Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục hành vi ứng xử có văn hoá cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn thành phố Hả...

Tài liệu Giáo dục hành vi ứng xử có văn hoá cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng

.PDF
106
509
81

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI HOÀNG THỊ PHƯƠNG THANH GIÁO DỤC HÀNH VI ỨNG XỬ CÓ VĂN HÓA CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ QUẬN ĐỒ SƠN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI, 2017 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI HOÀNG THỊ PHƯƠNG THANH GIÁO DỤC HÀNH VI ỨNG XỬ CÓ VĂN HÓA CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ QUẬN ĐỒ SƠN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Giáo dục và Phát triển cộng đồng Mã ngành: Thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học TS. Vũ Thị Ngọc Tú HÀ NỘI, 2017 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng” dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Thị Ngọc Tú là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu có trích dẫn nguồn chính xác, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất cứ một nghiên cứu nào khác. Tác giả Hoàng Thị Phương Thanh 3 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến TS. Vũ Thị Ngọc Tú, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài luận văn tốt nghiệp này. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy, cô trong Khoa Tâm lý – Giáo dục học, trường ĐHSP Hà Nội, các đồng chỉ cùng công tác tại đơn vị…., gia đình, bè bạn đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình nghiên cứu. Mặc dù đã dành nhiều thời gian, công sức và cố gắng rất nhiều, nhưng do khả năng của bản thân còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận văn tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, kính mong các thầy, cô góp ý và chỉ bảo để em được tiến bộ và trưởng thành hơn về chuyên môn cũng như về công tác nghiên cứu khoa học. Hà Nội, ngày … tháng …. năm 2017 Tác giả luận văn Hoàng Thị Phương Thanh 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GD : Giáo dục NXB : Nhà xuất bản VH : Văn hóa 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người có hai dòng hoạt động quện chặt vào nhau: Hoạt động với đối tượng (Phản ánh quan hệ chủ thể - khách thể), hoạt động giao tiếp (Phản ánh quan hệ chủ thể - chủ thể). Hoạt động giao tiếp diễn ra thường nhật ở mỗi người, ở mọi không gian và thời gian. Hiệu quả của giao tiếp như thế nào còn tùy thuộc vào cung cách ứng xử, về nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Mọi ứng xử của con người đều có những nguyên tắc nhất định, mỗi cá nhân buộc phải tuân theo mới đạt được hiệu quả là điều khiển được nhận thức, thái độ và hành vi của người khác. Đối với mỗi cá nhân trong từng thời điểm, từng hoàn cảnh, cần có những hành vi ứng xử phù hợp. Không thể có cách ứng xử chung cho tất cả mọi người, ngay cả đối với bản thân ta tùy từng hoàn cảnh, tâm trạng, mục đich...khác nhau cũng có cách ứng xử khác nhau. Tuy nhiên, một nét chung nhất có thể dễ nhận thấy, giao tiếp ứng xử của con người - nhân tố trung tâm của xã hội loài người phải tuân theo những chuẩn mực đạo đức, văn hóa của xã hội [4]. Ứng xử là sự phản ánh của con người đối với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người không chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng - tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất. Ứng xử là một đề tài muôn thủa của phép “đối nhân xử thế” của người đời. Ở mọi thời đại, mọi quốc gia, trong nền văn hóa của mình đều nói đến phép ứng xử giữa người với người trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì bản chất của ứng 6 xử chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người xung quanh. Văn hóa (VH) là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Chỉ riêng VH ứng xử, về hình thức nó làm nên vẻ đẹp kiêu sa và về nội tâm nó làm nên vẻ đẹp phải cảm nhận mới thấy. Nhiều thập kỉ qua với lí do này hay lí do khác, bằng cách này cách khác nhiều thói quen tốt tập quán tốt đã bị lãng quên mà nay cần phải được “tái sinh”, bắt đầu từ “VH xếp hàng”, “VH gõ cửa”, “VH cảm ơn - xin lỗi” với người dân trong xã hội. Người có VH không nhất thiết phải là người có học vấn. Nền tảng của VH phổ cập mà người ta thường dẫn ra để xem xét là “phông VH”, chính là văn hóa ứng xử. Người xây dựng được cho mình một thói quen và tập quán tốt trong đời sống thường nhật mà ta gọi là nếp sống VH, luôn tự tin và biết tự trọng, không đành lòng làm việc xấu xa vô liêm sỉ, và sẽ bức rức, xấu hổ khôn nguôi khi nghĩ tới việc đã một lần mình làm việc xấu xa đó. Hành vi ứng xử của con người chịu sự chi phối của rất nhiều các yếu tố, trong đó, những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học chỉ ra rằng, nhu cầu được tham gia vào các mối quan hệ xã hội, mức độ gắn bó thân thuộc... ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi ứng xử của con người trong mối quan hệ với người khác. Hành vi ứng xử có VH là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công việc và môi trường hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên hành vi ứng xử có VH của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội. Hành vi ứng xử có VH được coi là các giá trị VH, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân được thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói của mỗi cá nhân đó. Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người xung quanh, trong học tập, công tác, với bạn bè cùng trang lứa và thậm chí ngay cả với chính bản thân họ. 7 Giáo dục (GD) hành vi ứng xử có VH là quá trình tổ chức, yêu cầu, khuyến khích người được giáo dục thực hiện những hành động, việc làm trong cuộc sống của mình phù hợp với các chuẩn mực hành vi giao tiếp, ứng xử do xã hội qui định. Đồ Sơn là một quận có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hải Phòng, trong đó nổi bật là hoạt động dịch vụ, du lịch ngày càng gia tăng. Bên cạnh những thành tựu đó, do ảnh hưởng của kinh tế thị trường mối quan hệ giữa con người với con người, nhất là hành vi ứng xử còn tồn tại nhiều nhược điểm những hiện tượng ứng xử vi phạm yêu cầu, chuẩn mực đạo đức xã hội ngày một gia tăng. Việc nghiên cứu bổ sung lí luận, đánh giá thực trạng và đề xuất một số biện pháp giáo dục hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết hiện nay. Đặc biệt, tại Việt Nam hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về vấn đề này trên địa bàn quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng. Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng” để tiến hành nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất các biện pháp giáo dục hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Giáo dục hành vi có văn hóa cho cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp giáo dục hành vi có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 4. Giả thuyết khoa học 8 Hành vi ứng xử của cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng còn nhiều hạn chế, điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của quá trình giao tiếp, hoạt động của địa phương - nơi có tiền năng dồi dào trong phát triển kinh tế, đặc biệt là du lịch. Nếu các ban, ngành, đoàn thể... nghiên cứu, xây dựng và áp dụng được những biện pháp mang tính khoa học và hợp lí thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1 Hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản về GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư. 5.2 Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 5.3 Đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 6. Giới hạn nghiên cứu 6.1. Về nội dung nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu về giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho những người làm trong lĩnh vực dịch vụ du lịch trong cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng, từ đó bước đầu đề xuất, khảo nghiệm tính cần thiết cũng như tính khả thi của các biện pháp đó. 6.2. Về địa bàn nghiên cứu Đề tài chỉ khảo sát thực trạng hoạt động giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 6.3. Về khách thể khảo sát - Tổng số khách thể: 500 người, trong đó: + Người dân: 200 người (100 người làm trong lĩnh vực dịch vụ du lịch và 100 người không làm trong lĩnh vực này). 9 + Cán bộ quản lý: 50 người 6.4. Về thời gian nghiên cứu Từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1.Các phương pháp nghiên cứu lý luận Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp sau: * Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận - Phân tích, tổng hợp thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu có trong các văn kiện, văn bản, tài liệu. - Hệ thống hóa các khái niệm để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. - Mô hình hóa lí thuyết 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp điều tra Đề tài xây dựng phiếu hỏi nhằm thu thập các thông tin, số liệu về thực trạng GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 7.2.2. Phương pháp phỏng vấn Đề tài thực hiện phỏng vấn nhằm thu thập thông tin về nhận thức, nguyện vọng của các giáo viên,cán bộ quản lí và học viên về thực trạng GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. Đồng thời bổ sung, kiểm tra và làm rõ những thông tin đã thu thập được thông qua điều tra bằng phiếu hỏi. 7.2.3. Phương pháp quan sát Quan sát các hình thức biểu hiện hoạt động GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 7.2.4. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia về các biện pháp đề xuất trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 10 7.2.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 7.2.6. Phương pháp khảo nghiệm 7.3. Nhóm các phương pháp xử lý số liệu - Sử dụng thống kê toán học để xử lý các số liệu nghiên cứu. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung nghiên cứu đề tài được cấu trúc theo ở 3 chương sau đây: Chương 1: Cơ sở lí luận về GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. Chương 2: Thực trạng GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. 11 Chương I CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC HÀNH VI ỨNG XỬ CÓ VĂN HÓA CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ 1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề Những năm gần đây, trong nhiều bài viết, giới nghiên cứu văn hoá có nói tới cụm từ đời sống, nếp sống văn hoá. Đây là cụm từ mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta vào những năm 80, 90 của thế kỷ XX. Tiền thân của cụm từ này là cụm từ đời sống mới, trong tác phẩm “Đời sống mới” của Hồ Chí Minh, dưới bút danh Tân Sinh được viết vào tháng 3/1947, Người viết: “Người là gốc của làng, nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đời sống mới, thì nhất định dân tộc sẽ phú cường”. Bối cảnh ra đời cụm từ này là dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh đổ thực dân Pháp và tầng lớp thống trị phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (mồng 2 tháng 9 năm 1945). Sau đó, chính quyền nhân dân non trẻ bắt tay vào sự nghiệp kiến quốc và kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn hoá lúc đó là diệt giặc dốt, cổ động toàn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc đói, cổ vũ tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đạo đức cách mạng và sửa đổi nề nếp sinh hoạt trong đời sống của mỗi người, mỗi nhà và mỗi cộng đồng làng bản, đơn vị công tác. Đây là công việc mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, chưa từng có trong các giai đoạn lịch sử trước đó nên được gọi là xây dựng đời sống mới. Đoạn văn mở đầu bài viết xác định mục đích, nội dung của đời sống mới gồm: Một là, thái độ ứng xử với cái cũ, cái mới trong đời sống của nhân dân một cách hợp tình, hợp lý: "Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết. Không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng nhiều phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì phải làm..." [ 22;6 - 7]. 12 Hai là, gắn văn hóa với lao động sản xuất: “Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn”[ 22;7 ]. Ba là, gắn văn hóa với xây dựng đời sống tinh thần, làm cho dân ta “tinh thần được vui mạnh hơn” [ 22;7 ]. Bốn là, xây dựng đạo đức mới: “Thực hành đạo đức cách mạng: Cần Kiệm - Liêm - Chính” [ 22;7 ]. Năm là, xây dựng nếp sống mới: “Việc trước tiên là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc” [22;8 ]. Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta còn thấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ "mới" thay cho từ "văn hoá" để cho dân dễ hiểu về xây dựng đời sống văn hoá. Có thể coi Đời sống mới là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng đời sống văn hóa ra đời sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Đảng và Nhà nước ta đặt vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng con người mới Việt Nam trong cả quá trình tiến hành cách mạng: Từ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ; Phải gắn chặt xây dựng nếp sống mới với xây dựng con người mới. Cho mãi tới những năm 80 của thế kỷ XX, trong chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá, Đảng, Nhà nước vẫn sử dụng từ "mới" được hiểu là kết tinh hàm lượng văn hoá, tri thức, cách tổ chức, giá trị mới trong xây dựng nếp sống, nền văn hoá và con người. Ngày 15/1/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 214/CT-TW về việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày hội. Văn kiện Đại hội IV (1976) của Đảng: "Ra sức xây dựng nền văn hoá mới, từng bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hóa cao’’.[2, 12 - 13]. Năm 1980, Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương được thành lập ở các cấp để chỉ đạo vận động xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hoá mới. Cụm từ đời sống văn hoá xuất hiện trong văn kiện của Đảng từ Đại hội IV, có đoạn viết: "Hết sức quan tâm tổ chức tốt đời sống văn hoá ở các vùng 13 kinh tế mới, các nông trường, lâm trường, công trường ở các vùng dân tộc, ở miền núi và hải đảo" [23;10]. Đến Đại hội V (1982), Đảng ta xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá, nhất là đời sống văn hoá ở cơ sở, coi đó là một chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng văn hoá và con người: "Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hóa" [23, 19 - 21]. Sau Đại hội V, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trở thành một phong trào phát triển sâu rộng trên địa bàn dân cư, đơn vị sản xuất, công tác, học tập tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn hoá trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó, khái niệm về đời sống văn hoá ngày một sáng tỏ. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, Đảng ta đã chỉ ra: “Hoàn cảnh nước ta đòi hỏi và cho phép xây dựng sớm, xây dựng từng bước con người mới, không phải chờ đến sau khi phát triển cao của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.[22;10]. “Xây dựng nền văn hóa mới và con người mới là điều cần và có thể thực hiện được từng bước, từng phần ngay từ hôm nay. Trong chặng đường trước mắt này, có những điều kiện khách quan và chủ quan cho phép chúng ta bước đầu tạo ra một xã hội đẹp về lối sống, về quan hệ giữa người và người, một xã hội trong đó nhân dân lao động cảm thấy sống hạnh phúc, tuy mức sống vật chất còn chưa cao”. “… đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình... xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, 14 lễ hội, đẩy lùi hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma tuý, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng”.[22;16 -19 ] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng định hướng chăm lo phát triển văn hóa: “Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phong phú, đa dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm ma túy cờ bạc… góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam…”.[31; 43-50]. Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 với định hướng “Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế,… phát huy những giá trị tốt đẹp của các dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại; Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, coi trọng văn hóa trong lãnh đạo quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống… Nâng cao chất lượng Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng xã, phường, khu phố, thôn, bản đoàn kết dân chủ kỷ cương, văn minh, lành mạnh.” [31, 52 - 56 ] Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) đã đề ra 10 nhiệm vụ cơ bản xây dựng nền văn hóa Việt Nam, xếp nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa ở vị trí thứ hai sau nhiệm vụ xây dựng con người. Nghị quyết đặt ra mục tiêu của việc xây dựng môi trường văn hóa là: "Tạo ra ở các đơn vị cơ sở 15 (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội...), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân". Đồng thời Nghị quyết trên cũng chỉ ra những vấn đề quan tâm cụ thể của xây dựng môi trường văn hóa là: "Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội [22; 19]. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh. Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các trung tâm đô thị và nông thôn, giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân. Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật".[ 22, 30 - 35]. Quan điểm của Đảng cũng chỉ rõ những nội dung cốt lõi trong xây dựng nếp sống mới đó là: - Xây dựng đời sống văn hoá ở các đơn vị cơ sở; - Xây dựng gia đình, cộng đồng dân cư văn hoá; - Xây dựng nếp sống văn minh; - Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá; - Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, phong trào văn hoá, văn nghệ. 16 Và quy định rõ nội dung về việc xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội nhằm phát huy giá trị văn hóa cổ truyền, đồng thời bài trừ những hủ tục trong các lĩnh vực này. Lịch sử nghiên cứu về văn hóa, xây dựng nếp sống văn hóa Việt Nam, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng con người mới, văn hóa mới, đắp ứng ngày càng cao nhu cầu hội nhập và phát triển của đất nước, qua đó thể hiện rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng nếp sống văn hóa cho người dân, trong công cộng xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hộ chủ nghĩa 1.2. Một số khái niệm cơ bản 1.2.1. Giáo dục Trong cuốn Giáo dục học (tập 1) của Trần Thị Tuyết Oanh (chủ biên) [25] cho rằng: Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho họ. Tác giả Nguyễn Lân trong từ điển tiếng Việt [20] xem: Giáo dục là một quá trình có ý thức có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền cho lớp mới những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về tư duy, để họ có thể có đầy đủ khả năng tham gia vào đời sống và đời sống xã hội. Trong cuốn giáo dục học đại cương 1 của tác giả Nguyễn Sinh Huy (chủ biên) [18] lại tiếp cận khái niệm Giáo dục (theo nghĩa rộng) ở phạm vi rộng hơn: Giáo dục là sự hình thành có mục đích và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mĩ cho con người; với nghĩa rộng nhất, khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những yếu tố khác tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng yêu cầu của kinh tế xã hội. Dù xét trên các góc độ, phạm vi khác nhau, chúng ta có thể nhận thấy: 17 Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội loài người. Như vậy: Giáo dục luôn là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, là quá trình tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. Thông qua quá trình tương tác giữa người giáo dục và người được giáo dục để hình thành nhân cách toàn vẹn (hình thành và phát triển các mặt đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, lao động) cho người được giáo dục. Theo nghĩa rộng này, giáo dục bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp (tất cả những yếu tố trên tạo nên nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng yêu cầu kinh tế xã hội). Giáo dục (theo nghĩa rộng) không bó hẹp ở phạm vi là người được giáo dục đang trong tuổi học (dưới 25 tuổi) và giáo dục không chỉ diễn ra trong nhà trường. Ngày nay, chúng ta hiểu giáo dục là cho tất cả mọi người, được thực hiện ở bất cứ không gian và thời gian nào thích hợp với từng loại đối tượng bằng các phương tiện khác nhau, kể cả các phương tiện truyền thông đại chúng (truyền hình, truyền thanh, video, trực tuyến qua inernet,…) với các hình thức đa dạng, phong phú. Ngoài ra quá trình giáo dục không ràng buộc về độ tuổi giữa người giáo dục với người được giáo dục. Giáo dục theo nghĩa hẹp Như phần khái niệm theo nghĩa rộng đã trình bày ở trên, Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là một bộ phận cấu thành nên quá trình giáo dục tổng thể (rộng): Là quá trình hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, nhân cách, những hành vi và thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh vực tư tưởng - chính trị, đạo đức, lao động và học tập, thẩm mĩ, vệ sinh,…. Như vậy, chúng ta nhận thấy quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp có chức năng vượt trội là hình thành nhân cách cho con người. Nó được thực hiện trên 18 cơ sở vừa tác động đến ý thức, vừa tác động đến hành vi; vừa lĩnh hội hệ thống tri thức và giá trị, vừa thể nghiệm những kinh nghiệm thực tiễn bản thân; vừa trau dồi học vấn, vừa tham gia hoạt động xã hội tập thể. Để thực hiện quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) cần phải tiến hành nhiều nội dung giáo dục như: Giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục lao động, giáo dục thể chất, giáo dục hiểu biết quốc tế (hoà bình, hữu nghị, khoan dung, môi trường, dân số,…) giáo dục an toàn giao thông, giáo dục giới tính,... Thông qua các hệ thống các phương pháp giáo dục khác nhau và thường được tiến hành thông qua sinh hoạt tập thể, các hoạt động xã hội, lao động công ích, các hoạt động dạy học, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp,… 1.2.2. Văn hóa Bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào cũng đều có một nền văn hóa riêng, nó ra đời và phát triển gắn liền quá trình hình thành và phát triển của dân tộc. Trong nghiên cứu về văn hóa nhiều học giả cho rằng văn hóa (hiểu theo nghĩa rộng) nói chung bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần. Theo nghĩa rộng nhất của nó, văn hóa bao gồm những sáng tạo về vật chất và tinh thần của con người trong quá trình cải tạo hiện thực khách quan. Những tri thức, các kết quả của hoạt động cải tạo xã hội và tự nhiên là thành phần của văn hóa. Văn hóa không tự hạn chế vào một số biểu hiện của đời sống tinh thần. Nó là toàn bộ cuộc sống; cả vật chất, tinh thần của từng cộng đồng người. Như vậy, có thể khẳng định rằng: tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa. Văn hóa tinh thần cũng được hiểu theo hai nghĩa cơ bản rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa được hiểu là toàn bộ những giá trị, những hoạt động tinh thần của con người. Taylor cho rằng “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”. Tiêu biểu cho cách hiểu này là A.K Vlêđốp: “Việc coi văn hóa tinh thần 19 chỉ là tổng hợp những giá trị tinh thần là phiến diện. Văn hóa tinh thần như là sự hoạt động sáng tạo tích cực của con người, như là sự sản xuất cất giữ và sử dụng những giá trị tinh thần”. Theo nghĩa hẹp, các tác giả cho rằng văn hóa tinh thần là những dấu ấn tinh thần, những giá trị tinh thần đặc thù của một quốc gia dân tộc nhằm phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tiêu biểu cho cách hiểu này là khái niệm văn hóa của UNESCO được thừa nhận rộng rãi: Văn hóa là “tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thị hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” [19] Văn hóa là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần do con người, loài người sáng tạo, tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn trong suốt quá trình lịch sử của mình. Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên và văn hóa là sản phẩm đặc sắc nhất của con người. Có thể nói văn hóa là sự hóa thân của đời sống, nó thấm vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nó xuyên suốt cơ thể xã hội, nó biểu hiện trình độ người, trình độ xã hội, văn minh quốc gia, văn minh nhân loại. 1.2.3. Cộng đồng và cộng đồng dân cư 1.2.3.1. Cộng đồng * Khái niệm Cộng đồng (community) được hiểu theo nghĩa chung nhất là: “một cơ thể sống/ cơ quan/ tổ chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái này với các khác” [Wikibedia, the free encyclopedia]. Trong khái niệm này, điều đáng chú ý, được nhấn mạnh: cộng đồng là “cơ thể sống”, có sự “tương tác” của các thành viên. Tuy nhiên, các nhà khoa học, trong khái niệm này không chỉ cụ thể “cái này” với “cái khác” là cái gì, con gì. Đó có thể là các loại thực vật, cũng có thể là các loại động vật, cũng có thể là con người – cộng đồng người. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan