Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Giáo trình địa chính đại cương (ngành trắc địa)...

Tài liệu Giáo trình địa chính đại cương (ngành trắc địa)

.PDF
92
1
142

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH -------------------------------------Chủ biên. Th.s Ngô Thị Hài GIÁO TRÌNH ĐỊA CHÍNH ĐẠI CƯƠNG DÙNG CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRẮC ĐỊA (LƯU HÀNH NỘI BỘ) N¨m 2018 Môc lôc TT 1 2 3 4 Néi dung Trang Môc lôc 2 Bµi më ®Çu 3 Ch-¬ng 1: Chøc n¨ng, nhiÖm vô vµ tæ chøc cña hÖ thèng ®Þa 10 chÝnh ViÖt Nam 1.1. Chøc n¨ng cña ®Þa chÝnh 10 1.2. NhiÖm vô cña ®Þa chÝnh 14 1.3. HÖ thèng c¬ quan qu¶n lý nhµ n-íc vÒ ®Êt ®ai 15 Ch-¬ng 2: B¶n ®å ®Þa chÝnh 25 2.1. Kh¸i niÖm chung vÒ b¶n ®å ®Þa chÝnh 25 2.2. Néi dung cña b¶n ®å ®Þa chÝnh 27 2.3 HÖ thèng tû lÖ b¶n ®å ®Þa chÝnh 28 2.4. PhÐp chiÕu vµ hÖ to¹ ®é ®Þa chÝnh 29 2.5. Yªu cÇu ®é chÝnh x¸c b¶n ®å ®Þa chÝnh 33 2.6. Ký hiÖu b¶n ®å ®Þa chÝnh 37 2.7. Chia m¶nh vµ ®¸nh sè b¶n ®å ®Þa chÝnh 38 2.8. B¶n ®å sè ®Þa chÝnh 40 Ch-¬ng 3: Thµnh lËp b¶n ®å ®Þa chÝnh 59 3.1. Kh¸i qu¸t c¸c ph-¬ng ph¸p thµnh lËp b¶n ®å ®Þa chÝnh 59 3.2. Thµnh lËp BD§C theo ph-¬ng ph¸p ®o vÏ trùc tiÕp ngoµi 69 thùc ®Þa. 3.3. Thành lập bản đồ địa chính bằng ảnh hàng không 5 3.4.. Ứng dụng công nghệ thông tin để thành lập bản đồ địa chính Ch-¬ng 4: Sö dông vµ chØnh lý b¶n ®å ®Þa chÝnh 79 82 59 4.1. Sử dụng bản đồ địa chính 4.2. Chỉnh lý bản đồ địa chính Tµi liÖu tham kh¶o 92 2 Bµi më ®Çu 1. Khái niệm về địa chính Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng... Đất là điều kiện, là nền tảng tự nhiên của mọi ngành sản xuất. Để đảm bảo việc thực hiện quyền sở hữu đất đai, quyền sử dụng đất mà đo đạc địa chính và quản lý đất đai ra đời. Nó không ngừng phát triển trên cơ sở sự phát triển của sản xuất, trình độ khoa học kỹ thuật và tập quán của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Để bắt đầu tìm hiểu về địa chính chúng ta cần làm quen với khái niệm về địa chính, đối tượng quản lý của nó, lịch sử phát triển của địa chính. * Định nghĩa về địa chính Theo từ điển Bách khoa toàn thư của Việt Nam năm 1996, " Địa chính là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ đo đạc, thống kê đất đai trong cả nước". " Bản đồ đất đai còn gọi là bản đồ giải thửa có tỷ lệ lớn thể hiện chi tiết từng thửa ruộng về vị trí, kích thước, diện tích, chủ sử dụng và được chính quyền công nhận". Định nghĩa này có phần chưa chính xác vì địa chính không chỉ là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Theo nghĩa Hán - Việt thì "địa chính" là một từ gồm hai thành tố, "địa" là đất, mảnh đất, thửa đất, lãnh thổ,...; "chính" là công việc của nhà nước đề ra các nguyên tắc, luật lệ để quản lý xã hội. Như vậy, "địa chính" là công việc của nhà nước về quản lý đất đai. Từ đó, có thể thấy rõ có hai kiểu định nghĩa về địa chính: - Thứ nhất, địa chính là bản kê khai về sở hữu và sử dụng đất đai, trong đó chứa đựng những thông tin tương đối đầy đủ đáp ứng yêu cầu của các tổ chức và cá nhân về các phương diện thu thuế, pháp lý và kinh tế. Nói cách khác nó là bộ hồ sơ quản lý đất bao gồm sổ địa bạ và bản đồ địa chính. - Thứ hai, coi địa chính là việc quản lý đất đai do nhà nước tiến hành, bao gồm ba khâu cơ bản là: thành lập bản đồ địa chính; thống kê số lượng, đánh giá chất lượng làm căn cứ tính thuế; xác định khía cạnh pháp lý của đất đai nhằm quy định nghĩa vụ và quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu, chủ sử dụng. Như vậy có thể hiểu: Địa chính là thể tổng hợp các tư liệu, văn bản xác định rõ vị trí, ranh giới, phân loại, số lượng, chất lượng của đất đai, quyền sử hữu, quyền sử dụng đất làm cơ sở cho việc phân bổ, đánh thuế, và của việc 3 quản lý, bao gồm trách nhiệm thành lập, cập nhật và bảo quản các tài liệu địa chính. Một cách tổng quát: Địa chính là khoa học về đo đạc bản đồ và quản lý đất đai. * Nội dung của địa chính Trong điều kiện Việt Nam, công tác quản lý nhà nước về đất đai bao gồm một hệ thống các biện pháp giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước nắm chắc các thông tin đất đai, quản lý được quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người sử dụng đất và bảo vệ môi trường. Nội dung của nó bao gồm: - Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai; - Điều tra đất đai, đo đạc, lập bản đồ địa chính, các loại bản đồ chuyên đề về đất đai để nắm chắc tình hình quản lý và sử dụng đất; - Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đáp ứng quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; - Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống tài chính đất đai bao gồm việc đánh giá, định giá đất, xây dựng hệ thống thuế và phí liên quan đến sử dụng đất; - Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống hành chính quản lý đất đai bao gồm tổ chức bộ máy quản lý, đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất,... * Phân loại địa chính - Phân loại theo giai đoạn phát triển của địa chính + Địa chính thuế: là địa chính dựa trên cơ sở đăng ký đất đai nhằm thu thập thông tin phục vụ cho việc tính thuế. Loại địa chính này được các nước tư bản lập ra thời kỳ đầu. + Địa chính pháp lý: Là đăng ký đất đai mà các nước dùng để bảo hộ cho quyền sở hữu, khích lệ việc giao dịch đất dai, ngăn cản việc đầu cơ đất. Khi đất đai đã được đăng ký thì quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đã được pháp luật bảo hộ. + Địa chính đa mục đích: Là sự phát triển một bước của hai loại địa chính nói trên. Mục đích không chỉ nhằm phục vụ thu thuế và đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đất mà quan trọng hơn là cung cấp những tư liệu cơ bản cho quản lý đất đai toàn diện, cho việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, sử dụng đất có hiệu quả cao và bảo vệ môi trường. - Phân loại theo đặc điểm và nhiệm vụ của địa chính 4 + Địa chính ban đầu: ở một thời kỳ, trong một khu vực, một địa hạt tiến hành điều tra một cách toàn diện toàn bộ đất đai, thành lập bản đồ địa chính, lập hồ sơ địa chính. Đây không phải là hồ sơ địa chính đầu tiên trong lịch sử của khu vực, nhưng nó bắt đầu cho một thời kỳ mới. + Địa chính thường xuyên hay địa chính biến động: Là sự theo dõi, quản lý các biến động về tình trạng số lượng, chất lượng, phân bố không gian, quyền sở hữu, quyền sử dụng đất. Địa chính biến động dựa trên cơ sở địa chính ban đầu để bổ xung và cập nhật thông tin. - Phân loại địa chính theo các cấp quản lý + Địa chính quốc gia: dùng để chỉối tượng địa chính thuộc sở hữu nhà nước, phục vụ quản lý thống nhất trong phạm vi toàn quốc. + Địa chính địa phương: đối tượng địa chính thuộc sở hữu quốc gia, sở hữu tập thể hoặc cá nhân trong phạm vi địa phương. - Phân loại địa chính theo độ chính xác + Địa chính đồ giải: Là địa chính thiết lập trên cơ sở đo vẽ đồ giải, sử dụng bàn đạc mà sản phẩm đầu tiên là bình đồ địa chính tỷ lệ lớn. Có thể sử dụng phương pháp đồ giải để đọc toạ độ, khoảng cách, góc, diện tích, nhưng nó chỉ đạt độ chính xác hạn chế. + Địa chính số: ở thực địa trực tiếp đo được toạ độ của các điểm bằng các máy toàn đạc điện tử, hoặc đo các yếu tố khác như góc, cạnh rồi tính ra toạ độ, diện tích để lưu trữ, sử dụng. Độ chính xác của kết quả tốt hơn phương pháp đồ giải. 2. Đối tượng quản lý của địa chính Đối tượng quản lý của địa chính là đất đai và các vật kiến trúc kèm theo. * Đất đai Theo FAO (Tổ chức Nông Lương thế giới), đất đai là một phần diện tích cụ thể của bề mặt trái đất bao gồm cả các yếu tố cấu thành môi trường sinh thái ngay bên trên và dưới bề mặt đất như khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, các lớp trầm tích, động thực vật,... và những biến đổi các đất do hoạt động của con người trong quá khứ và hiện tại để lại. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 17 ghi rõ: " Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, vốn tài sản do nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, an ninh, quốc phòng cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân." 5 Trong Luật đất đai của Việt Nam năm 1993 đã nêu rõ: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của đất nước, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng; có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đất đai có các đặc tính cơ bản và vai trò như sau: - Đất đai là tài nguyên quý giá với diện tích có hạn. Trên toàn thế giới, phần lớn diện tích bề mặt địa cầu được bao phủ bởi đại dương, tổng diện tích nhô lên khỏi mặt nước là 13.250 triệu ha và 1.527 triệu ha bị bao phủ bởi băng. Trong diện tích đó có 12% là đất cạnh tác, 24% là đất đồng cỏ, 32% là đất rừng, 32% là đất cư trú và đầm lầy. Việt Nam có tổng diện tích cả đất liền và đảo lớn là 331.042,18 mm. Lãnh hải lớn hơn diện tích đất liền nhiều lần, có khoảng 3000 hòn đảo, trong đó có 2.773 đảo ven bờ. Địa hình phân hoá mạnh, núi và cao nguyên chiếm 3/4 diện tích đất liền. Các đồng bằng rộng tại hai cửa sông lớn đổ ra biển Đông là châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Cửu Long và các đồng bằng nhỏ hẹp tại ven biển miền Trung. Việt Nam là nước có quy mô diện tích đất trung bình, xếp thứ 59 trong tổng số 200 nước. Dân số Việt Nam năm 2006 là 84.155.000 người, đông thứ 13 thế giới. Bình quân đất đai tính theo đầu người là 0.4ha, tức là xấp xỉ 1/6 mức bình quân của thế giới, đứng thứ 9 trong 10 nước Đông Nam Á và đứng thứ 135 trong tổng số 200 nước trên thế giới. Tài nguyên đất là nguồn tài nguyên quý giá có giới hạn về số lượng, được phân bố cố định trong không gian, không thể di chuyển theo ý chí chủ quan của con người. Mà các khu vực khác nhau đất đai có tính chất khác nhau, do vậy cùng với các tài nguyên trong lòng đất và vị trí của đất nó sẽ quyết định giá trị của các vùng đất, các mảnh đất cụ thể. - Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt Đất là điều kiện chung nhất của lao động, là đối tượng của lao động. Khi tham gia vào quá trình lao động, kết hợp với lao động sống và lao động quá khứ thì đất đai trở thành tư liệu sản xuất. Đất là điều kiện tự nhiên, là nền tảng tự nhiên của bất kỳ ngành sản xuất nào. Không có đất thì không thể có sự tồn tại của con người và không có sản xuất. Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mọi ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải,.... - Đất đai có ý nghĩa chính trị và pháp lý đặc biệt 6 Đất đai là bộ phận cơ bản tạo thành lãnh thổ quốc gia. Mỗi quốc gia đều quản lý một vùng đất, lãnh thổ nhất định. Nhà nước là đại diện chủ quyền quốc gia phải thực hiện các biện pháp quản lý, bảo vệ đất đai, chống lại mọi sự xâm hại từ bên ngoài. Bảo vệ đất đai, bảo vệ lãnh thổ luôn đồng nghĩa với bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của quốc gia. - Đất đai có vai trò đặc biệt trong phát triển kinh tế xã hội Trong sự phát triển kinh tế xã hội đất đai có những vai trò cụ thể như: + Đất đai có vai trò quyết điịnh đối với năng xuất và sản lượng của sản xuất nông nghiệp. + Đất đai có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp. + Đất đai có vai trò quan trọng trong thị trường bất động sản Như vậy, đất đai có vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội. * Bất động sản Theo điều 174 bộ Luật dân sự nước Việt Nam, bất động sản không di dời được bao gồm: - Đất đai; - Nhà ở và các công trình gắn liền với đất đai, kể cả những tài sản gắn liền với nhà ở và các công trình xây dựng đó; - Các tài sản khác gắn với đất đai; - Các tài sản do nhà nước quy định. Điều kiện để một tài sản được coi là một bất động sản: - Là vật chất có ích cho con người; con người sử dụng trực tiếp nó hoặc dùng nó tạo ra tài sản khác thỏa mãn nhu cầu của mình; - Được chiếm giữ bởi cá nhân, cộng đồng phải có chủ sở hữu xác định; - Có thể đo lường được bằng một đơn vị giá trị xác định; - Không thể di dời (di dời không đáng kể, gắn liền với đất đai và các tài sản khác trên đất, tồn tại lâu dài). Ba điều kiện đầu là những tiêu chí của một tài sản nói chung, điều kiện cuối cùng là tiêu chí đặc trưng cho bất động sản. Theo mục đích sử dụng có thể phân loại bất động sản như sau: - Nhà ở: công trình xây dựng dùng với mục đích để ở lâu dài và ổn định của cá nhân, hộ gia đình; - Công trình công nghiệp: các công trình phục vụ cho ngành công nghiệp như nhà xưởng, kho tàng, văn phòng làm việc, các hệ thống khai thác tài nguyên 7 khoảng sản như dà khoan, những công trình sử dụng với mục đích sản xuất và lưu trữ, thường đặt tại nơi hoặc gần nguồn nguyên liệu. - Công trình giao thông: đường sắt, đường bộ, nhà ga, bến xe, sân bay,.. - Bất động sản thương mại: văn phòng giao dịch, trung tâm thương mại, cửa hàng, khách sạn, chợ, siêu thị,...Những bất động sản này thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn và tập trung ở khu vực trung tâm. - Bất động sản nông nghiệp: Đó là các công trình, địa điểm phục vụ cho ngành trồng trọt và chăn nuôi như: đồn điền, nông trại, vườn cây ăn quả, trại chăn nuôi, khu trồng trọt, rừng khai thác,.. - Bất động sản phục vụ cho mục đích tuyên truyền, giải trí công cộng: các trung tâm giải trí, công viên, vườn hoa, trường học, nghĩa trang,... - Bất động sản sử dụng cho mục đích an ninh quốc phòng: các trụ sở công an, doanh trại bộ đội,... Bất động sản có vai trò quan trọng đối với kinh tế xã hội của quốc gia: - Bất động sản là tài sản có giá trị lớn của cá nhân và tài sản quốc gia quan trọng. Giá trị bất động sản chiếm 60% tài sản quốc gia. - Giao dịch bất động sản chiếm 20 - 30% GDP - Phần cơ bản của bất động sản là đất đai, đó là một nguồn lực đầu vào không thể thiếu của mọi lĩnh vực, nó có tiềm năng vô hạn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. - Bất động sản gắn chặt với lợi ích trực tiếp của cộng đồng, tập thể, cá nhân và đó là hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, là các công trình phục vụ đời sống của con người. - Bất động sản còn thể hiện bộ mặt, trình độ phát triển của một quốc gia: một quốc gia phát triển luôn có kiến trúc tổng thể hợp lý, khoa học; cơ sở hạ tầng đồng bộ, tiên tiến; kiến trúc nhà ở hiện đại, tính thẩm mỹ cao và ngược lại. Đất đai, tài sản gắn liền với đất đai và quan hệ của con người đối với đất đai là đối tượng nghiên cứu, quản lý của địa chính. 3. Nguồn gốc phát sinh và lịch sử phát triển của địa chính Lịch sử của địa chính trên thực tế trùng hợp với lịch sử và kinh tế của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Sự phát sinh và phát triển của địa chính theo tiến trình lịch sử như sau: - Ngay từ thuở sơ khai của xã hội loài người, khi con người chỉ biết săn bắn, hái lượm để sinh sống thì đất đai chỉ là những yếu tố tự nhiên như cây cỏ, động vật, nước,... 8 - Khi loài người biết sử dụng đất để cấy trồng, chăn nuôi tạo ra của cải vật chất thì đã nảy sinh vấn đề chiếm hữu, phân phối và quản lý đất đai. - Khi đất đai trở thành một trong những căn bản chủ yếu tạo nên của cải vật chất và sự giàu có của mỗi cá nhân thì vấn đề chiếm hữu, sử hữu đất đai đã giữ một vai trò cốt lõi. Vì vậy mà người lãnh đạo cộng đồng đã sớm nghĩ ra cách thu lại một phần từ loại của cải dễ đạt được này. Đó chính là điểm khởi đầu của thuế đất. Để đảm bảo phân bổ đúng đắn phần thu này rõ ràng cần biết diện tích và giá trị đất, tức là phải mô tả và đánh giá đất. - Việc sở hữu ruộng đất tất yếu còn kéo theo vấn đề chuyển nhượng, thừa kế, và phân chia đất. Khi đó việc mô tả các khoảnh đất sở hữu của mỗi cá nhân cũng như sự hiểu biết chắc chắn diện tích và đường biên của chúng giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Mặt khác, ngoài lý do thuế khoá nói trên, các nhà cầm quyền bao giờ cũng muốn biết chính xác khoảng trời đất thuộc quyền cai trị hoặc quản lý của mình, vì vậy tự thấy cần phải đo đạc địa chính. Những điều giải thích về mối quan hệ chặt chẽ giữa lịch sử, địa lý và các hệ thống địa chính. Chúng ta biết khá rõ lịch sử phát triển của địa chính thông qua các tư liệu khảo cổ học. Người ta tìm thấy những di tích khoanh vùng chiếm hữu đất làm nông nghiệp ngay từ cuối thời kỳ đồ đá mới. Phương tiện để phân chia đất tương đối cố định đó là các hàng rào, bờ tường hoặc các hào đào. Địa chính đã thực sự được nhiều dân tộc sử dụng từ thời cổ đại. Tại Telloh trong miền sa mạc Arabi người ta tìm thấy một tấm ván ghi chép của người Cande vẽ bình đồ và mô tả diện tích thành phố Dunghi khoảng bốn ngàn năm trước công nguyên. Ở Ai cập đã từng có loại thuế đất nộp bằng sản phẩm được tính theo diện tích đất và sản phẩm thu được của từng trang trại. Bảng kê này xuất hiện từ khoảng 3200 đến 2800 năm trước công nguyên. Nó còn được dùng làm cơ sở tính toán tái lập các sản nghiệp và công bố quyền sở hữu đất đai của trang trại sau mỗi lần lũ lụt ở sông Nil. Thời kỳ sau đó, người Arập, người Hilạp rồi người Romains đã thực hiện việc phân chia, chiếm hữu đất đai, đặc biệt là các vùng đất chinh phục được ở vùng Trung Đông, Bắc Phi. Đất đai được chia lô, đo đạc chính xác và đánh dấu rõ ràng trên thực địa. Quyền sở hữu đất được xác định với các lô đất và tiến hành phân chia của cải và các di sản thừa kế giữa các bộ lạc và các gia đình. Nền địa chính với các đường nét hình học nghiêm ngặt và chính xác là công cụ tuyệt vời giúp quy hoạch lãnh thổ. Nó được vận dụng như một công cụ đa năng: Phân chia đất đai thành loại, hạng; xác định khoanh lô, giới hạn khu 9 vực sở hữu; thực hiện việc kiểm kê nguồn lực kinh tế xâm chiếm được, do đó kiểm tra được cả dân cư sinh sống ở đó. Nó còn là khung lý tưởng để thu thuế. Các phương pháp đo đạc đất đai ra đời, các loại sổ sách quản lý đất được xây dựng để lưu trữ các thông tin như diện tích, loại đất, chất lượng đất cùng với tên của điền chủ hoặc người dân định cư trên đó. Như vậy, các nghiệp vụ địa chính đã ra đời với sự phát triển của xã hội loài người, sự phát triển của sản xuất và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Đối với mỗi quốc gia, khoa học địa chính đã ra đời và phát triển ở các thời điểm với các hình thức khác nhau, song nó là một công cụ rất quan trọng và cần thiết phục vụ quản lý nhà nước và ổn định xã hội. 10 Ch-¬ng 1 CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG ĐỊA CHÍNH VIỆT NAM 1.1. CHỨC NĂNG CỦA ĐỊA CHÍNH 1.1.1. Vai trò của địa chính trong quản lý đất đai Nguồn lực đất đai là vô cùng quan trọng, tuy nhiên đất đai là loại tài nguyên thiên nhiên có hạn về số lượng. Sử dụng đất đai khoa học, tiết kiệm và hiệu quả có ý nghĩa quyết định đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội, ổn định chính trị của đất đai. Địa chính có vai trò quan trọng trong quản lý đất đai, đảm bảo cho đất đai được sử dụng đúng mục đích và đạt hiệu quả. Muốn thực hiện được vai trò của mình trong quản lý đất đai, ngành địa chính cần thực hiện tốt các chức năng cơ bản sau: Chức năng kỹ thuật, chức năng tư liệu, chức năng pháp lý, chức năng kinh tế, chức năng quy hoạch đất đai. Trước hết địa chính tiến hành công tác đo vẽ và điều tra nhằm xác định các thông tin cơ bản về vị trí, kích thước thửa đất và các vật kiến trúc trên đó, đồng thời tiến hành điều tra quyền sở hữu, quyền sử dụng, phân loại sử dụng, phân hạng đất nhằm thu thập những thông tin về đất đai kịp thời phục vụ quản lý đất, quản lý nhà, thu thuế, quy hoạch thành phố, làng mạc, khai thác tài nguyên đất một cách có hiệu quả, phục vụ phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Sản phẩm chủ yếu của đo đạc địa chính là các bản đồ địa chính và các văn bản mang tính kỹ thuật và pháp lý cao, tạo tư liệu đồng bộ gồm bản đồ, sổ sách, giấy chứng nhận,... Địa chính là nguồn cung cấp tư liệu phong phú về nhà, đất, kinh tế đất, thuế. Đó là các tư liệu bản đồ, sơ đồ, và các văn bản, chúng phục vụ cho các yêu cầu của cơ quan nhà nước và nhân dân. Chức năng tư liệu của địa chính thể hiện thông qua ba quá trình: xây dựng tư liệu ban đầu; cập nhật tư liệu khi có biến động về đất đai; cung cấp tư liệu cho người sử dụng. Địa chính có chức năng pháp lý, đây là chức năng cơ bản của địa chính. Sau khi có đủ tư liệu xác định hiện trạng và nguồn gốc các quyền đối với đất đai, thông qua việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì tư liệu địa chính có hiệu lực pháp lý, nó trở thành cơ sở pháp lý về quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đai và bất động sản. Chức năng kinh tế là nhiệm vụ nguyên thuỷ và cơ bản của địa chính. Trước hết là việc nhận dạng vị trí, ranh giới, sau đó là xác định nội dung, đánh 11 giá, phân hạng, định giá đất, xác định mức thuế, tính toán các khoản thu vào ngân sách nhà nước. Các loại bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ đơn vị đất đai, và các số liệu thống kê về đất đai là tài liệu quan trọng phục vụ công tác lập quy hoạch. Bản đồ quy hoạch được lập ra để thể hiện lên bản vẽ kết quả quy hoạch sử dụng đất trong giai đoạn quy hoạch, nó là cơ sở để triển khai quy hoạch ra thực địa và thực hiện kiểm tra quy hoạch theo thời gian. Chỉ có ngành địa chính mới có điều kiện lập các loại bản đồ này. 1.1.2. Các chức năng của địa chính Như chúng ta đã biết địa chính có các chức năng: Chức năng kỹ thuật, chức năng tư liệu, chức năng pháp lý, chức năng kinh tế, chức năng quy hoạch đất đai. Các chức năng được tách ra để dễ phân tích. Tuy nhiên trong thực tế, các chức năng luôn phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Các chức này lại được một cơ quan quản lý nhà nước thực hiện, đó là ngành địa chính. Sau đây ta sẽ tìm hiểu từng chức năng của ngành địa chính. 1. Chức năng kỹ thuật của địa chính Để thực hiện chức năng tư liệu, pháp lý, kinh tế, quy hoạch, ngành địa chính có một công cụ rất căn bản, đó là bản đồ địa chính, một chỗ dựa trực tiếp không thể thiếu cho mọi hoạt động nhận dạng và mô tả đặc điểm tự nhiên của đất đai. Việc thành lập và cập nhật bản đồ địa chính là nội dung cơ bản trong chức năng kỹ thuật của địa chính. Mặt khác, việc hiện đại hoá công nghệ thành lập bản đồ địa chính vừa là đối tượng nghiên cứu vừa là mục tiêu phát triển của khoa học trắc địa địa chính. Trước đây khi chưa có quy định chung về công tác thành lập bản đồ điạ chính nên chưa có sự thống nhất giữa các tỉnh. Để thống nhất quy trình và các yêu cầu kỹ thuật thành lập bản đồ địa chính trên phạm vi cả nước đến tháng 12 năm 1999, Tổng cục Địa chính đã ban hành " Quy phạm thành lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1: 500, 1: 1000, 1: 2000, 1: 5000, 1: 10000 và 1: 25000." Quy phạm này quy định sử dụng hệ quy chiếu và hệ toạ độ nhà nước để thành lập bản đồ địa chính. Bản đồ địa chính được biên tập ở dạng bản đồ truyền thống hoặc bản đồ số. Có thể dùng phương pháp đo trực tiếp ngoài thực địa, phương pháp đo ảnh hàng không hoặc phương pháp biên vẽ để lập bản đồ gốc địa chính. Sau đó biên tập bản đồ địa chính cho đơn vị hành chính cơ sở cấp xã, phường. Đến năm 2001 tất cả bản đồ địa chính phải sử dụng hệ toạ độ VN-2000. Ngoài chuẩn về hệ quy chiếu, căn cứ vào nội dung bản đồ địa chính, quy phạm đã quy 12 định các chuẩn về mô hình dữ liệu, phân lớp đối tượng, chuẩn khuôn dạng dữ liệu đồ hoạ và chuẩn biên tập bản đồ số địa chính. 2. Chức năng tư liệu của địa chính Địa chính có những tư liệu đặc biệt quan trọng, đó là nguồn thông tin hết sức phong phú về nhà đất, thuế, kinh tế và quy hoạch. Tư liệu địa chính bao gồm bản đồ và các hồ sơ địa chính được thiết lập trong quá trình thành lập bản đồ địa chính, đăng ký ban đầu và đăng ký biến động đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các tư liệu này luôn được cập nhật và kịp thời phục vụ cho các đối tượng là các cơ quan nhà nước các cấp, các tập thể và cá nhân. Nội dung chức năng tư liệu của địa chính bao gồm việc xây dựng, quản lý, cập nhật và cung cấp thông tin cho người sử dụng. Để thực hiện chức năng tư liệu, ngành địa chính cần có bộ hồ sơ địa chính đầy đủ. Bộ hồ sơ địa chính được lưu trữ ở các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai các cấp gồm hai nhóm chủ yếu, đó là hồ sơ sử dụng thường xuyên và hồ sơ gốc để tra cứu. Việc lập các hồ sơ địa chính phải đảm bảo các yêu cầu như: đầy đủ về số lượng, đủ các nội dung cần thiết, các thông tin phải chính xác và thống nhất trong mọi tài liệu, phải trình bày sạch sẽ, không tẩy xoá. Các bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê, biểu thống kê diện tích đất đai phải được Sở tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh nghiệm thu, xác nhận trước khi đưa vào sử dụng , quản lý. Thông tin đất đai được cung cấp cho hai đối tượng chính là người sử dụng đất đai (gồm các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức) và các cơ quan nhà nước mà hoạt động của nó liên quan đến đất đai. Mỗi đối tượng sẽ được cung cấp thông tin theo các trình tự thủ tục khác nhau. Đối với người sử dụng đất, sau khi có đơn gửi cơ quan quản lý đất đai sẽ được xem thông tin và cung cấp thông tin phục vụ thực hiện quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất sẽ được cấp các bản trích lực thửa đất, bản sao hồ sơ phục vụ làm hợp đồng chuyển đổi, hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ thừa kế, hợp đồng thế chấp và hợp đồng góp vốn, cho thuê quyền sử dụng đất. Số liệu địa chính còn được cung cấp cho các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, các công sở, các tổ chức công ích, cho các cơ quan có thẩm quyền về quy hoạch đất đai và quy hoạch đô thị. 3. Chức năng pháp lý của địa chính 13 Chức năng thứ ba của địa chính là chức năng pháp lý. Nội dung căn bản của chức năng này là xác lập quyền pháp lý của thửa đất và của chủ sử dụng đất hoặc chủ sở hữu. Với chức năng này các hoạt động của địa chính diễn ra có hai tính chất, thứ nhất là hoạt động mang tính nhận dạng và xác định mặt vật lý của đất đai, tài sản; thứ hai là tính đối nhân, liên quan đến việc nhận biết các chủ sở hữu, các chủ sử dụng và quyền lợi của họ. Ngành địa chính phải thực hiện hai loại công việc cụ thể sau: - Thành lập bản đồ địa chính để định vị và mô tả quan hệ của thửa đất với các đối tượng liên quan ở xung quanh nó, mã hoá các thông tin để nhận dạng thửa đất một cách duy nhất. Trước lúc đo vẽ bản đồ phải tổ chức xác định ranh giới pháp lý của thửa đất, lập biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất. - Tập hợp hồ sơ đăng ký đất, thẩm định các văn bản, chứng cứ về quyển sở hữu hoặc quyền sử dụng đất để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, công nhận chủ quyền pháp lý của các chủ sở hữu đất. Tính chất hợp pháp về quyền sử dụng đất đai của Việt Nam được quy định trong Hiến pháp, Luật đất đai và các Nghị định, các Quyết định của Chính phủ, các thông tư của Tổng cục Quản lý ruộng đât, Tổng cục Địa chính trước đây và của Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện nay. Các tư liệu địa chính chính là những tài liệu pháp lý cao nhất khi xảy ra tranh chấp đất đai. Từ đó thấy trách nhiệm pháp lý của những người làm công tác địa chính đòi hỏi rất cao và phải tinh thông nghiệp vụ mới có thể hoàn thành tốt chức trách của mình. 4. Chức năng kinh tế của địa chính Địa chính là cơ quan có vai trò quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ về tài chính đất đai, đây là nhiệm vụ có phạm vi rộng hơn nhiệm vụ cổ điển về thuế. Luật đất đai năm 2003 quy định Nhà nước có chính sách phát huy nguồn vốn đất đai, đảm bảo các nguồn thu tài chính từ đất đai cho ngân sách nhà nước và điều tiết hợp lý vào ngân sách nhà nước phần giá trị tăng thêm không phải đầu tư của người sử dụng đất mang lại. Nhà nước áp dụng biện pháp hành chính kết hợp biện pháp kinh tế trong quản lý đất đai nhằm khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, phát triển thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất. Nguồn thu ngân sách từ đất đai bao gồm: - Tiền thuê đất; - Thuế sử dụng đất; - Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; 14 - Tiền sử dụng đất trong các trường hợp giao đất có thu tiền hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất có thu tiền, chuyển từ hình thức thuê đất sang giao đất có thu tiền sử dụng đất. - Tiền thu từ việc xử lý vi phạm về đất đai; - Tiền bồi thường cho nhà nước khi gây thiệt hại trong quá trình quản lý đất đai; - Thuế và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai. Việc thiết lập cơ sở cho việc xác định các nguồn thu tài chính từ đất đai trước hết bao gồm việc đăng ký thống kê đất, xác định người có nghĩa vụ đóng góp tài chính và cuối cùng là đánh giá, định giá, xác định mức đóng góp hoặc thuế suất để tính thuế. 5. Chức năng quy hoạch của địa chính Quy hoạch lãnh thổ hay quy hoạch vùng là một công việc quan trọng góp phần tổ chức không gian lãnh thổ một cách hợp lý các đối tượng quy hoạch, góp phần thay đổi mối quan hệ sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội toàn lãnh thổ hay từng vùng phải xây dựng quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ, khoanh định đất đai theo mục đích sử dụng đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Quy hoạch sử dụng đất là một công cụ quan trọng để Nhà nước - đại diện chủ sở hữu - thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai và thống nhất quản lý đất đai. Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất dài hạn sẽ xây dựng kế hoạch sử dụng đất ngắn hạn để từng bước triển khai quy hoạch vào thực tiễn theo từng giai đoạn để việc sử dụng đất có hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất là căn cứ để giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với đất đang sử dụng và cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Ngành địa chính có vai trò hàng đầu so với các ngành khác trong việc xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất, triển khai quy hoạch và kiểm tra quá trình thực hiện quy hoạch. Địa chính là nơi cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và được cập nhật phù hợp nhất với hiện trạng sử dụng đất. Không những chỉ có vai trò cung cấp thông tin quy hoạch tổng thể, địa chính còn đóng vai trò của người trực tiếp lập quy hoạch sử dụng đất ở các cấp hành chính. Các loại bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ đơn vị đất đai và các số liệu thống kế về đất đai là tài liệu cực kỳ quan trọng phục vụ công tác lập quy hoạch. Bản đồ quy hoạch được lập ra thể hiện lên bản vẽ kết quả quy hoạch sử dụng đất trong giai đoạn quy hoạch, nó là cơ sở để triển khai 15 quy hoạch ra thực địa. chỉ có ngành địa chính mới có điều kiện lập các loại bản đồ này. 1.2. NHIỆM VỤ CỦA HỆ THỐNG ĐỊA CHÍNH VIỆT NAM Nội dung của công tác địa chính thể hiện trên 5 lĩnh vực, đó là: - Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai; - Điều tra đất đai, đo đạc, lập bản đồ địa chính, các loại bản đồ chuyên đề về đất đai để nắm chắc tình hình quản lý và sử dụng đất; - Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đáp ứng quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; - Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống tài chính đất đai; - Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống hành chính quản lý đất đai. Theo luật đất đai năm 2003, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai với các nội dung cơ bản như sau: 1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó; 2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa chính, lập bản đồ hành chính; 3. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; 4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; 5. Quản lý giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất; 6. Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 7. Thống kê, kiểm kê đất đai; 8. Quản lý tài chính về đất đai; 9. Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản; 10. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; 11. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; 12. Giải quyết trang chấp về đất đai; giải quyết các khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất đai; 13. Quản lý các dịch vụ công về đất đai. 1.3. HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI 16 Hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước của Việt Nam gồm có: cấp Nhà nước trung ương và ba cấp hành chính địa phương tỉnh, huyện và xã. Thông qua các cơ quan chức năng lập pháp, hành pháp của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương và hệ thống chuyên môn giúp việc để Nhà nước thực hiện đầy đủ quyền sở hữu và chức năng quản lý đất đai của Việt Nam. Tổ chức hệ thống quản lý Nhà nước về đất đai được thể hiện tóm tắt trên sơ đồ hình 1.1 Quốc hội Chính phủ Cơ quan quyền lực Cơ quan hành chính HĐND tỉnh, thành phố UBND tỉnh, thành phố HĐND huyện, quận UBND huyện, quận HĐND xã, phường UBND xã, phường Toà án, viện kiểm soát Cơ quan chuyên môn Bộ tài nguyên và Môi trường Sở tài nguyên và Môi trường Phòng tài nguyên và Môi trường Cán bộ địa chính xã, phường Hình 1.1. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai 1.3.1. Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước 17 Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tham gia hoạt động quản lý nhà nước về đất đai với tư cách là người có toàn quyền quyết định và giám sát việc quản lý và sử dụng đất, các tổ chức và mọi cá nhân. Các cơ quan quyền lực nhà nước đại diện cho chủ sở hữu đất đai trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Hoạt động của các cơ quan này nhằm đảm bảo cho lợi ích của chủ sở hữu không bị vi phạm. Luật đất đai 2003 quy định quyền hạn của cơ quan quyền lực như sau: - Quốc hội ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước do Chính phủ trình; thực hiện giám sát đối với việc quản lý và sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước. Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua và ban hành các pháp lệnh, các nghị quyết liên quan đến đất đai. - Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai tại địa phương. 1.3.2. Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước 1. Chức năng và nhiệm vụ của Chính phủ Chính phủ quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với mục đích quốc phòng, an ninh; thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi cả nước và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Chính phủ ban hành các nghị định, nghị quyết hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh của Quốc hội liên quan đến đất đai. Chính phủ có các nhiệm vụ cụ thể như sau: - Chính phủ chỉ đạo việc xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính các cấp trong phạm vi cả nước; - Chính phủ tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước; - Chính phủ xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Chính phủ tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước; kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất; khung giá các loại đất cho từng vùng, theo từng thời gian; trường hơp phải điều chỉnh giá đất và 18 việc xử lý chênh lệch giá đất liền kề giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp báo cáo Chính phủ kết quả thống kê đất đai hàng năm, kết quả kiểm kê đất đai năm năm của cả nước. 2. Chức năng nhiệm vụ quản lý đất đai của Uỷ ban nhân dân các cấp Uỷ ban nhân dân các cấp là hệ thống cơ quan có thẩm quyền thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý nhà nước về đất đai trong địa phương theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp. Uỷ ban nhân dân các cấp có nhiệm vụ thi hành luật đất đai cụ thể như sau: - Tổ chức việc thực hiện xác định địa giới hành chính trên thực địa, lập hồ sơ địa giới hành chính trong phạm vi địa phương; - Tổ chức thực hiện việc khảo sát, đo đạc, lập và quản lý bản đồ địa chính ở địa phương; - Thực hiện việc thống kê, kiểm kê đất và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất ; - Lập quy hoạch sử dụng đất theo đúng quy định; - Duyệt quy hoạch sử dụng đất; - Thực hiện quy hoạch sử dụng đất; - Giao đất, thu hồi đất; - Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; - Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng giá đất cụ thể tại địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến trước khi quyết định và công bố công khai vào ngày 1 tháng 1 hàng năm. - Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm đầu tư và chỉ đạo việc lập chỉnh lý hồ sơ địa chính. 1.3.3. Hệ thống cơ quan quản lý đất đai Luật đất đai quy định những vấn đề cơ bản sau: Hệ thống cơ quan quản lý đất đai được thành lập thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Cơ quan cấp Bộ trực thuộc Chính phủ. Cơ quan quản lý đất đai ở các địa phương được thành lập ở tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương. Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương có văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Xã, phường, thị trấn có cán bộ địa chính. Cơ quan quản lý đất đai cấp nào trực thuộc cơ quan hành chính cấp đó và có trách nhiệm giúp uỷ ban nhân dân cấp đó trong việc quản lý đất đai ở địa phương. 19 Trong giai đoạn trước năm 2002, hệ thống cơ quan quản lý chuyên môn quản lý đất đai gồm: Tổng cục Địa chính, các Sở địa chính, các Phòng địa chính cấp huyện và cán bộ địa chính cấp xã có trách nhiệm giúp Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện công tác chuyên môn quản lý đất đai. Hiện nay, đất đai được xác định như một nguồn tài nguyên quan trọng, việc quản lý tài nguyên này thuộc chức năng của Bộ tài nguyên và Môi trường, các Sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh, các Phòng Tài nguyên và Môi tường cấp huyện và các cán bộ địa chính xã, phường. 1. Bộ Tài nguyên và Môi trường Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng, thuỷ văn; đo đạc, bản đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ. Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 178/2007/ NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ. Cụ thể như sau: - Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của uỷ ban thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Bộ đã được phê duyệt và các dự án, đề án theo phân công của Chính phủ. - Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm; các chương trình, dự án quốc gia thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; các dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. - Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư; xây dựng, công bố theo thẩm quyền các tiêu chuẩn cơ sở hoặc trình Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ công bố các tiêu chuẩn quốc gia; xây dựng, ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gai trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ sau khi được Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định. - Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Nhiệm vụ quyền hạn về đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan