Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục đạo đức học sinh ở trườngTrung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang -...

Tài liệu Giáo dục đạo đức học sinh ở trườngTrung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang - Thực trạng và giải pháp

.PDF
25
258
123

Mô tả:

Giáo dục đạo đức học sinh ở trườngTrung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang - Thực trạng và giải pháp
MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, khi xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế giới, mở ra cho nước ta những thời cơ, vận hội mới. Nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên. Công tác giáo dục đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chăm lo hơn. Trong nhà trường, các tổ chức đoàn thể cũng có nhận thức đúng về tầm quan trọng của đạo đức và công tác giáo dục đạo đức học sinh, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tựu của ngành Giáo dục và Đào tạo như: Số học sinh học giỏi, khá, học sinh có hạnh kiểm tốt, khá ngày càng nâng lên,… đã góp phần tạo nên những thành quả quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của Ngành: "Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân lực - Bồi dưỡng nhân tài" cho đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan như: Về phía gia đình thì có một số gia đình, do cha mẹ sống không gương mẫu, cha mẹ ly hôn nhau hay buông lỏng giáo dục, phó mặc con mình cho xã hội, cho nhà trường với quan niệm “trăm sự nhờ thầy”,… Còn về nhà trường, đôi lúc uy tín người thầy bị sa sút, các giá trị truyền thống "Tôn sư trọng đạo" bị nhìn nhận một cách méo mó, vật chất hóa, thực dụng; có trường hợp người thầy không giữ được tư cách đáng kính trọng trong quan hệ thầy trò; tình trạng vi phạm dạy thêm, học thêm đã tác động xấu đến uy tín của người thầy trong suy nghĩ học sinh và phụ huynh. Còn về xã hội, thì hiện nay những hạn chế, những tác động xấu từ môi trường của thời kỳ “mở cửa, hội nhập”, những tư tưởng văn hoá xấu, ngoại lai, đồi trụy; mặt trái của cơ chế thị trường, … có cơ hội xâm nhập. Đây đó, còn có những hiện tượng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, thậm chí những hành động phạm pháp của “người lớn” đã tác động xấu trực tiếp đến học sinh. Các tệ nạn xã hội có lúc, có nơi đã xâm nhập vào trong trường học; tình trạng một số ít học sinh lún sâu vào tệ nạn xã hội, thậm chí đánh thầy, gây án, giết người, cướp của, rượu chè bê tha, cờ bạc, có lối sống tha hóa, buông thả,… số này tuy không phổ biến nhưng có xu hướng gia tăng, làm băng hoại đạo đức, tha hoá nhân cách; gây nỗi đau, 1 đáng lo ngại cho các bậc cha, mẹ; đã tác động xấu tới các giá trị đạo đức truyền thống, ảnh hưởng không nhỏ trực tiếp đến công tác giáo dục đạo đức học sinh, đến an ninh trật tự xã hội. Trước tình hình chung đó, ở trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang cũng không ngoại lệ, vẫn còn một số ít học sinh vi phạm đạo đức như: thường trốn học, tổ chức uống rượu bia, nghiện game, đánh nhau, trộm cắp, có lối sống đua đòi, sống thử trước hôn nhân dẫn đến nạo phá thai, kết hôn sớm khi chưa đến tuổi vị thành niên,... Vì vậy, khi đứng trước thực trạng đó, bản thân tôi nhận thấy cần phải có những giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp cho các em có nhận thức và hành động đúng đắn hơn. Tôi nghĩ đây là vấn đề cấp thiết cần phải được giải quyết trong giai đoạn hiện nay ở trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang và đây cũng là lý do tôi chọn đề tài “Giáo dục đạo đức học sinh ở trườngTrung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang Thực trạng và giải pháp” để viết tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa lớp TCLLCTHC. 2 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH 1.1. Một số khái niệm chung 1.1.1. Đạo đức Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau: - Nghĩa hẹp: Theo Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng "Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội ". - Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình. - Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2002: “Đạo đức là những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”, “là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những chuẩn mực đạo đức mà có”. Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này. Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai 3 chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. 1.1.2. Giáo dục đạo đức Giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục lòng trung thành đối với Đảng, hiếu với Dân, yêu quê hương đất nước, có lòng vị tha, nhân ái, cần cù liêm khiết và chính trực. Đó là đạo đức xã hội chủ nghĩa là đạo đức của cá nhân, tập thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân thực tích cực, khác với đạo đức vị kỷ, cá nhân. Giáo dục đạo đức học sinh gắn chặt với giáo dục tư tưởng- chính trị, giáo dục truyền thống và giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc, giáo dục pháp luật nhà nước xã hội chủ nghĩa, cung cấp cho học sinh những phương thức ứng xử đúng đắn trước vấn đề của xã hội,…. giúp cho các em có khả năng tự kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả năng chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối sống. 1.1.3. Vai trò của giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách rất sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục "Tiên học lễ, hậu học văn ", "Lễ " ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và phát triển tốt các tri thức và kỹ năng. Ngày nay, với phương châm " Dạy người, dạy chữ, dạy nghề " cũng thể hiện rõ vai trò của hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường. Bác Hồ đã dạy: “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định...”. Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói " Có tài không có đức chỉ là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó ". Bởi vậy, giáo dục đạo đức học sinh trong trường học có vai trò hết sức quan trọng. Nó góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện các em, để các em trở thành người có nhân cách, vừa có đức vừa có tài đáp ứng được yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước và đó cũng chính là nhiệm vụ hàng đầu của thanh niên, học sinh trong giai đoạn hiện nay. 4 1.2. Quan điểm của Mác-Lênin về đạo đức Đối với vấn đề giáo dục đạo đức, quan niệm của C.Mác về việc tạo ra "hoàn cảnh có tính người", tức là những điều kiện xứng đáng với bản chất con người cũng đang được quán triệt bởi quan điểm lấy con người làm trung tâm trong việc hoạch định các chính sách xã hội và chủ trương đưa văn hóa vào phát triển, "làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người… Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân". Cùng với điều đó, công tác giáo dục đạo đức cũng đang được tiến hành theo tinh thần kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa truyền đạt và nêu gương với tiêu điểm là cuộc vận động"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Cuộc vận động này đang được triển khai sâu rộng trên phạm vi toàn quốc thông qua nhiều hình thức hoạt động sinh động, đã khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, đồng thời khẳng định ý nghĩa trong quan niệm của C.Mác về giáo dục đạo đức. Quan niệm về đạo đức của C.Mác đang được vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Điều đó thể hiện được ý nghĩa và giá trị trường tồn của những tư tưởng khoa học, cách mạng của các nhà lập chủ nghĩa Mác. 1.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng Có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó . Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách 5 mạng. Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau: Trung với nước hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. 1.4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức học sinh 1.4.1.Chủ trương của Đảng Đảng ta đã chủ trương: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lê Nin, đưa việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với từng lứa tuổi và bậc học...”. Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã xác định: "Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục và đào tạo là nhằm xây dựng con người mới và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật, có sức khỏe, là những người kế thừa và xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ ". Đại hội Đảng lần thứ XI đã định hướng phát triển, nâng cao chất lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu của đất nước. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. 6 Ngoài ra, Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục đã chỉ rõ: Giáo dục thế hệ trẻ yêu quê hương, tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản, ý thức làm chủ tập thể, tinh thần đoàn kết, thân ái, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, có ý thức kỷ luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đức tính thật thà, khiêm tốn, dũng cảm,… 1.4.2.Chủ trương của Nhà nước - Đối với Bộ giáo dục Theo chỉ thị số 2737/CT-BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2012-2013, đã nêu: Tiếp tục triển khai có hiệu quả, sáng tạo việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị gắn với đặc thù của ngành, chú trọng công tác giáo dục đạo đức, nhân cách, giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên; nâng cao đạo đức nghề nghiệp của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; tổng kết 5 năm thực hiện cuộc vận động "Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo" và phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực",… Ngoài ra, theo thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học, đưa ra tiêu chuẩn về hoạt động giáo dục học sinh như sau: Giáo dục kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng ra quyết định, suy xét và giải quyết vấn đề, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng ứng phó, kiềm chế, kỹ năng hợp tác và kỹ năng làm việc theo nhóm cho học sinh; Giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh thông qua giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông, cách tự phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác, thông qua việc thực hiện các quy định về cách ứng xử có văn hóa, đoàn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau; Giáo dục và tư vấn về sức khỏe, thể chất và tinh thần, giáo dục về giới tính, tình yêu, hôn nhân, gia đình phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh. 7 - Đối với Sở giáo dục Theo hướng dẫn số 30/HD-SGDĐT về thực hiện nhiệm vụ Giáo dục Trung học năm học 2012 - 2013, đã đưa ra nhiệm vụ chung cho các cơ sở giáo dục: Tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục toàn diện cho học sinh; Tiếp tục triển khai có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào thi đua của ngành gắn với việc đổi mới giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh, tạo sự chuyển biến tích cực và rõ nét về chất lượng giáo dục trung học,… 8 Chương 2 THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ AN GIANG TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2013 2.1. Đặc điểm chung 2.1.1. Đặc điểm chung của đồng bào dân tộc Khmer An Giang Đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang chiếm dân số khá đông, xếp hàng thứ hai (sau người Kinh) trong cơ cấu dân số chung của tỉnh. Họ thường cư trú quanh các dãy núi và tập hợp theo phum, sóc gắn bó với chùa chiền. Người Khmer cư trú ở các huyện Thoại Sơn, Châu thành, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên. Tuy nhiên, mật độ dân số của người Khmer cao nhất ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Người Khmer ở An Giang là cư dân nông nghiệp, cư trú chủ yếu trong vùng nông thôn và miền núi. Kinh tế chính của họ là sản xuất nông nghiệp, ngoài sản xuất nông nghiệp họ còn chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra, họ còn làm các nghề khác như: Thủ công nghiệp (làm gốm), dệt vải, làm đường thốt nốt,…Nhìn chung, những gia đình sống ở nông thôn đa số kinh tế khó khăn chủ yếu làm ruộng, rẫy và có trình độ học vấn thấp, chính vì điều đó họ rất ít quan tâm đến con em mình, nhất là việc học. Cuộc sống của người Khmer gắn liền với nông nghiệp và chùa chiền nên trong đời sống sinh hoạt hàng ngày có rất nhiều lễ hội nông nghiệp và lễ hội tôn giáo. Những lễ hội này đã tạo nên hệ thống lễ hội rất độc đáo, rất riêng của dân tộc Khmer như: Lễ mừng năm mới (Chol chnam thmay), lễ hội xá tội vong nhân (Dolta), lễ đua bò, lễ cúng trăng (Ok om bok). Lễ hội là nơi tập trung rất nhiều người, có nhiều trò chơi, trong đó có cả bài bạc, rượu chè. Vì vậy mà vào mùa lễ hội, học sinh thường trốn học đi chơi, đôi lúc uống rượu bia gây gỗ đánh nhau vi phạm nội quy nhà trường. 2.1.2. Đặc điểm, tình hình của Trường Trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang được thành lập năm 1992, có nhiệm vụ đào tạo con em dân tộc thiểu số ở các huyện có đồng 9 bào Khmer sinh sống, để tạo nguồn cán bộ người dân tộc Khmer cho Tỉnh. Trụ sở nhà trường đặt tại ấp An Lộc, xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Cơ sở vật chất của trường gồm: 15 phòng học, 4 phòng thí nghiệm (Lý, Hóa, Sinh, Điện dân dụng), 2 phòng vi tính, 1 thư viện, 1 phòng thính thị, 1 khu ký túc xá và 1 nhà đa năng tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường có 77 người, trong đó: - Hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng: 04, nhân viên: 18, giáo viên: 55. Trong đó có 35 giáo viên người kinh, 20 giáo viên người Khmer. Các thầy, cô giáo ở đây rất nhiệt tình, hết lòng thương yêu học sinh, có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng. - Đảng bộ nhà trường có 37 đảng viên. Trong đó có 3 chi bộ trực thuộc: Chi bộ Văn phòng - Nội trú, chi bộ Tự Nhiên, chi bộ Xã Hội. Năm học 2012 – 2013: Trường có 21 lớp, với tổng số học sinh là 706 em. Trong đó học sinh người Khmer chiếm 95%, học sinh người kinh chiếm 5%. Đa số học sinh ở đây có hạnh kiểm tốt, chăm ngoan. Có động cơ, thái độ học tập đúng đắn, có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập và rèn luyện. 2.2. Thực trạng về giáo dục đạo đức học sinh ở trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang từ năm 2010 đến năm 2013 2.2.1. Những kết quả và nguyên nhân đạt được 2.2.1.1. Những kết quả đạt được Trong 03 năm qua (từ 2010 - 2013) chất lượng giáo dục của nhà trường đã được nâng lên và đạt được kết quả hết sức khả quan. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT hàng năm tăng từ 97% đến 100%, hiệu quả đào tạo hàng năm đạt hơn 94%. Số học sinh có hạnh kiểm khá, tốt ngày càng tăng. Đa số học sinh đều có ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của mình và phấn đấu cao trong học tập. Cụ thể kết quả này được thể hiện qua các bảng biểu học lực, hạnh kiểm sau đây: *Học lực: Giỏi Học sinh SL TL% 2010-2011 667 74 11,1 2011-2012 674 97 14,4 2012-2013 696 111 15,9 Năm học SL 275 326 355 Khá TL% 41,2 48,4 51,1 Trung bình SL TL% 278 41,7 227 33,7 223 32,0 Yếu SL TL% 39 5,7 24 3,5 07 1,0 Kém SL TL% 1 0,3 0 0 0 0 10 *Hạnh kiểm: Năm học 2010-2011 2011-2012 2012-2013 Học sinh 667 674 696 Tốt SL 579 608 659 TL% 86,9 90,2 94,7 SL 73 60 37 Khá TL% 10,9 8,9 5,3 Trung bình SL TL% 15 2,2 6 0,9 0 0 Yếu SL TL% 0 0 0 0 0 0 Ngoài ra, trong năm học 2012-2013 nhà trường còn đạt được những thành tích sau: Có 15 sáng kiến kinh nghiệm cấp trường (9A, 2B, 4C) và 04 sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cấp tỉnh (1B, 3C), 13 giáo viên dạy giỏi cấp trường. Phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả khá cao với 20 giải cấp tỉnh ((1A, 5B, 11C, 3KK) và 8 giải cấp huyện (2A, 4B, 2C), tham dự hội thi Ca múa nhạc cấp tỉnh đạt 3 giải (1 A, 1B, 1C). Bên cạnh đó, Đoàn - Đội còn tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh như thực hiện cuộc vận động: “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”, tổ chức chương trình “Thắp sáng ước mơ”. Giáo dục tinh thần rèn luyện thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe thường xuyên, giáo dục ý thức bảo vệ của công, tiết kiệm điện nước, ý thức an toàn khi tham gia giao thông, phòng chống tệ nạn ma túy và tệ nạn nghiện game online, phòng chống các tai nạn về điện, đuối nước, giáo dục ý thức phòng chống các loại dịch bệnh như cúm A, sốt xuất huyết,… 2.2.1.2. Nguyên nhân đạt được kết quả Trước hết, công tác giáo dục đạo đức học sinh của trường đạt kết quả khả quan như trên là do nhà trường có sự phối hợp tốt với chính quyền địa phương trong việc giáo dục học sinh. Bên cạnh đó, phần lớn phụ huynh học sinh và hội cha mẹ học sinh cũng rất quan tâm đến vấn đề học tập của học sinh, thường xuyên liên lạc với nhà trường để nắm bắt thông tin và có biện pháp kịp thời để giáo dục, uốn nắn học sinh. Về phía Ban giám hiệu đầu năm có xây dựng kế hoạch hoạt động của trường, trong đó có kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh; lựa chọn và phân công các giáo viên có kinh nghiệm, tâm huyết, có năng lực sư phạm nắm bắt tâm lý học sinh, hoàn cảnh học sinh, có biện pháp giáo dục phù hợp, hiệu quả để chủ nhiệm các khối lớp cuối cấp. 11 Ngoài ra, tập thể giáo viên rất nhiệt tình, giàu lương tâm trách nhiệm luôn phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường và giáo viên chủ nhiệm rất chặt chẽ, nhịp nhàng và có hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức học sinh. Bên cạnh đó, đa số học sinh chăm ngoan. Có động cơ, thái độ học tập đúng đắn, phấn đấu vươn lên trong học tập và rèn luyện. 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế 2.2.2.1. Những hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong công tác giáo dục đạo đức học sinh vẫn còn có hạn chế như: Vẫn còn một số ít học sinh chấp hành chưa nghiêm túc nội qui nhà trường, động cơ, ý thức thái độ học tập còn yếu nhưng công tác giáo dục chưa kịp thời, đồng bộ nên hiện tượng này còn kéo dài. Năm học Tổng số học sinh Số học sinh bị Số học sinh giảm Số học sinh bỏ kỷ luật ở cuối năm học do vi phạm SL TL SL TL SL TL 2010-2011 667 4 0,6% 5 0,75% 2 0,3% 2011-2012 674 9 1,3% 12 1,75% 10 1,45% 2012-2013 696 6 0,9% 10 1,4% 8 1,3% Qua bảng thống kê trên cho thấy: Hiện tượng học sinh vi phạm nội quy nhà trường và bị kỷ luật mặc dù có giảm, nhưng những vi phạm đạo đức có tính chất nguy hiểm, khó giáo dục, giáo dục phải lâu dài, cần phối hợp nhiều lực lượng ngày càng gia tăng. Ngoài ra số học sinh vô lễ, thiếu tôn trọng thầy cô, đánh bài, nghiện game, uống rượu, bỏ tiết, có lối sống không lành mạnh,… cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ. 2.2.2.1. Những nguyên nhân dẫn đến hạn chế Trong xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển mình trong thời kỳ mở cửa. Cơ chế thị trường đã len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đã làm cho nhiều giá trị đạo đức truyền thống ngày càng bị xói mòn. Cùng với những thành quả đạt được về xây dựng kinh tế thì chúng ta không thể phủ nhận mặt trái của cơ chế thị trường đã làm xuất hiện ngày càng nhiều những tệ nạn xã hội. Trước những cám dỗ của đồng tiền đã làm không ít học sinh sa ngã. Ngoài ra, sự buông lỏng trong quản lý của các cấp, các ngành 12 về các hoạt động dịch vụ văn hoá đã làm xuất hiện ngày càng nhiều các tụ điểm văn hoá không lành mạnh ở gần các trường học, các tụ điểm này dùng đủ mọi cách để lôi kéo học sinh vào các điểm giải trí như: Game, chat,...nhằm phục vụ lợi ích kinh tế của riêng họ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh trốn học đi chơi, gây gổ đánh nhau, thậm chí vi phạm pháp luật. Một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, suốt ngày họ chỉ lo làm để kiếm sống; có gia đình cha mẹ ly hôn, bỏ đi xa làm ăn, gởi con lại cho ông bà đã già, không quan tâm đến việc học tập của con em mình, cứ gởi con vào ở nội trú và khoán trắng cho nhà trường. Nhưng cũng có một số gia đình khá giả, nuông chiều con, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất mà ít quan tâm đến đời sống tinh thần của con cái; ngoài ra, cũng có gia đình cha hoặc mẹ sa vào rượu chè, bài bạc bê tha và phần lớn là thiếu hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi, thiếu kiến thức về giáo dục và chăm sóc con cái,... Nhà trường đôi lúc chưa nắm bắt kịp thời các hiện tượng vi phạm đạo đức của học sinh để răn đe, ngăn chặn kịp thời; Năng lực của một số giáo viên chủ nhiệm lớp còn hạn chế, chưa sâu sát trong việc quản lý học sinh, chưa nắm rõ hoàn cảnh riêng của từng em, cũng chưa tìm hiểu kỹ tâm tư nguyện vọng của học sinh. Bên cạnh đó, một số ít giáo viên bộ môn chỉ chú trọng việc "dạy chữ” chưa chú trọng việc “dạy người”, coi việc giáo dục đạo đức học sinh chỉ là việc của giáo viên chủ nhiệm, đoàn đội và của Ban giám hiệu nhà trường; Ngoài ra, một số ít giáo viên còn xem nhẹ yếu tố thuyết phục, thiếu tôn trọng nhân cách học sinh trong việc giáo dục đạo đức học sinh, ... Ngoài ra, do đặc điểm tâm, sinh lý tuổi dậy thì, tình cảm của các em chưa bền vững, không ổn định, khả năng làm chủ bản thân còn yếu trước những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài, nên dễ nghe theo lời xúi giục của bạn bè xấu ở ngoài trường rủ rê đi chơi, trộm cắp vặt, xem những phim ảnh thiếu lành mạnh, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập, nghiện game, thích uống rượu, quan hệ bạn bè vượt quá giới hạn nhưng thiếu hiểu biết đã dẫn đến có thai, phải nạo phá thai, lập gia đình sớm, … 13 Chương 3 MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ AN GIANG ĐẾN NĂM 2015 3.1. Mục tiêu - Hạn chế tình trạng học sinh vi phạm đạo đức trong nhà trường - Giảm tỉ lệ học sinh bị kỷ luật hàng năm. - Duy trì sỉ số học sinh và giảm tỉ lệ học sinh bỏ học hàng năm. - Giảm tỉ lệ học sinh yếu, kém, tăng tỉ lệ học sinh khá, giỏi. - Nâng cao tay nghề cho giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức học sinh ở trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú An Giang đến năm 2015 Nhà giáo dục học lỗi lạc người Nga A.X.Makarenko cho rằng: "Trong giáo dục, không có những học sinh hư hỏng hoàn toàn, không có những học sinh bỏ đi, mà chỉ có những giáo viên, những bậc cha mẹ chưa làm hết trách nhiệm và chưa yêu thương các em hết lòng…". Qua đó cho thấy, để giáo dục một học sinh cá biệt không phải là vấn đề nan giải, mà cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội và cũng cần phải có những giải pháp hữu hiệu để giáo dục đạo đức cho các em. 3.2.1. Tổ chức chỉ đạo và thực hiện tốt các kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh đã đề ra từ đầu năm Tổ chức tốt việc triển khai thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh, để công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường học thành công, đòi hỏi các thành viên tham gia giáo dục đạo đức học sinh cần thực hiện tốt các yêu cầu cụ thể với nhiệm vụ, chức năng của mình: a) Đối với cán bộ quản lý Phải làm cho toàn thể cán bộ- giáo viên - nhân viên trong trường thấy rõ tầm quan trọng và sự cấp thiết của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay. Từ đó nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm, tích cực tham 14 gia các hoạt động nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng và chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung. Triển khai hướng dẫn số 30/HD-SGDĐT, chỉ đạo cho giáo viên bộ môn Giáo dục công dân đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng cách kết hợp giữa đánh giá bằng điểm cho mức độ đạt được về kiến thức và kỹ năng với việc theo dõi sự tiến bộ về thái độ, hành vi trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống của học sinh. Giáo viên dạy Giáo dục công dân phải phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để nhận xét về hạnh kiểm của học sinh theo cách: Nhà trường hướng dẫn hình thức phù hợp để giáo viên môn Giáo dục công dân chuyển kết quả nhận xét sau mỗi học kỳ, năm học cho giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm ghi nội dung nhận xét cuối năm học ở phần dành cho nhận xét của giáo viên chủ nhiệm trong học bạ. Ngoài ra, Ban giám hiệu nhà trường cần chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm đánh giá nghiêm túc kết quả hạnh kiểm của các em, để tránh trường hợp một số học sinh vẫn còn vi phạm nội quy nhà trường mà vẫn được đánh giá hạnh kiểm tốt, việc làm này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh sau này. b) Đối với giáo viên chủ nhiệm Gia đình, nhà trường, xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, giáo viên chủ nhiệm là người giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp các lực lượng giáo dục và là người trực tiếp thay mặt nhà trường để giáo dục học sinh. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm là người thực hiện sự phối hợp, liên kết chặt chẽ với giáo viên bộ môn, các đoàn thể trong nhà trường. Năng lực chuyên môn, đạo đức, uy tín và kinh nghiệm công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp là điều kiện quan trọng nhất cho việc tổ chức phối hợp thành công các hoạt động giáo dục học sinh của lớp. Giáo dục đạo đức học sinh là một công việc đòi hỏi sự kiên trì, cần phải có tâm huyết với nghề; có phương pháp chủ nhiệm tốt với một kế hoạch toàn diện, hợp lý. Nhà giáo dục học Nga U.D.Usinxki cho rằng: " Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt ". Nếu hiểu rõ học sinh thì mới thực hiện được chức năng quản lý - giáo dục toàn diện học sinh lớp học, mới lựa chọn được những biện pháp tác động phù hợp, mới biến quá trình giáo 15 dục của giáo viên thành quá trình tự giáo dục của học sinh với tư cách học sinh là chủ thể, mới đánh giá đúng đắn, chính xác chất lượng và hiệu quả quá trình giáo dục. Như vậy, tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục vừa là nội dung, vừa là điều kiện để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Đối với giáo viên chủ nhiệm cần phải nắm: - Tìm hiểu và nắm vững đặc điểm của lớp chủ nhiệm: Số lượng, học lực, hạnh kiểm năm trước và phải đặc biệt lưu ý học sinh cá biệt, học sinh yếu, kém. - Đặc điểm tình hình của lớp: Khó khăn, thuận lợi, … - Đặc điểm tình hình và điều kiện kinh tế của địa phương,… - Đặc điểm của từng học sinh: Sơ yếu lý lịch, hoàn cảnh sống, đặc điểm tâm sinh lý, tính cách, năng lực, trình độ văn hóa của cha mẹ, bầu không khí gia đình, các mối quan hệ xã hội, cách ứng xử của học sinh trong gia đình ở nhà trường và ngoài xã hội; những biến đổi và sự phát triển về thể chất, tâm lý và xã hội theo các giai đoạn phát triển của lứa tuổi,… Từ việc tìm hiểu, nắm bắt hoàn cảnh gia đình, năng lực từng học sinh,… đến việc xử lý tình huống. Đòi hỏi cần có sự nghiêm khắc của người thầy, đồng thời phải có tấm lòng yêu thương, thể hiện trách nhiệm, lòng vị tha như một người cha đối với con cái; thông cảm chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự và cho các em những lời khuyên bảo chân tình; tạo được niềm tin, động lực cho các em phấn đấu hoàn thiện. Hình ảnh người thầy ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh, chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm không những cần năng lực chuyên môn, mà còn đòi hỏi phải thật sự là tấm gương sáng về tác phong, tư cách đạo đức; chuẩn mực trong trang phục, lời nói, cách ứng xử… như vậy lời nói của giáo viên chủ nhiệm mới có trọng lượng với học sinh. Theo xu hướng hiện nay, do ảnh hưởng của phim ảnh, các văn hóa phẩm đồi trụy đã tác động đến các em, nên đa số giữa các em có xuất hiện tình cảm đầu đời mà được gọi là tình yêu từ rất sớm. Một số em đã vượt quá giới hạn trong tình yêu nhưng thiếu hiểu biết đã dẫn đến có thai, phải nạo phá thai, việc này đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và việc học của các em. Thậm chí các em 16 phải bỏ học giữa chừng, kết hôn sớm, trở thành những người cha, người mẹ từ rất sớm khi tuổi còn rất nhỏ. Đây quả là một vấn đề hết sức nhức nhói cho nhà trường, gia đình và xã hội. Hiện tượng này đang phổ biến và ngày càng gia tăng. Là một giáo viên chủ nhiệm cần phải có một nhận thức đúng về tình yêu, về cơ bản đó là một tình cảm lành mạnh. Vì vậy, bất luận trong trường hợp nào đều không được can thiệp một cách thô bạo vào tình cảm thiêng liêng này. Người lớn không được chế nhạo, tỏ thái độ bất bình đối với sự xuất hiện những rung động mới mẻ này của các em. - Nếu tình yêu của các em tốt đẹp, không có ảnh hưởng gì đến kết quả học tập và rèn luyện thì giáo viên chủ nhiệm cần phải giúp các em vượt qua khó khăn, căng thẳng để vươn lên, để giữ mãi được tình yêu trong sáng đó. - Nếu tình yêu của các em ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập và rèn luyện thì giáo viên chủ nhiệm cần phải giúp các em nhận thức đúng, hướng nghị lực của các em vào những hứng thú, say mê khác có lợi. - Nếu thấy tình yêu mang tính bản năng, có khuynh hướng thõa mãn tính dục, thì giáo viên chủ nhiệm cần phải có biện pháp nghiêm khắc, cứng rắn đối với những trường hợp này, tránh gây ảnh hưởng xấu đến tập thể học sinh. Tóm lại, giáo dục tình cảm cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của gia đình, nhà trường mà là của toàn xã hội. Giáo dục tình cảm là một trong những nội dung quan trọng của việc giáo dục nhân cách, đạo đức chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống lao động xã hội. c) Đối với giáo viên bộ môn Mỗi một giáo viên bộ môn, hãy cố gắng dạy tốt môn học của mình, hãy chú ý đến mọi đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt, học sinh yếu, kém, học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn để tận tình giúp đỡ các em, giúp cho các em tiếp thu tốt nhất kiến thức mà mình đã truyền đạt. Tích cực nâng cao chất lượng tiết dạy, chú ý ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả để kích thích sự ham học, hứng thú của học sinh đối với tiết học, chú trọng việc lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức học sinh thông qua các môn học như: Văn học, Lịch sử, Địa lý, Sinh học và đặc biệt là môn Giáo dục công dân có vị trí 17 quan trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về phẩm chất, đạo đức, về quyền và nghĩa vụ công dân, sẽ giúp học sinh có thái độ tích cực và thực hiện những hành vi đúng đắn phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. d) Đối với Đoàn - Đội Bộ phận Đoàn - Đội trong nhà trường có vai trò hết sức quan trọng trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. Do đó, nhà trường cần tăng cường vai trò của tổ chức Đoàn - Đội trong việc tuyên truyền các nghị quyết của ĐoànĐội, tổ chức thực hiện các phong trào thi đua trong học tập, các hoạt động ngoại khoá; các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn ”, những hoạt động văn hóa lành mạnh khác,… nhằm thu hút, lôi cuốn học sinh đến với tập thể, đến những hoạt động bổ ích, nhằm để giáo dục về lòng nhân ái, tình đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau; giáo dục cho các em những kỹ năng sống; giáo dục truyền thống và đạo lý con người Việt Nam, để từ đó giáo dục đạo đức học sinh. Ngoài ra, Đoàn thanh niên - Đội thiếu niên cũng là lực lượng hỗ trợ đắc lực cho giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. e) Đối với bộ phận Quản lý nội trú Các giáo viên, nhân viên ở nội trú là người gần gũi và tiếp xúc với các em nhiều hơn các giáo viên bộ môn nên dễ dàng nắm bắt được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em. Vì vậy, các thầy cô hãy chịu khó lắng nghe, chia sẽ và giúp đỡ cho các em khi các em gặp khó khăn. Đồng thời cần phải giáo dục cho các em cách sinh hoạt hàng ngày, tính tập thể, tính kỷ luật, rèn luyện ý thức tự giác, tiết kiệm điện nước. Bên cạnh đó, các nhân viên ở đây cần sống và làm việc gương mẫu cho các em noi theo. Đồng thời cần phối hợp chặt chẽ, thông tin kịp thời với giáo viên chủ nhiệm để giáo dục đạo đức cho các em. f) Đối với gia đình Trong cuộc sống hàng ngày, cha mẹ, ông bà cần phải sống mẫu mực, làm gương tốt cho con, cháu noi theo; có trách nhiệm tham gia đầy đủ các buổi họp cha mẹ học sinh; thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để kịp thời nắm bắt các thông tin về việc học tập và sự rèn luyện đạo đức của con em mình, để kịp thời uốn nắn, dạy dỗ. Mỗi cha mẹ học sinh cần quan tâm xây dựng tổ chức 18 hội cha mẹ học sinh vững mạnh, có mối quan hệ thường xuyên với nhà trường; phát huy vai trò, chức năng Hội cha mẹ học sinh trong việc giáo dục đạo đức học sinh, động viên, răn dạy các em chấp hành tốt nội qui của nhà trường, các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. g) Đối với Hội cha mẹ học sinh Đây là lực lượng hỗ trợ đắc lực cho nhà trường trong các hoạt động giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức của học sinh nói riêng. Điểm chung của người dân Khmer là hứa hôn với nhau khi con còn rất nhỏ, ngoài ra phần lớn cha mẹ học sinh ở vùng nông thôn rất ít quan tâm đến mọi họat động của con cái nhất là việc học. Điều này một phần cũng ảnh hưởng đến vấn đề bỏ học của học sinh, để lao động sớm hay lập gia đình sớm. Vì vậy, ngay từ đầu năm học trong lần họp mặt cha mẹ học sinh đầu năm, ban đại diện cha mẹ học sinh cần hỗ trợ cho nhà trường làm công tác tư tưởng cho các phụ huynh để họ có ý thức trong việc lập gia đình cho con em mình và quan tâm nhiều hơn đến việc học của con. Đồng thời, hội cha mẹ học sinh cần giúp cho nhà trường trong việc vận động gây quỹ hội hỗ trợ cho các hoạt động trong nhà trường. h) Đối với chính quyền địa phương Cần chú trọng xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh và chính quyền địa phương nơi trường đóng. Hằng năm, thông qua các văn bản, công văn, báo cáo định kỳ, nhà trường trao đổi thông tin đồng thời triển khai kế hoạch với chính quyền địa phương; tham mưu đưa công tác giáo dục đạo đức học sinh vào tiêu chí xây dựng, bình chọn “Gia đình văn hóa”; có đánh giá nhận xét của chính quyền địa phương về “sinh hoạt hè” của học sinh;… tạo được sự hỗ trợ tích cực của các lực lượng ngoài nhà trường thành quá trình khép kín trong công tác giáo dục học sinh. 3.2.2. Thành lập hội đồng giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường Đầu năm học, Hiệu trưởng thành lập Hội đồng giáo dục đạo đức học sinh trong trường gồm: Phó Hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, Đoàn - Đội, Quản lý nội trú, Ban đại diện Cha mẹ học sinh và đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm. Hiệu trưởng trực tiếp xây dựng kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác giáo dục học sinh nói chung và giáo dục đạo đức học sinh nói riêng; quán 19 triệt những Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Ngành về công tác giáo dục đạo đức học sinh. Thông qua giáo viên chủ nhiệm truyền đạt đến từng học sinh tất cả những quy định của nhà trường về tiêu chuẩn đánh giá, những điều cấm, những điều nên làm và những tác hại khi vi phạm kỷ luật. Thiết lập các kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội ngoài nhà trường. Hằng năm, cần triển khai thực hiện tốt Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11-012005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010" , cuộc vận động "Dân chủ - kỷ cương - tình thương- trách nhiệm " nhằm nâng cao nhận thức của các thành viên trong Hội đồng giáo dục về công tác giáo dục đạo đức học sinh. Để mỗi thầy, cô giáo tự hoàn thiện mình, xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo; để học sinh nhìn nhận, đánh giá người thầy với thái độ: “Trọng thầy vì đạo đức của thầy; Phục thầy vì kiến thức của thầy; Quý mến thầy vì lòng độ lượng của thầy”. Cần tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh, đặc biệt chú trọng thực hiện chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư TW Đảng về việc đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới cho học sinh. Để các em nhận thức đúng, từ đó mà chủ động tích cực rèn luyện đạo đức học sinh. 3.2.3. Thành lập Ban tư vấn học đường Thành lập ban tư vấn học đường là điều cần thiết trong nhà trường. Thành phần tham gia ban này gồm những giáo viên có kinh nghiệm, tâm huyết, gần gũi, dễ chia sẽ và hết lòng vì học sinh, ngoài ra cần có chuyên môn, nghiệp vụ và uy tín trong hội đồng sư phạm, được học sinh quí mến. Nhiệm vụ của ban này là giáo dục và tư vấn về sức khỏe, thể chất và tinh thần, giáo dục về giới tính, tình yêu, hôn nhân phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh. 3.2.4. Xây dựng tập thể lớp tự quản tốt Xây dựng tập thể lớp có ý thức tự quản tốt, đây là một biện pháp rất quan trọng trong việc công tác giáo dục đạo đức học sinh. Một tập thể lớp tự quản tốt là tập thể vững mạnh, có nhiều nhân tố tích cực, nó sẽ tác động rất lớn đến các nhân tố còn lại, sẽ tiếp nhận một cách chủ động, sáng tạo những ảnh hưởng bên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan