực phong kiến suy đồi tiến hành, được thế lực quân sự nước ngoài giúp sức, phản kích lại phong trào Tây Son, một phong trào đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân và dân tộcử Sau khi tái lập, Nhà Nguyễn cho thiết lập một ch ế độ thống trị bằng một thể chế nhà nước quân chủ chuyên chế, công khai chống lại các lực lượng xã hội và các phe cánh khồng cùng chính kiến. Nhà Nguyễn thiết lập nền cai trị bằng những hình phạt khắc nghiệt, dã man nhất thời trung cổ. Mọi quyền hành đều tập trung trong tay nhà vua. Vua tự xưng là Thiên tử - "Con trời", thay trời trị dân. Quyền hành của nhà vua được coi là thần khí thiêng liêng, vô biên, vô hạn. Đối với bất cứ ai, vua để sống thì được sống, bắt chết thi phải chết. Quan đại thần Trần Hi Tăng đã từng bị bắt uống thuốc độc chết vì phản đối hiệp ước 1862. Từ nãm 185910 1884, hàng trăm quan văn, võ bị khép vào tử tội vì để thất trận, cho dù có lí do chính đáng. Dưới vua có Cơ mật viện, 6 bộ và 5 phủ đô thống01. Ngoài ra còn có các danh hiệu tứ trụ, tam công, tam thiếu, một số ít cận thần được dự bàn quốc sự lớn lao, nhưng ý kiến cuối cùng, quyết định vẫn phải là ý kiến của nhà vua.Giai cấp địa chủ và hệ thống quan lại phong kiến là rường cột của chế độ chuyên chế. Bộ luật Gia Long được soạn thảo và áp dụng nhằm duy trì trật tự phong kiến. Theo luật này, chẳng những vua quan có quyền bắt giết những người "phản nghịch" mà còn có quyền bắt giết cả những người có ý làm nghịch mà chưa làm gì, thậm chí chỉ là một bài thơ, một lời, một câu có ngụ ý phạm thượng. Các hàng quan đầu tỉnh, đầu phủ, huyện đều do triều đình bổ nhiệm. Tất cả đều do thi cử mà ra, trong đó cố nhiên là đám "con ông cháu cha" là những người dễ đỗ đạt nhất. Ở vùng thượng du, triều đình không thể cai trị trực tiếp thì thông qua các tù trưởng để nối quyền. Dưới các thôn xã, quyền bính nằm trong tay bộ phận phú hào cả về kinh tế, chính trị, giáo dục. Vận mạng của dân làng phụ thuộc vào các tổng lí, kì dịch, quần chúng nhân dân bị áp bức thậm tệ. Vê kinh tế tài chính: Chế độ sở hữu ruộng đất công đến thời Nguyễn đần dần bị thu hẹp. Sở hữu ruộng đất tư nhân, nhất là các giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng phát triển, lấn át ruộng công của thôn xã và của Nhà nước. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nông thôn diễn ra ngày càng sâu sắc. Mọi nhu cầu về vật chất của nhà nước đều phải thông qua chính sách bóp nặn nhân dân, nhất là nông dân và thợ thủ công - bọn hào lí địa phương vì thế càng có cơ hội lộng hành. (l) Viện Cơ mật do Minh Mạng lập ra năm 1834, là cơ quan cấp cao nhất giúp vua giải quyết các công việc hệ trọng của đất nước. - 6 bộ (Binh, Hộ, Hình, Lại, Lễ, Công). - 5 phủ đô thống lãnh đạo 5 quân là Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu do 5 viên quan cao cấp (đô ửiống) đứng đầu. - Tứ trụ: Người đứng đầu điện Cần Chánh, điện Văn M inh, điện Võ Hiển và Đông Các đại học sĩ. - Tam công: Thái sư, Thái phó, Thái bảo. - Tam thiếu: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo. 11 Sách Minh Mạng chính yếu cho biết, vào năm 1840, tại tỉnh Gia Định "không có ruộng công, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến ngàn trăm mẫu, dân nghèo không được nhờ cậy". Cũng theo sử cũ, vào năm 1852, trong 31 tỉnh thì có hai tỉnh là Thừa Thiên và Quảng Trị có sô ruộng công nhiều hơn ruộng tư; một tỉnh là Quảng Bình ruộng công và ruộng tư bằng nhau, còn 28 tỉnh khác ruộng tư nhiều hơn ruộng công. Ở Bình Định, ruộng tư càng nhiều hơn'11 Do không còn ruộng công để phong cấp cho quan lại như các triều đại trước nữa, cũng như cần phải có nhiều tiền để chi dùng cho các hoạt động của Nhà nước, nhất là các hoạt động về quân sự, nên ngay từ thời Gia Long đã đặt ra các ngạch thuế mới, quy định sổ điền mỗi nãm một lần tiểu tu, 5 năm một lần đại tu, sổ đinh 5 năm một lần duyệt lại. Đến thời Nguyễn, thuế khoá rất nặng nề, trong đó thúế ruộng công nặng hơn thuế ruộng tư, tức là đánh nặng hơn vào người dân nghèo không ruộng. Dưới đây là bảng so sánh về số thuế thu qua một số năm. Năm Tiền (quan) Thóc (hội) Vàng (lạng) Bạc (lạng) 1820 1.925.920 2.266.650 500 12.040 1840 2.852.462 5.804.774 1.470 121.114 1847 3.108.162 2.960.134 1.608 128.773 Senho (J. Chaigneau) một người Pháp đã từng giúp rập cơ đồ triều Nguyễn, nãm 1807 đã nhận xét: "Dân chúng vô cùng đói khổ, vua quan bóc lột thậm tệ " (2) Ngoài tô thuế nông dân thời Nguyễn còn phải đóng rất nhiều khoản phụ thu như tiền mân, tiền điệu, cước mễ, tiền dầu lạt, tiền thập vật, tiền khoán khố, tiền sai dư, tiền trước bạ, dầu đèn... Tinh trạng xiêu tán của nông dân diễn ra rất nghiêm trọng, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Hồng, ruộng ít, dân đỏng. Từ năm 1802 đến 1806, tại các trấn Hải Dương, Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam Hạ và Thượng, Hoài Đức, Thái Nguyên, Hưng Hoá, dân cư của 370 thôn phải xiêu tán. Năm 1826, tại 13 huyện thuộc trấn Hải Dương dân xiêu tán mất 108 xã thôn, ruộng bỏ hoang hơn 12.700 mẫu. Đói kém thường xuyên xảy ra. Đó là chưa kể các nạn ôn dịch, vỡ đê, hạn hán. Thời Tự Đức, đê Văn Giang ở Hưng Yên vỡ 18 năm liền, biến cả vùng đồng bằng phì nhiêu ở Khoái Châu th à n h b ã i (l) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục (Chính bộ) tập 21, đệ nhị kí. Q.200. NXB Khoa học xã hội. 1969. Tr 158. ,2) J.Chaigneau: "Dẫn trong Contribution à l’histoire dela nation V ietnam ienne (Góp phần tìm hiểu lịch sử dân tộc Việt Nam). El Scocialas, Paris 1955. P.85. 12 đất hoang. Dân cư kéo hàng đoàn đi các nơi xin ăn. Năm 1859, một trận đói ghê gớm cướp đi sinh mạng của 60 vạn nhân dân các tỉnh Trung Kì và Băc Kì. Để giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chính, Nhà Nguyễn đã chú ý đến việc khai hoang. Từ năm 1802 đến 1855, triều đình ban hành 25 quyết định về khẩn hoang, trong đó có 10 quyết định ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành, 1 ở vùng Kinh kì và 6 đối với toàn quốc(l) Hình thức khai hoang chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán khai hoang lập ấp, xã. Chế độ đồn điền phát triển mạnh ở Lục tỉnh, Nhà nước dùng binh lính và tù nhân bị lưu đày khai hoang hoặc Nhà nước giao cho tư nhân chiêu mộ dân lập đồn điền, dân đồn điền được tổ chức thành cơ ngũ. Năm 1828, chế độ doanh điền được ban hành, theo đó Nhà nước đứng ra quy hoạch và góp vốn ban đầu, còn nhân dân thì hợp nhau góp công, góp sức khai hoang lập làng, mở rộng diện tích canh tác. Một số huyện ven biển Bắc Kì đã ra đời theo phương thức này. Nguyễn Công Trứ lập ra hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải và mấy tổng ở Nam Định. Nguyễn Văn Thoại đào kênh Núi Sập Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế và khẩn hoang vùng Châu Đốc (An Giang). Trương Minh Giảng lập được 25 thôn vùng biên giới Việt Nam - Campuchia; Nguyễn Tri Phương lập được 21 cơ đồn điền và tổ chức 24 ấp ở Lục tỉnh. Diện tích canh tác tăng nhanh: năm 1820 tổng cộng có 3.076.300 mẫu, đến năm 1840 có 4.063.892 mẫu, năm 1847 tăng lên 4.278.013 mẫu. Công việc khai khẩn đất hoang tuy đạt được một số thành tựu, nhưng rồi thành quả khai hoang hoặc trước, hoặc sau lại rơi vào tay giai cấp địa chủ phong kiến. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết: "Số nhà giàu có vùng có 40, 50 nhà, có vùng 20, 30 nhà, mỗi nhà có 50, 60 điền tốt, trâu bò có tới 200 con". Theo Đại Nam thực lục vào năm 1831, tại tỉnh Bình Định "Nhà hào phú kiêm tính đến 1-2 trăm mẫu mà người nghèo không một thước đất". Còn về ruộrvg công thì "ruộng tốt màu cường hào chiếm cả, có thừa ra thì hương lí lại bao chiếm, dân chỉ được phần đất rắn, xác màu"(2) Thực trạng trên khiến cho lực lượng sản xuất bị hao mòn, kinh tế nông nghiệp trở nên sa sút tiêu điều. Người nông dân không thiết tha với sản xuất, (1) Vũ Huy Phúc, Tìm hiểu chê độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu th ế kỉ XIX NXB KHXH, Hà Nội, 1979. Tr 126. (2) Sử quán triều Nguyễn, Đại nam thực lục (chính biên), Tập XXI đệ nhị kí, quyển 20 NXB KHXH, Hà Nội. 1969, Tr 58. 13 canh tác. Cơ sở kinh tê phong kiến tự cung, tự cấp lại được phục hổi và củng cố. Để vượt qua đói nghèo, những người nông dân Việt Nam đã dũng cảm kiên trì chống chọi với thiên nhiên. Họ tổ chức đắp đê phòng lụt, đào mương chống hạn "vắt đất ra nước thay trời làm mưa" và tự tổng kết kinh nghiệm sản xuất để truyền lại cho đời sau. Nhân dân các địa phương ra sức phát triển kinh tẽ gia đình, làm thêm nghề phụ, trổng thêm nhiều loại cây lương thực mới. Vì vậy cho đến giữa thế kỉ XIX, nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam đã khá đa dạng. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã khá phong phú. Tuy vậy, do nhiều yếu tố tác động, nông nghiệp nước ta vẫn không thể nào vượt ra khỏi phương thức canh tác cổ truyền, với những công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu, năng xuất thấp. Nghèo đói vẫn luôn luôn rình rập và đe doạ cuộc sống của người nông dân. Tinh trạng nông nghiệp - một ngành sản xuất dược Nhà nước coi trọng hơn cả đã như vậy, thì công thương nghiệp lại càng bi đát hơn. Sự bế tắc của công thương nghiệp trước hết biểu hiện ở sự mai một của các ngành nghề, vốn đã xuất hiện và thịnh đạt ờ các thế kỉ trước như các nghề thủ công truyền thống, nghề đóng tàu thuyền, nghề khai mỏ... Nhà nước phong kiến giữ độc quyền về khai mỏ. Hổi đầu thế kỉ XIX, ở nước ta có chừng 139 mỏ đủ loại. Ngoài các mỏ do triều đình trực tiếp chỉ đạo khai thác, có một số mỏ do các chủ tư nhân người Việt hoặc người Hoa chủ trì. Việc sản xuất trong các mỏ này hết sức lạc hậu, với các hình thức bóc lột mang nặng tính nô dịch... Các mỏ do tư nhân người Việt hoặc người Hoa đứng ra lĩnh trưng phải chịu mức thuế sản vật rất nặng nề. Hoạt động của ngành khai mỏ lại chỉ giới hạn trong khuôn khổ cung cấp nguyên liệu cho các xưởng thủ công, cho nên không thể phát triển được. Công nghiệp vì vậy cũng không có đủ điều kiện để trở thành một ngành kinh doanh độc lập mà lại có xu hướng hoà tan vào nền kinh tế tự cung tự cấp của xã hội phong kiến lạc hậu. Các nghề thủ công dân gian bị hạn chế: do thiếu nguyên liệu, do sức tiêu thụ kém, do tục giấu nghề và còn do vô sô' các quy định hà khắc, quái đản khác của triều đình như việc quy định màu vải, chất vải được dùng cho từng hạng dân, kiểu cách và kích thước nhà cửa cho các hạng dân được làm ... Việc cấm dân họp chợ và hạn chế việc chuyên chờ lúa gạo, sắt, thép, diêm tiêu ... đã làm cho giao lưu hàng hoá trong nước gặp khó khăn, thị trường thiếu tập truns và thống nhất. Nền kinh tế hàng hoá bị thu hẹp. Các ngành kinh doanh lớn đều do triều đình trực tiếp quản lí. Các địa điểm thương mại được mở mang trước đây bị thủ tiêu. Các công xưởng quan trọng như đúc súng, đúc tiền, chế tạo đồ ngự dụng, 14 các công trình xây cất cung điện, dinh thự, thành quách, lăng tẩm ... đều do bộ Công phụ trách. Chế độ làm việc trong các công^xưởng, công trường này đêu theo chế độ công tượng cũ kĩ, mang nặng tính chất cưỡng bức lao động. Thợ giỏi ở các địa phương bị bắt đưa về Kinh thành rồi phiên chế thành cơ ngũ làm việc dưới sự kiểm soát của các quan lại triều đình. Những chính sách này đã giáng một đòn nặng nề vào nội thương Việt Nam, khiến người lao động chịu thiệt thòi về phương diện mưu sinh, đồng thời cũng kìm hãm luôn cả ngành sản xuất nông nghiệp - xương sống của nền kinh tế nước ta thời đó. Cũng bởi do các chính sách nói trên nên ở Việt Nam thời kì này, cho dù đã xuất hiện chế độ phường hội khá chặt chẽ theo kiểu phương Tây, nhưng các mối quan hệ chủ - thợ, thợ cả - thợ bạn, và nhiều lí do khác chi phối, đã khiến cho tài năng của những người thợ Việt Nam bị bóp nghẹt. Nghề phụ trong các gia đình ở thôn quê cũng bị đình đốn. Thủ công nghiệp hầu như bị tê liệt. Về ngoại thương: Chính sách "bế quan toả cảng", đóng cửa khoá nước đã hạn chế quan hệ buôn bán với nước ngoài. Ngoài việc cử sứ thần và tàu bè sang các nước xung quanh như Hồng Công, Thượng Hải, Philíppin, Indônêxia, M alaixia... vừa để thu thập tin tức, vừa kết hợp mua bán, trao đổi một vài vật dụng thiết yếu, còn việc nghiên cứu, xúc tiến thương mại với nước ngoài hầu như bị cấm tiệt. Chủ trương "bế quan toả cảng", chối từ quan hệ buôn bán với bên ngoài, nhất là các nước phương Tây đã khiến cho Việt Nam bị tách biệt với các nước. Cơ hội mở rộng giao lun với các quốc gia Anh, Mĩ vì thế đã không được tận dụng. Ngay từ thời Gia Long, tàu buôn nước ngoài đã bị hạn chế ra vào các cửa biển Việt Nam, trừ tàu của Pháp được phép qua lại còn tàu thuyền các nước khác đã gần như vắng bóng trong các cửa bể vốn rất sầm uất trước đây như VâR. Đồn, Ba Lạt, Đà Nẵng, Thanh Hà, Hội An, Ngoại thương của Nhà nước chỉ được mở hạn chế trong các nước khu vực Đông Á hoặc Đông Nam Á như Trung Quốc, Philíppin, Thái Lan, Xinhgapo, Indônêxia, Boócnêô. Hàng nhập khẩu chỉ được đưa vào những thứ Triều đình cần dùng như sắt, chì, gang, lưu hoàng để làm súng đạn. Hàng xuất khẩu thì cấm người ngoại quốc mua: tơ, lụa, gạo, thóc khiến cho thương mại ngày một suy sụp. Số lượng các sở thuế quan giảm đi rất nhiều, từ 60 sở đến năm 1851, chỉ còn 21 sở. Kết quả là cả công nghiệp, thương nghiệp đều bị đình đốn, hàng hoá khan hiếm, đời sống nhân dân bị bần cùng, sức mua bị hạn chế. 15 Nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến chuyên chê đã không còn khả năng mở mang kinh tế và phát huy tiềm lực của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Quân sự quốc phòng Là một quốc gia phong kiến được xếp vào hàng tương đối mạnh ở khu vực Đông Nam Á, sau khi tái lập năm 1802, Nhà Nguyễn đã chú ý ngay tới việc xây dựng và phát triển lực lượng quân đội, gồm cả bộ binh, kị binh, tượng binh, pháo binh. Binh lực toàn quốc gồm 3 hạng: thân binh (hộ vệ nhà vua); cấm binh (bảo vệ hoàng thành) và tinh binh (phòng thủ Kinh đô và các tỉnh). Từ thời Minh Mạng, đặt ra lệ luân lun, gọi là biền binh ban lệ, hai ban ở nhà, một ban phục dịch thay đổi nhau. Đa sô' binh lính tập trung ờ Kinh đỏ và các tỉnh xung quanh, mỗi tỉnh có từ 500 đến 2 nghìn lính. Thời Thiệu Trị và Tự Đức, việc binh vẫn được chú ý. Các sách võ kinh được in ấn, Khoa thi võ được mở, binh lính được tuvển thêm. Ngoài ra còn đặt các ngạch hương dũng, dân dũng, thổ dũng ờ các tỉnh, huyện, xã. Song một khi lòng dân đã li tán, xa rời, chống lại triều đình thì dù quân có đỏng vẫn không phải là mạnh. Vả lại, trong điều kiện tài chính khô kiệt, kĩ thuật lạc hậu, đến giữa thế kỉ XIX mà vẫn huấn luyện quân đội theo trận đồ bát quái, ngũ hành, long thao, hổ lược... vũ khí chù yếu là gươm giáo, súng điểu thương; súng lớn tuy có nhiều nhưng, chỉ bố trí ở các thành quách, súng đúc bằng đồng, lòng láng (không rãnh) nạp tiền, bắn ít khi trúng đích, ít khi nổ, khó cơ động. Binh lính bị ngược đãi, vũ trang kém, lương ăn, áo mặc thiếu thốn. Chế độ thường phạt thiếu công minh. Trong lúc binh lực suy tàn, tài chính kiệt quệ, lòng dân oán trách, thì triều đình, từ vua đến quan đều hết sức bảo thủ, không chịu duy tân, cố ôm nếp cũ, cho nên sức lực của quân đội triều đình tuy còn đủ để ra oai với các nước láng giềng và đàn áp nhân dân. nhưng đã không còn đủ khả nãng để đương đầu với tư bản phương Tây. Hậu quả là vào năm Tự Đức nguyên niên (1847) đình thần là Trương Quốc Dụng đã tâu: "Tài lực của dân nay không bằng sáu phần mười năm trước". Còn năm 1859, khi quân Pháp vừa nổ súng đánh Đà Nẵng mà Nguyễn Tri Phương đã kết luận: "quân và dân của đã hết, sức đã yếu". Vé xã hội: Chế độ chuyên chế của nhà Nguyễn dựa trên nền tảng xã hội là giai cấp địa chủ, quan lại cường hào, bị nhân dân rất cãm ghét. Trong xã hội thời Nguyễn. 16 cũng như các triều đại trước có hai giai cấp cơ bản là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Giai cấp thống trị gồm vua quan, thơ lại trong hệ thống chính quyền và giai cấp địa chủ. Họ có dinh thự, ruộng vườn, sông suối, được pháp luật nhà nước bảo vệ. Các quan lại xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng do địa vị của mình, đã trở nên đối lập với nhân dân, đè nén, áp bức nhân dân. Tuy nhiên trong số các quan lại phong kiến, cũng có nhiều người thanh liêm, trung thực biết lo cho dân và cho xã hội. Giai cấp địa chủ miền xuôi và các thổ tù miền núi có số lượng ngày càng đông đảo, vừa có thế lực chính trị, vừa có thế lực kinh tế, là người cai quản chính quyền địa phương, đồng thời là chỗ dựa của triều đình trung ương tại các thôn bản. Giai cấp bị trị bao gồm nông dân, thợ thủ công, thương nhân, một số dân nghèo thành thị và tuyệt đại đa số dân cư ở các bản mường vùng dân tộc ít người. Họ làm ruộng, buôn bán nhỏ, làm nghề thủ công, làm thuê làm mướn cho những nhà giàu. Họ là những người phải gánh chịu mọi tai hoạ của tự nhiên và của sự bất công trong xã hội. Các vua Nhà Nguyễn dùng pháp luật hà khắc, quân đội đông đảo, nho giáo phản động làm công cụ kìm kẹp nhân dân về mọi' mặt trong trật tự của nền chuyên chế cực đoan, cho nên mâu thuẫn xã hội vốn đã có nguồn cội ngay từ đầu, ngày càng bộc lộ sâu sắc và quyết liệt. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra và kéo dài suốt từ thời Gia Long đến thời Tự Đức. Cuộc khởi nghĩa này bị dẹp thì cuộc khởi nghĩa khác lại xuất hiện bởi vì đời sống cơ cực, tô thuế, sưu dịch nặng nề và bởi vô số những chính sách đối nội, đối ngoại thiển cận khác của triều đình phong kiến Nguyễn. Có thể nói, bất cứ ai muốn tổ chức khởi nghĩa chống triều đình, dù là dân hay quan, dù sang hay hèn, dù hay chữ hay không hay chữ, người Kinh hay người Thượng, đều được đông đảo quần chủng đi theo và ủng hộ. Năm 1820, Minh Mạng vừa mới lên ngôi thì năm 1821 xảy ra cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành và Vũ Đức Cát ở vùng Sơn Nam (Nam Định), giết quan quân, chiếm thành trì, phát triển thế lực ra đến Hải Dương... Mãi đến năm 1827 Phan Bá Vành mới bị bắt, cuộc khởi nghĩa mới bị thất bại. ít lâu sau đó, năm 1831, Lê Duy Lương (lấy danh nghĩa dòng dõi nhà Lê) đã liên kết với các tù trưởng người Mường ở Hoà Bình mà nổi lên, xây dựng căn cứ, phát triển thê lực ở Ninh Bình, Hưng Hoá và Tây Bắc. Đến năm 1833, Lê Duy Lương bị bắt và bị giải về Kinh đô. Nhưng sau đó đổng bào Mường ở Hoà Binh lại suy tôn Lê Duy Hiển làm minh chủ, tiếp tục nổi lên chống triều đình ở vùng Hoà Bình - Thanh Hoá. Mãi đến nãm 1837 phong trào mới tạm thời lắng đi. Ở trong Nam, triều đình phải vất vả đối phó với cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi nổ ra từ năm 1833 (gần như cùng lúc với khởi nghĩa Lê Duy Lương ở Bắc). Được sự ủng hộ của nông dân nghèo, nhất là của những người từ Bãc bị đẩy vào Nam, Khôi đã nổi lên chiếm thành Gia Định và dễ dàng chiêm cả 6 tỉnh Nam Kì. Mãi đến tháng 3/1835, cuộc khởi nghĩa của cha con Lê Văn Khôi mới hoàn toàn bị thất bại. Cùng thời gian nói trên, ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, đổng bào Thổ đã theo Nông Văn Vân liên kết với 7000 quân của Lê Văn Bạt, Nguyễn Văn Nhàn (Tiền Bột, Ba Nhàn) ở vùng Son Tây đã nổi lên, phải đến tháng 4/1835, Nông Văn Vân mới bị bao vây và chết trong vùng rừng núi Tuyên Quang. Trong năm 1833 còn có các cuộc nổi dậy của đổng bào người Thái ở sông Đà, đồng bào Chăm ở Bình Thuận. Đồng bào Khơ me ở Trà Vinh thì nổi dậy suốt từ năm 1826 đến năm 1841. Có lúc họ đã chiếm được cả Trà Vinh, một huyện lớn thuộc tỉnh Vĩnh Long lúc đó. Trong vòng 7 năm ở ngói của Thiệu Trị đã có 56 cuộc khởi nghĩa nổ ra. Năm 1854 thời Tự Đức, khắp vùng Sơn Tây, Bắc Ninh, châu chấu phá hoại mùa màng, nhân dân đói khổ, nhà nho thất chí Cao Bá Quát thừa cơ phù Lê Duy Cừ nổi lên chống triều đình, dân nghèo theo rất đông. Năm 1855, Cao Bá Quát tử trận ở An Sơn nhưng dư đảng còn tiếp tục hoạt động đến vài năm sau đó. Cao trào nông dân khởi nghĩa đã làm cho nền tảng của chế độ phong kiến lung lay tới tận nền móng. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1848 đến nãm 1862 (từ khi Tự Đức mới lên ngồi đến khi thực dân Pháp chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kì) đã có 40 cuộc khởi nghĩa nổ ra. Và nếu tính đến năm 1883, khi triều đình Nguyễn kí Hiệp ước Hácmãng, thừa nhận sự chiếm đóng của Pháp trên toàn cõi Việt Nam thì số cuộc nổi dậy chống triều đình lên tới con số 103. Để đối phó với những hiện tượng xã hội trước đây, phong kiến triều Nguyễn đã cố gắng duy trì củng cố xã hội bằng mọi phương sách: - Đối với những phần tử chống đối "nổi loạn", triều đinh thẳng tay đàn áp, dìm trong biển máu. - Đối với một số tham quan ô lại quá lộ liễu, triều đình đã phải cho xử chém, cách chức để răn đe. 18 - Riêng đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì chính sách của triều đình là đồng hoá, hoặc trực trị đối với khu vực người Mường, Thái. Song trong điều kiện kinh tế công thương kém phát triển thì xu hướng phân quyền cuối cùng lại dẫn đến tình trạng cát cứ nguy hiểm. Bộ máy quan lại bị tha hoá và xu hướng phân quyền đã khiến cho nạn cường hào lộng hành ở các địa phương gia tăng - đó là điều tất yếu. Rốt cuộc thì tất cả các biện pháp chống đỡ của triều đình Nguyễn đã không thể giải quyết được tận gốc các vấn đề khủng hoảng xã hội. Tinh trạng rối ren lại vẫn tiếp tục xảy ra. Lòng dân oán thán, chia lìa, khối đoàn kết dân tộc bị rạn nứt, đó chính là nguyên nhân gián tiếp, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù từ bên ngoài tới xâm lăng nước ta. Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn trong những năm giữa thế kỉ XIX có một số nét đáng chú ý: - Một là xâm lấn các nước láng giềng như Khơme, Ai Lao. - Hai là khước từ quan hệ với phương Tây và đàn áp Thiên chúa. * Trước hết là đối với Khơme: Khơme vốn là nơi tranh chấp giữa triều đình Xiêm La (Thái Lan) và Việt Nam. Các nhóm hoàng tộc Khơme, kẻ cầu Xiêm, người cầu Việt để lên ngôi. Đầu thế kỉ XIX, triều đình Huế chiếm ưu thế trên đất Chùa Tháp. Bị chống đối, nhà Nguyễn đã cho quân đàn áp. Năm 1833 thời Minh Mạng, Lê Văn Khôi nổi lên chống triều đình Nguyễn và cầu viện Xiêm. Cả ba cánh quân của Xiêm tiến đánh Việt Nam đều bị đánh tan. Nàm 1835, nhằm lúc triều đình Nôngpênh gặp khó khăn trong việc cử người kế vị, Minh Mạng biến nước Khơme thành một tỉnh, đổi Nôngpênh thành trấn Tây thành, bắt các quan đại triều của Khơme đầy ra Bắc Thành. Triều đình Huế thi hành chính sách cai trị nghiệt ngã nên bị người Campuchia phản ứngệ Xiêm thừa cơ can thiệp. Quân Việt và quân Xiêm giao chiến nhiều trận. Nãm 1847, Thiệu Trị phải giảng hoà với Xiêm, Khơme phải triều cống cho cả Xiêm và Việt. Chiến tranh chấm dứt nhưng tình cảm quân dân hai nước bị rạn nứt. * Đối với Ai Lao: Cũng giống như Khơme, nước Ai Lao thế kỉ XIX chịu ảnh hưởng của cả triều đình phong kiến Xiêm và Việt. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan