LỊCH SỬ
NHA NƯỚC
VÀ PHÁP LUẬT
THÊ GIỚI
BAN CÒNG AN NHÂN DÂN
GIÁO TRÌNH
l ịc h sứ n h ầ n d Oc
VÀ PHÁP LUẬT THẾGIỚI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Giáo trình
LỊCH SỬNHÀ NDỚC
VÀ PHÁP LUẬT THẾGIỔI
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
C hủ biên
PHẠM ĐIỀM và ThS. v ũ THỊ NGA
T ập thê tác giả
PHẠM ĐIỀM
ThS.
vữ THỊ NGA
Các chương VII
Chương VI
PHẠM VIỆT HÀ
Phần thứ nhất,
các chương II, IV, V
ThS. PHẠM THỊ QUÝ
ThS. PHẠM THỊ THU HlỂN
Chương I
ThS. PHẠM THỊ QUÝ
Chương III
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI G IỚ I THIỆU
Nhà nước và pháp luật là lìiện tượng xã hội vô cùng phức
tạp, luôn biến động và có những thay đổi to lớn trong những
năm gán đáy. Nhận thức về nhà nước và pháp luật đóng vai
trò rất quan trọng trong nhận thức của cán bộ vù nhân dân
vê'xã hội, chính trị, văn hóa. Nhận thức dó qiúp cho việc tiếp
cận và giải quyết một cách đúng dán các vấn đẽ thực tiễn về
nhà nước và pháp luật.
Mộl trong những nội dung quan trọng của khoa học vé
nhà Iiước vù pháp luật lá Lịch sử nlià nước và pháp luật thế
qiới. Món học này trình bày những vấn đê cơ bân \'ề lịch sử
nhủ nước và pháp luật qua cức thời kì: Chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư sản và xã hội chủ nglũa.
Đê’ đáp ứng nhu cầu đào tạo, học tập và tìm hiểu vê'
nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội xuất
bán cuốn Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thê
giới. Cuốn sách s ẽ là tài liệu bổ ích đối với các sinh viên
luật được đào tạo dưới những hình thức khác nhau; các
cún bộ làm công tác pháp lí, công tác quản lí cũng nlu(
những ai muốn tìm hiểu một cách có hệ thống vé nhà nước
và pháp luật.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
5
http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHẦN THỨNHẤT
Sự TAN RÃ CỦA CÔNG XÃ NGUYÊN THUỶ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ Nước VÀ PHÁP LUẬT
I. TỔ CHỨC CỦA CÔNG XÃ NGUYÊN THUỶ
Việc nghiên cứu tổ chức của công xã nguyên thuỷ góp
phần lý giải nguồn gốc của nhà nước và pháp luật, đồng thời
để hiểu rõ những tàn dư của nó trong xã hội có nhà nước.
Trải qua hàng triệu năm sống thành bầy, về sau con người
bước vào xã hội có tổ chức cao hơn, đó là công xã nguyên
thuý (cách ngày nay khoáng 40.000 năm).
Từ quan hệ tạp hôn, con cái chỉ biết mẹ, dần dẩn trong
quan hệ hôn nhân diễn ra sự biến đổi quan trọng: những
người cùng dòng máu mẹ không được kết hôn với nhau.
Những người này hợp thành một cộng đồng gọi là thị tộc.
Như vậy, thị tộc được hợp thành do quan hệ huyết thống, v ề
kinh tế, thị tộc hình thành do quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất. Thị tộc là hình thái xã hội cơ bản của công
xã nguyên thuỷ, vì từ nó mà hợp thành các hình thái tổ chức
khác (bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc). Thị tộc phát triển
qua hai giai đoạn: Thị tộc mẫu hệ (chế độ mẫu quyền) thị tộc
phụ hệ. Trong thị tộc phụ hệ, chế độ hôn nhân một vợ một
chổng được xác lập, mọi người trong thị tộc đều theo dòng
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
họ cha, và đó là chế độ phụ quyền. Thị tộc có ruộng đất, rừng
rú, có tên gọi riêng, (theo tên cây cỏ, chim thú), có khu vực
cư trú riêng. Việc quản lý điều hành hoạt động của thị tộc do
tù trưởng và thủ lĩnh quân sự đảm đương. Những người này
do các thành viên của thị tộc bầu ra.
Một số thị tộc có quan hệ hôn nhân với nhau hợp thành
một bào tộc. Bào tộc có vai trò quan trọng, như thực hiện các
lễ nghi tôn giáo và hội hè, tổ chức lực lượng vũ trang bảo vệ
bộ lạc...
Một số bào tộc hợp thành một bộ lạc. Bộ lạc có tên gọi,
noi ở, tiếng nói, phong tục tập quán, ruộng đất... riêng. Đứng
đầu bộ lạc là tù trưởng bộ lạc do hội nghị bộ lạc bầu ra. Tù
trưởng bộ lạc có quyền giải quyết những cône việc cần kíp,
không quan trọng giữa hai kỳ hội nghị bộ lạc và có quyền
triệu tập hội nghị. Hội đồng bộ lạc bao gồm: tù trướng bộ
lạc, các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của thị tộc. Đến thời kỳ
thị tộc phụ hệ, quản lý công việc của thị tộc là một trướng lão
có tông tộc cổ nhất trong thị tộc. Nên hội đồng bộ lạc còn
được gọi là: hội đồng Irưởng lão. Hội đồng bộ lạc có quyền
tháo luận, quyết định những vấn đề quan trọng của bộ lạc
như tuyên chiến, đình chiến, cử sứ giả của bộ lạc mình hoặc
tiếp sứ giả cùa bộ lạc khác, chia chiến lợi phẩm V .V ..
Dần dần, một số bộ lạc liên kết với nhau, tạo thành liên
minh bộ lạc. Hội đồng liên minh bộ lạc gốm những tù trướng
của các bộ lạc và các thị tộc. Hội đồng thảo luận và quyết
nghị những công việc của liên minh theo phương thức dân
chủ. Mọi quyết nghị phải được sự nhất trí hoàn toàn của các
thành viên. Các quyết nghị đó khi đưa về các bộ lạc cũng
phải được hội đồng bộ lạc tán thành thì mới có hiệu lực. Liên
s
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
minh bộ lạc có hai thủ lĩnh tối cao, không ai hơn ai về quyền
hạn và chức trách.
Như vậy, trong chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc, bào
tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc là những hình thức tổ chức xã
hội vừa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa có vai trò và
tổ chức quản lý khác nhau.
Trong phạm vi từng cộng đồng, mọi thành viên đều có
nghĩa vụ và quyền lợi như nhau (kể cả các thủ lĩnh). Cái bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ và quyển lợi thường bằng sự tự
nguyện hoặc bằng áp lực của dư luận cộng đồng. Quyền hạn
của các thủ lĩnh, do cộng đồng trao cho, mang tính xã hội,
chưa phải là quyền lực chính trị.
II.
TỔ CHỨC CỔNG XÃ NGUYÊN THUÝ TAN RÃ
VÀ S ự HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC. ĐÁC ĐlỂM c o n
ĐƯỜNG HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC ò PHƯƠNG ĐÒNG
1.
Tổ chức cóng xã nguyên thuý tan rã và sự hình
thành nhà nước
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra những
chuyển biến vô cùng lớn lao về kinh tế-xã hội. Công xã
nguyên thuỷ lâm vào vòng suy sụp và tan rã, nhường bước
cho sự ra đời của nhà nước.
Kim loại được dùng để chế tạo công cụ sản xuất đã mở ra
Ihời đại kim khí. Từ đây năng suất lao động có bước phát
triển nhảy vọt. Những dấu vết của việc chế tạo công cụ đồng
sớm nhất hiện nay chúng ta biết được là thuộc thiên niên kỷ
thứ IV TCN, cư dân Lưỡng Hà, Ai Cập dùng nhiều công cụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
9
http://www.lrc-tnu.edu.vn
đổng trong sản xuất và đời sống. Khoảng nửa cuối thiên niên
kỷ thứ II TCN, vùng Tây Nam Á và Ai Cập xuất hiện nghề
luyện sắt và công cụ sắt được sử dụng. Những cổng cụ băng
kim loại (nhất là công cụ sắt) cùng với kinh nghiệm sản xuất
của con người tích luỹ được, đã tạo nên bước phát triển nhảy
vọt trong trồng trọt và nghề thủ công. Nhiều vùng ở Bắc Phi
và Châu Á, cư dân còn biết làm những công trình thuỷ lợi để
tưới tiêu nước. Trồng trọt phát triển đã thúc đẩy nghề chăn
nuôi cũng phát triển. Do vậy dẫn đèn sự phân công lao động
xã hội lần thứ nhất: nghề trồng trọt và nghề chăn nuôi tách
rời nhau, có những bộ lạc chuyên về chăn nuôi và những bộ
lạc chuyên nghề trồng trọt. Các nghề thủ công phát triển
mạnh, dãn đến sự hình thành những nhóm người chuyên làm
nghề thủ công. Từ đó nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp.
Đây là sự phân công lao động xã hội lần thứ hai. Sự chuyên
môn hoá của các ngành sản xuất làm xuất hiện và phát triển
việc trao đổi sản phẩm giữa các bộ lạc. giữa các vùng từ Bắc
Phi sang Châu Á, từ phương Đông sang phương Tây. Ngay
trong một công xã, người nông dân và người thợ thủ công
cũns trao đổi sản phẩm với nhau.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và nền kinh tế
nguycn thuỷ đã dẫn đến những hệ quả rất quan trọng.
1.
Sự xuất hiện tài sản tư hữu. Năng suất lao động được
nàng cao. làm cho sản phàm xã hội tãng nhanh. Ngoài phần
tiêu dùng hàng ngày, con người đã có của cải dư thừa để
danh. Quíi tnnh phàn hou tài sun bíìt đầu dicn ra và phát triển
theo những con đường sau:
- Trong các cộng đổng, những người có địa vị đã chiếm
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
được nhiều của cải dư thừa của tập thể.
- Do sự phát triển cùa sức sản xuất, đại gia đình phụ
quyền được phân thành nhiều gia đình nhỏ, bao gồm vợ
chồng và con cái, mỗi gia đình nhỏ ấy là một đơn vị kinh tế,
có tài sản riêng như công cụ sản xuất, tư liệu lao động và
những thứ đó được truyền lại cho con cái từ đời này qua đời
khác, củng cố thêm chế độ tư hữu.
- Của cải và tù binh trong chiến tranh cũng là một nguồn
tài sản quan trọng bị những người có địa vị trong bộ lạc
thắng trận chiếm đoạt thành của riêng mình
2.
Công xã nông thôn xuất hiện thay thế công xã thị tộc
phụ hệ đang dần dần tan rã. Sự phán hoá tài sản và địa vị
giầu nghèo trong xã hội đã dẫn đến tình trạng những người
giàu có muốn từ bỏ bà con thân thuộc túng thiếu, vì nghĩa vụ
giúp đỡ những người anh em họ hàng theo phong tục cổ
truyền đã gây trở ngại cho việc tích luỹ của cải của gia đình
họ. Còn nhiều người vì nghèo khó phải đi tới những vùng
khác để sinh sống. Mối quan hộ dòng máu kết dính các thành
viên trong thị tộc bộ lạc bị cắt đứt. Ranh giới của thị tộc bộ
lạc bị xáo trộn và phá vỡ. Thay vào đó là một hình thức tổ
chức cộng đồng mới. Cộng đồng công xã láng giềng bao
gồm những người ở chung một vùng đất, có cùng một sô' lợi
ích chung về kinh tế xã hội, có mối quan hệ láng giềng (chứ
hầu như không có quan hệ dòng máu). Công xã láng giềng
bao gồm công xã nông thôn (hình thức phổ biến nhất) trong
cir dân nông nghiệp và công xã du mục trong cư dân chăn
nuôi. Thay thế công xã thị tộc, công xã nông thôn là hình
thái tổ chức xã hội cuối cùng của công xã nguyên thuỷ Theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
C. Mác(l): công xã nông thôn mang tính hai mặt; trong công
xã, vừa có chế độ tư hữu tài sản (công cụ sản xuất, súc vật,
nhà ở), vừa có chế độ sở hữu chung của công xã (phần lớn
ruộng đất, sông bãi, rừng rú). Ruộng đất của công xã được
chia cho các gia đình cầy cấy theo kỳ hạn nhất định và gia
đình được chiếm hữu thành quả lao động của mình. Điều đó
đẩy mạnh sự phát trien của tài sản tư hữu. Quá trình phát
triển của chế độ tư hữu tất yếu dẫn đến việc hình thành các
tập đoàn người trong xã hội có địa vị kinh tế khác hản nhau:
Tập đoàn thứ nhất là những người giầu có bao gồm:
- Trước hết là các quý tộc thị tộc trong công xã, bộ lạc.
liên minh bộ lạc.
- Những thương nhân tích luỹ được nhiều của cải và bắt
người sản xuất phủi phụ thuộc họ về kinh tế.
- Nhiều tăng lữ nắm cả vận mệnh tinh thần và vật chất
của cư dán. Họ trở nên giàu có.
- Một sô' ít người vốn là nông dân, bình dân hoặc một số
ít thợ thủ công do tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản
xuất,... dần dần giầu lên.
Tập đoàn thứ hai chiếm đông đảo trong xã hội là nông
dân, thợ thử công. Họ có chút ít tài sản.
Tập đoàn thứ ba là những tù binh chiên tranh bị biến
thành nô lệ. Những nông dân thợ thủ công bị phá sản, cũng
bị thành nỏ lệ.
Những tập đoàn trên chính là các giai cấp: chủ nô, bình
(1 ). X em : C .M á c, E ligen , V .I Lẽ N in: Bàn vé c á c xã h ộ i tiền tư bản. N h à xuất
bản k h o a h ọ c xã h ộ i. Hà N ộ i, 1975.
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân, nô lệ. Mâu thuẫn giai cấp đối kháng nảy sinh, dần dẩn
phát triển tói mức độ không thể điều hoà được. Các hình thức
tổ chức trong xã hội nguyên thuỷ không thể giải quyết được
thực trạng đó và nó không còn phù hợp để tồn tại. Giai cấp
giầu có cần phải có một tổ chức mới để củng cố và tăng
cường địa vị của mình. So với tổ chức của công xã nguyên
thuỷ, tổ chức mới này không những có sự phát triển vượt bậc
về lượng mà cái quan trọng hơn, là sự thay đổi hẳn về chất.
Đó là bộ máy bạo lực, gồm bộ máy quan chức hành chính,
toà án, nhà tù, quân đội, cảnh sát,... để đàn áp những người
lao động. Tổ chức mới này là nhà nước.
Quá trình hình thành nhà nước có thê được tóm tắt bằng
giản đồ sau:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất —> kinh tế phát triển
và có sự phân công lao động xã hội —> sự xuất hiện của cài
dư thừa để dành và chế độ tư hữu —> sự hình thành các giai
cấp —> và mâu thuần giai cấp đối kháng không thể điều hoà
được nhà nước ra đời.
2.
Đông
Đặc điểm con đường hình thành nhà nước ở phương
Trên đây là quy luật hình thành nhà nước nói chung, đặc
biệt đó là thực tế ờ phương Tây. Vấn đề này đã được F.
Engen đúc kết trong tác phẩm nổi tiếng "Nguồn gốc của gia
đình, của c h ế độ tư hữu và của Nhà nước". Ngày nay, khi mà
tài liệu về lịch sử phương Đông cổ đại không còn hiếm,
nhiều học giả nhìn nhận lại và thấy rằng con đường hình
thành Nhà nước đầu tiên ở phương Đổng có một số đặc điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
13
http://www.lrc-tnu.edu.vn
riêng của nó. Ở phương Đông, các nhà nước thường được
hình thành ở lưu vực các con sông lớn. Điểu kiện thiên nhiên
đã chứa đựng sẵn trong đó hai mặt đối lập: ưu đãi và thử
thách. Nên bất cứ một cộng đồng dân cư nào ở đây cũng phải
tiến hành công cuộc trị thủy và thủy lợi. Do tính cấp bách
thường xuyên, quy mô to lớn của công cuộc trị thuỷ, thủy lợi
nên công xã nông thôn với chế độ sở hữu chung về ruộng đất
được bảo tồn rất bền vững. Chế độ tư hữu về ruộng đất lúc
đầu hầu như không có và sau đó hình thành và phát triển rất
chậm chạp. c . M ác viết: "Trong hình thức Á cháu (ít ra cũng
trong hình thức chiếm ưu thế), không có sở hữu mà chỉ có
việc chiếm dựng của cú nhân riêng lẻ, k ẻ sở hữu thực lể, thực
sự là công xã, do đó sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sờ hữu
chung về ruộng đất mà thôi"}" Trong thư trao đổi giữa
C.Mác và F.Engen, hai ông cho rằng: "Việc không có c h ế độ
tư hữu ruộng đất quá thật là clùa khoá đ ể hiểu toàn bộ
phương Đông".ữ) Chiếc chìa khoá đó giúp chúng ta lý giải
một thực tế lịch sử ở phương Đông: sự phân hoá xã hội thành
kẻ giầu người nghèo diễn ra rất chậm chạp, chưa thật sâu sắc
và mức độ phân hoá chưa cao lắm so với lịch sử quá trình
hình Ihành nhà nước ở phương Tây. Bởi vậy ỏ phương Đông,
quá trình hình thành, định tính và định hình của các giai cấp
cũng diễn ra chậm chạp và không sắc nét, mâu thuẫn giai cấp
đối kháng phát triển chưa tới mức độ gay gắt và quyết liệt.
Nhưng dù trong môi trường kinh tế -xã hội mới như vậy, nhà
nước đã phải ra đời. Chính công cuộc trị thủy - thủy lợi không
(1 ). (2 ). X em : C .M á c, F .E n g en . V .I L ênin: Bàn vé c á c xã h ội tiề n tư bán Sđd
tr. 8 8 . 49.
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
chỉ là yếu tố duy trì chế độ công hữu vể ruộng đất, mà còn là
một yếu tô' thúc đẩy nhà nước phải ra đời sớm. Trước đó tổ
chức của công xã thị tộc, với quy mô tổ chức và hiệu lực của
nó, không còn đủ khả nãng tổ chức công cuộc chống lũ lụt và
tưới tiêu. Đồng thời, nhu cầu tự vệ cũng là một yếu tố quan
trọng thúc đẩy sự ra đời sớm của nhà nước. Như vậy, nhân tố
trị thủy - thủy lợi và tự vệ tuy bản thân chúng không thể sản
sinh ra nhà nước, nhưng có thể thúc đẩy quá trình hình thành
nhà nước trên cơ sở phân hoá xã hội đã ớ một mức độ nào
đó. Nhà nước ra đời sớm, sớm cả về mặt thời gian và về mặt
không gian, do điều kiện môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội
dặc biệt cùa phương Đông. Đó là đặc thù thứ nhất của con
đường hình thành nhà nước ở phương Đông.
Trong hoàn cảnh chế độ công hữu về ruộng đất, sự phân
hoá giầu nghèo và mức độ mâu ihuẫn giai cấp như vậy, thì
quyền lực nhà nước và tổ chức nhà nước được hình thành như
thế nào? Trước hết và chủ yếu là ờ vai trò của tầng lớp quý
tộc thị tộc. Trong tác phấm Chống Đuyrinh cùa F.Engen có
một đoạn lý giải về vấn để này: "Ngay từ đầu trong mối công
xã đó, có một s ố lợi ích chung nào đó mà việc gìn giữ thì
phải trao cho những cá nhân, tuy là có sự kiểm soát của loàn
thể: xét xử những vụ tranh chấp, trừng pliạt những kẻ lạm
quyển, trông nom các nguồn nước nhất là ở các xứ nóng, và
sau cùng là những cliức năng tôn giáo do tính chất nguyên
thuỷ và d ã man của hoàn cảnh... D ĩ Iiliiên là những cá nliân
đó có một sự toàn quyền nào đó, và tiêu biểu cho những
mầm mông của quyển lực nhà nước. Dần dần lực lưựHỊỊ sản
xuất túng thêm, dân s ố dỏng đúc lum tạo ra ở đây lù lợi ích
cliung, ở kia là sự xung đột vé lợi ícli giữa các cộng dồng \'('rì
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhau, và sự tập hợp những cộng đồng thành những tập thê
quan trọng hơn lại gây ra một sự phân công mới và việc
thành lập những cơ quan mới đ ể bảo vệ lợi ích chung và
chông lại những lợi ích đối kháng - Những cơ quan đỏ, lúc
bấy giờ với tư cách ¡à đại biểu cho những lợi ích cliung của
toàn nhóm đ ã có đối với mỗi cộng đồng riêng biệt m ột địa vị
dặc biệt, đôi khi đối lập ngay với cộng đổng ấy, rồi chẳng
bao lâu sau đó có ngay m ột tính chất độc lập CÒI1 nhiều hơn
nữa do việc k ế thừa nhiệm vụ là việc tự nó thành một lục lệ
trong cái th ế giới mà mọi việc đều xảy ra theo tự nhiên, hoặc
là do việc lìgàv càng kliông thê nào bỏ được những cơ quan
như th ế khi mà những xung đột với các nhóm kliác ngà\’ càng
tãnạ thêm. N hư th ế nào mà lừ cái việc chuyển sang có địa vị
độc lập đối với x ã hội, thì với thời gian chức năng x ã hội đã
có th ể dần dần vươn lên thành sự thống trị đối với x ã hội,
như th ế nào mà h ễ ở đâu gặp thời cơ thuận lợi người đẩy tớ
ban dầu lại biến thành người cliít, nliư tliế nào mà tùy theo
hoàn cảnh, người chủ đỏ lại biến thành tên vua chuyên ch ế
hay tên chúa tỉnh ở phương Đông... trong chừng mực nào đó,
cuối cùng cũng dùng đến cả bạo lực, như th ế nào mà rồi sau
cùng những cá nhún thống trị hợp lại thủnli m ột giai cấp
tliấng trị... à đây, điểu quan trọng chỉ là nhận thấy rằng bất
kỳ ơ cỉâit, m ột chức lìtìỉiỊ’ x ã lĩôi CŨIIÍỊ lù c ơ s ỏ của SƯ tliông tri
chinh trị, và sự tliống trị chính trị cũng chì cỏ th ể tồn tại
dược lán chừng nào mà nó làm tràn chức năng x ã hội đã
giao phó cho nó"
(1). X em : K l-n g e n : C h ốn g Đ u yrin h . N x b Sư thật. Hà N ồ i, 1 9 71, Ir. 3 0 4 -3 0 5
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như vậy, trong tất cả phạm vi các cộng đồng (thị tộc, bộ
lạc, liên minh bộ lạc) tầng lớp quý tộc thị tộc lúc ban đầu
vốn thực hiện "cliức năng xã hội" đảm bảo lợi ích chung của
cả cộng đổng, rồi chuyển sang "địa vị độc lập đối với xã hội"
và cuối cùng "vươn lên thành sự thống trị dối với xã liội". Đó
là con đường hình thành nhà nước của nhiều nước phương
Đông. Đây là đặc thù thứ hai của con đường hình thành nhà
nước ờ phương Đông.
III. SƯRA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT
Pháp luật ra đời khi nhà nước xuất hiện. Xét vế phương
diện khách quan, nhà nước và pháp luật phát sinh cùng một
nguồn gốc, khi mả chế độ tư hữu được xác lập, xã hội phân
hoá thành các giai cấp đối kháng và máu thuẫn giai cấp dối
kháng khóng thể điều hoà được. Xét về phương diện chú
quan, pháp luật do nhà nước đề ra và trớ thành một phương
tiện cùa nhà nước dê bào vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Pháp luật ra đời là một tất yếu khách quan. Trong các tổ
chức cộng đổng của công xã nguyên thủy, quan hệ giữa các
thành viên được điều chỉnh bằng phong tục tập quán và được
mọi người tự nguyện chấp hành, không có sự cưỡng chế bằng
bộ máy bạo lực. Nhưng khi nhà nước xuất hiện, phong tục
tập quán, với bản chất của nó là theo nguyên tắc bình đẳng
giữa các thành viên trong xã hội đã không phù hợp với việc
bảo vệ địa vị, quyền lợi riêng của nhà nước, của giai cấp
thống trị. Khi nhà nước được hình thành và quốc gia được
thiết lập, các quan hệ xã hội phát triển vượt bậc cả về bề rộng
và bề sâu, cả về lượng và về chất, thì phong tục tập quán
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
17
http://www.lrc-tnu.edu.vn
cùng toàn bộ lục địa Châu M ĩ và Châu ú c , thời kì ấy và mãi
vể sau này nữa vẫn còn là thời kì đồ đá và chế độ công xã
nguyên thủy chưa hề bị suy vong.
Sự ra đời của nhà nước và pháp luật là bước nhảy vọt đầu
tiên trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, đánh
dấu bước khởi đầu của lịch sử nhà nước và pháp luật. Nhà
rước và pháp luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại là nhà nước
và pháp luật chiếm hữu nô lệ.
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHẦN THỨHAI
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI KỈ c ổ ĐẠI
CHƯƠNG I
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
A. NHÀ NƯỚC AI CẬP CỔ ĐẠI
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ Nước
Ai Cập nằm dọc theo lưu vực sông Nin ở vùng Đông Bắc
châu Phi. Sông Nin có giá trị rất lớn đối với đời sống kinh tế
- xã hội Ai Cập. Từ xưa, người Hy Lạp đã khẳng định “Ai
cập là tặng phẩm của sông Nin'', ở Ai Cập hình thành hai
vùng rõ rệt là Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập.
Cuối thiên niên kỉ IV trước công nguyên, nhà nước cổ đại
Ai Cập đã ra đời. Ai Cập là trung tâm vãn minh sớm nhất thế
giới cổ đại.
Thời cổ, cư dân Ai Cập đã sớm khai thác vùng đồng bằng
Sông Nin để trổng trọt. Người Ai Cập biết xây dựng những
công trình thủy lợi từ rất sớm để tưới tiêu nước. Nghề Ihủ
công, trong đó có nghề đúc đồn« sớm nhát triển đã tao ra khả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
21
http://www.lrc-tnu.edu.vn
năng lớn sản xuất những công cụ lao động săc bén phục vụ
kinh tê nông nghiệp. Nghề chăn nuôi cũng đóng vai trò quan
trọng trong kinh tế Ai Cập cổ. Các sản phẩm nông nghiệp,
thủ công nghiệp đã được trao đổi giữa các vùng ở Ai Cập và
ngoài Ai Cập.
Từ thiên niên kỉ IV TCN, xã hội Ai Cập bắt đầu có sự
phân hoá giàu - nghèo. Sự phân hoá này diên ra chậm chạp.
Ba giai cấp đã được hình thành trong xã hội gồm có: chủ nỏ.
nô lệ và nông dân công xã. Tầng lớp đông đáo nhất trong giai
cấp chủ nô là tầng lớp quý tộc thị tộc. Sau đó là tầng lớp tăng
lữ và những người giàu có khác.
Nổ lệ ở Ai Cập vốn xuất thân từ những tù binh chiến
tranh hoặc là những bình dân bị phá sản vì nợ. Nô lệ không
được coi là người. Trong ngôn ngữ Ai Cập, từ nô lệ là Giét
(Jets) có nghĩa là đồ vật. Quan hệ nô lệ mang nặng tính chất
gia trưởng. Nô lệ chủ yếu làm công việc hầu hạ trong gia
đình chủ nô, xây dựng đền đài và lăng mộ. Thân phận nô lệ
hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Chủ nô có quyền
bán, chuyển nhượng, trao tặng nô lệ của mình.
Nông dân công xã là những người lao động chủ yếu của
xã hội. Thành phần của họ khác phức tạp. Có những người
khá giả, có ruộng đất, súc vật, tư liệu sản xuất. Nhưng phần
lớn, họ là những người nghèo, có ít hoặc không có ruộng đất,
phải thuê ruộng đất của nhà nước để cày cấy. Nhà nước bóc
lột họ bằng nhiều hình thức. Họ phải nộp thuế ruộng đất theo
diện tích canh tác và thuế súc vật. Cùng với nô lệ, họ phải lao
động khố sai cho giai cấp chủ nô để xây dựng các công trình
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
của nhà nước và của vua. Ngoài ra, ở Ai Cập còn có tầng lớp
thợ thù công, số lượng khá đông, họ xuất hiện do nhu cầu
của sự phát triển kinh tế và yêu cầu của những ngành xây
dựng phục vụ giai cấp chủ nô.
Như vậy, trong xã hội Ai Cập cổ đại, kết cấu giai cấp đã
hoàn chỉnh. Giai cấp bóc lột bao gồm chủ nô như vua, quan
lại quý tộc, táng lữ. người giàu có. Giai cấp bị bóc lột bao
gồm nô lệ. nông dân cổng xã, thợ thú công. Sự đối kháng
giai cấp trong xã hội Ai Cập ngày càng quyết liệt giữa kẻ
giàu và người nghèo. Trong hoàn cảnh đó, tổ chức thị tộc đã
phái nhường chỗ cho sự ra đời của công xã nông thôn. Nhiều
công xã nông thôn hợp thành một khu vực, người Ai Cập còn
gọi là Xê Pa, còn các sử gia Hy Lạp gọi là Nôm. Thời cổ, Ai
Cập có hàng chục khu vực như thế. Các Nôm hầu như biệt
lập với nhau. Mỗi Nôm có thủ phù, ngôn ngữ địa phương, thờ
thần và tổ chức quân đội riêng. Đứng đầu Nôm là một thủ
lĩnh. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nôm là quản
lí nguồn nước và tổ chức, xây dựng công trình thủy lợi. Như
vậy, sự thành lập các Nôm là một bước quan trọng trong quá
trình hình thành nhà nước. Nôm, có thể gọi là tổ chức manh
nha của Nhà nước Ai Cập cổ đại.
Cuối thiên niên kí IV TCN, trên cơ sở sự phát triển của
các giai cấp, của mâu thuẫn giai cấp, của nhu cầu trị thủy thủy lợi, các Nôm dần dần hợp lại với nhau thành hai vương
quốc riêng biệt, đó là nhà nước Tluỉợng Ai Cập và nhà nước
Hạ Ai Cập. Sự xuất hiện hai nhà nước này là mốc đánh dấu
sự hình thành nhà nước ở Ai Cập.
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -