Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục đạo đức cho con trong gia đình đô thị hiện nay ( qua nghiên cứu tại trư...

Tài liệu Giáo dục đạo đức cho con trong gia đình đô thị hiện nay ( qua nghiên cứu tại trường thcs quận hà đông, hà nội)

.PDF
104
587
93

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................... 3 2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .............................................. 5 2.1. Ý nghĩa lý luận .................................................................................. 5 2.2. Ý nghĩa thực tiễn ............................................................................... 5 3. Đối tượng-khách thể-phạm vi nghiên cứu ......................................... 3 3.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 5 3.2. Khách thể nghiên cứu ....................................................................... 6 3.3. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 6 4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài........................................................... 6 5. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................. 6 6. Giả thuyết nghiên cứu. ........................................................................ 6 7. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 7 7.1. Phương pháp phân tích tài liệu ....................................................... 7 7.2. Phương pháp quan sát ...................................................................... 7 7.3. Phương pháp phỏng vấn sâu ........................................................... 7 7.4. Phương pháp phỏng vấn theo phiếu trưng cầu ý kiến .................. 8 7.5. Phương pháp xử lý thông tin, số liệu .............................................. 8 NỘI DUNG CHÍNH Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ......... 8 1.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 8 1.1.1. Những khái niệm công cụ ............................................................................ 8 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức ........................................................................ 8 1.1.1.2. Khái niệm gia đình...................................................................... 10 1.1.1.3. Khái niệm cơ cấu gia đình, chức năng và chức năng gia đình ... 12 104 1.1.1.4. Khái niệm giáo dục, giáo dục đạo đức và giáo dục trong gia đình ............................................................................................................................ 14 1.1.1.5. Khái niệm văn hoá gia đình ........................................................ 20 1.1.1.6. Khái niệm trẻ em......................................................................... 21 1.1.1.7. Khái niệm chuẩn mực xã hội và hành vi lệch chuẩn .................. 22 1.1.1.8. Khái niệm vai trò ........................................................................ 22 1.1.2. Lý thuyết tiếp cận: Lý thuyết xã hội hoá .................................................. 8 1.1.2.1. Diễn biến xã hội hoá ................................................................... 24 1.1.2.2. Xã hội hoá trẻ em ........................................................................ 26 1.1.2.3. Môi trường cơ bản của xã hội hoá .............................................. 26 1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 29 1.2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.2.2. Vài nét sơ lược về tâm lý trẻ em trong độ tuổi THCS ............................33 1.2.3. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu...................................................................36 Chương 2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH ĐÔ THỊ 2.1. Hiện trạng đạo đức trẻ em trong độ tuổi THCS .......................... 39 2.1.1. Hiện trạng suy thoái đạo đức của trẻ em ở quận Hà Đông .....................39 2.1.2. Các nguyên nhân tác động đến hiện trạng đạo đức trẻ em hiện nay .......45 2.1.2.1. Nguyên nhân từ các điều kiện kinh tế-xã hội ............................. 45 2.1.2.2. Nguyên nhân từ phía bản thân trẻ em ......................................... 47 2.1.2.3. Nguyên nhân từ phía gia đình ..................................................... 51 2.2. Vai trò của cha mẹ trong giáo dục đạo đức cho trẻ em............... 55 2.3. Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ em hiện nay .......................... 59 2.3.1. Lòng hiếu thảo đối với cha, mẹ .................................................................60 2.3.2. Tình yêu thương, trách nhiệm đối với anh, chị, em, giữa vợ với chồng trong gia đình .........................................................................................................61 2.3.3. Lễ phép, kính trọng đối với người trên .....................................................63 2.3.4. Tôn sư, trọng đạo ........................................................................................65 2.3.5. Trung thực và thẳng thắn............................................................................67 2.3.6. Một số nội dung giáo dục mới khác...............................................69 2.4. Phương pháp giáo dục đạo đức cho con trong gia đình .............. 70 105 2.4.1. Nêu gương thông qua hành động của người lớn ......................................72 2.4.2. Hướng dẫn con tham gia công việc gia đình ............................................81 2.4.3. Động viên, khen thưởng .............................................................................82 2.4.4. Hình thức xử phạt........................................................................................84 2.4.5. Chuyện trò, tâm sự ......................................................................................85 2.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức cho con trong gia đình .......................................................................................................... 87 2.5.1. Cha mẹ thiếu kiến thức về tâm lý trẻ.........................................................87 2.5.2. Phương pháp giáo dục không phù hợp .....................................................89 2.5.3. Thời gian dành cho con và gia đình ..........................................................90 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................... 97 Kết luận ...............................................................................................97 Khuyến nghị ...................................................................................... 1002 106 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử loài người đã chứng minh gia đình luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân cũng như trong sự phát triển của xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội. Sự trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình. Gia đình không phải là nơi duy nhất có vai trò và trách nhiệm trong việc giáo dục trẻ em nhưng nó là môi trường đầu tiên tạo điều kiện tốt nhất và có vai trò quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách trẻ em. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Gia đình là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Giáo dục gia đình cho đến nay vẫn khẳng định vai trò to lớn và không thể thay thế được do những ưu thế của nó so với giáo dục xã hội. Trước hết người ta nhận thấy rằng, ở giai đoạn đầu, đứa trẻ tiếp thu văn hoá, kinh nghiệm xã hội không phải bằng lý trí tư duy mà đơn giản chỉ là bắt chước thông qua việc sao chép lại mẫu hành vi của bố, mẹ và của những người xung quanh. Sự chăm sóc và dạy dỗ của bố mẹ chính là yếu tố đầu tiên trong quá trình thích nghi dần với đời sống xã hội của trẻ. Xã hội vận động và phát triển không ngừng, song giáo dục gia đình vẫn luôn luôn ảnh hưởng lâu dài và toàn diện nhất đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời của họ. Giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội là những môi trường giáo dục rất quan trọng, nhưng vai trò của nó chỉ được phát huy một cách có hiệu quả khi lấy giáo dục gia đình làm cơ sở. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhân tố con người luôn giữ vai trò có tính chất quyết định. Vì vậy, giáo dục và đào tạo con người trong gia đình càng trở nên bức thiết trước yêu cầu phát triển của xã hội. Thực tế cho thấy, dưới tác động của kinh tế thị trường, nhiều giá trị đạo đức truyền thống và nếp sống văn hóa gia đình đang có sự vận động và biến đổi. Có thể nói đa số trẻ em hiện nay đều được giáo dục rất chu đáo về mặt đạo đức. Đã có nhiều tấm gương con ngoan trò giỏi, hiếu lễ với cha mẹ, thầy 3 cô, tấm gương giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, khó khăn, quên mình cứu bạn… Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn nhiều trẻ em hư, lười học, vô cảm. Dưới tác động mạnh mẽ của môi trường xã hội, của các loại văn hoá phẩm độc hại,… nhiều giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp đang bị mai một trong một bộ phận gia đình Việt Nam nói chung và gia đình đô thị nói riêng. Các quan hệ gia đình tốt đẹp đang đứng trước nguy cơ bị lấn át bởi những quan hệ hàng hoá, thị trường, lợi nhuận hoặc lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ. Bên cạnh môi trường xã hội phức tạp như vậy, một trong những nguyên nhân chính đẩy một bộ phận lớn thiếu niên vào con đường phạm pháp đặc biệt là bạo lực học đường ngày càng tăng lên chính là do sự buông lỏng việc quản lý giáo dục con cái của mỗi gia đình. Ở đô thị, hầu hết các gia đình còn mải lo về kinh tế, do vậy việc giáo dục và chủ yếu là giáo dục đạo đức cho con chưa thực sự được coi trọng và đầu tư đúng mức. Cũng có một số cha mẹ coi trọng việc giáo dục đạo đức cho con, song do hạn chế về kiến thức, năng lực và phương pháp nên hiệu quả của việc giáo dục đạo đức chưa cao. Đối với những gia đình đang sinh sống và có con đang theo học THCS ở quận Hà Đông, TP. Hà Nội thì đây là độ tuổi học sinh có nhiều biến động về mặt tâm sinh lý. Học sinh không hoàn toàn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn, có thể nói đây là giai đoạn quá độ của lứa tuổi vị thành niên này. Do đó, trẻ em ở lứa tuổi này chịu sự tác động rất mạnh mẽ bởi môi trường bên ngoài trong việc phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Chính vì những lý do trên mà giáo dục đạo đức trở thành vấn đề cốt lõi, nền tảng trong toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách con người, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của mọi gia đình và của toàn xã hội. Chọn vấn đề “Giáo dục đạo đức cho con trong gia đình đô thị hiện nay” là đề tài cho luận văn tốt nghiệp cao học xã hội học, chúng tôi muốn góp phần nhỏ của mình vào việc khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của gia đình trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, và giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Từ đó giúp gia đình phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức cho con trong các gia đình đô thị hiện nay nói riêng góp phần vào công cuộc đào tạo con người mới đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội hiện đại. 4 2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 2.1. Ý nghĩa lý luận Thông qua việc phân tích các tác động của điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay làm biến đổi văn hoá gia đình, các chức năng cơ bản của gia đình, vai trò xã hội của gia đình, đề tài góp phần bổ sung các lý thuyết đã có nhằm chứng minh tính đúng đắn trong những luận điểm, lập luận của xã hội về vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức cho con cái. Từ đó, hy vọng luận văn cũng góp một phần nhỏ vào quá trình nâng cao nhận thức lý luận xã hội học về vai trò của gia đình trong việc thực hiện chức năng xã hội hoá con người. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả mà luận văn đạt được có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu vai trò quan trọng của gia đình và giáo dục đạo đức trong gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con cái. Từ đó giúp gia đình phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức cho con trong các gia đình đô thị hiện nay nói riêng góp phần vào công cuộc đào tạo con người mới đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội hiện đại. 3. Đối tượng-khách thể-phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Giáo dục đạo đức cho con trong gia đình đô thị hiện nay 5 3.2. Khách thể nghiên cứu - Nhóm trẻ em trong độ tuổi theo học THCS1 tại hai trường THCS Lê Hồng Phong và trường THCS Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, TP. Hà Nội; - Nhóm bố, mẹ có con đang theo học trường THCS tại quận Hà Đông, TP. Hà Nội; 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: 2 trường THCS Lê Hồng Phong và trường THCS Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, TP. Hà Nội; - Phạm vi thời gian: từ tháng 3 đến hết tháng 5/2011 - Giới hạn nội dung giáo dục: Nội dung giáo dục tập trung vào giá trị cơ bản về đạo đức như: lòng hiếu thảo, tình yêu thương, sự lễ phép, kính trọng, tôn sư trọng đạo, đức tính trung thực thẳng thắn; - Phương pháp giáo dục giá trị đạo đức của các bậc phụ huynh trong mỗi gia đình; 4. Mục tiêu nghiên cứu 4.1. Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho con trong các gia đình đô thị hiện nay và những khó khăn của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho con. 4.2. Thực trạng đạo đức của trẻ em từ 12-15 tuổi tại quận Hà Đông, TP. Hà Nội. Những nội dung giáo dục đạo đức cơ bản và phương pháp giáo dục đạo đức của các bậc phụ huynh trong gia đình đô thị hiện nay. Tầm quan trọng của gia đình (vị trí, vai trò của cha, mẹ) trong việc giáo dục đạo đức cho con. 4.3. Góp phần đưa ra các giải pháp giúp các gia đình giáo dục đạo đức cho con được tốt hơn. 5. Câu hỏi nghiên cứu - Thực trạng đạo đức trẻ em trong độ tuổi THCS ở quận Hà Đông, TP. Hà Nội như thế nào? - Những nguyên nhân tác động đến hiện trạng đạo đức trẻ em hiện nay là gì? - Những nội dung giáo dục đạo đức cho con những gia đình đô thị hiện nay được coi trọng như thế nào? 1 Trung học cơ sở 6 - Sự khác nhau về phương pháp giáo dục đạo đức giữa những gia đình có nghề nghiệp, trình độ học vấn, thu nhập khác nhau như thế nào? - Những khó khăn trong việc giáo dục đạo đức cho con của các gia đình ở đô thị ra sao? 6. Giả thuyết nghiên cứu - Thực trạng đạo đức của trẻ em trong độ tuổi THCS ở quận Hà Đông, TP.Hà Nội hiện nay ngày càng giảm sút so với trước kia; - Phần lớn các bậc phụ huynh cũng rất quan tâm đến những nội dung giáo dục đạo đức cho con nhưng do điều kiện công việc nên không dành được nhiều thời gian để trò chuyện, quan tâm, chăm sóc và chia sẻ với con. Một bộ phận lớn bậc phụ huynh có những suy nghĩ sai lầm khi quá tin tưởng và phó thác hoàn toàn việc giáo dục đạo đức cho con mình vào nhà trường và xã hội; - Có sự khác biệt trong phương pháp giáo dục đạo đức cho con giữa các nhóm gia đình có nghề nghiệp, trình độ học vấn và thu nhập khác nhau; - Trình độ học vấn và thời gian dành cho con là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc xuất hiện một bộ phận trẻ em yếu kém về mặt đạo đức, lối sống và nhân cách đã trở thành những đứa trẻ gây ra các nạn bạo lực học đường phổ biến hiện nay tại thành thị. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp phân tích tài liệu Đọc và phân tích các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu bao gồm: các sách, báo, khóa luận, bài viết trên mạng Internet. 7.2. Phương pháp quan sát Thông qua việc phỏng vấn bảng hỏi và phỏng vấn sâu chúng tôi quan sát các đối tượng học sinh trong độ tuổi THCS và cả những bậc phụ huynh có con trong độ tuổi từ 12-15 cho thấy phần lớn những người làm cha, mẹ đều rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho con, họ rất lo lắng khi đề cập đến hiện tượng bạo lực ở học sinh. 7.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 30 trường hợp (trong đó: 20 học sinh THCS và 10 phụ huynh có con trong độ tuổi từ 12-15). 7 Thông tin từ phỏng vấn sâu góp phần lý giải và minh họa cho việc phân tích số liệu định lượng của cuộc điều tra. Với mục đích có được thông tin định tính đa dạng ở các thành phần gia đình khác nhau nên đối tượng nghiên cứu được lựa chọn có chủ định. Các thông tin thu thập bao gồm: đặc điểm nhân khẩu; nghề nghiệp chính của gia đình; tình hình kinh tế của gia đình; nhận xét của gia đình về tình trạng đạo đức của trẻ em tại khu vực trong 5 năm gần đây, đặc biệt là đối với trẻ em trong độ tuổi THCS; nội dung, phương pháp và thời gian dành cho việc giáo dục đạo đức cho con; những khó khăn của gia đình trong việc thực hiện chức năng giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức đối với con nói riêng. 7.4. Phương pháp phỏng vấn theo phiếu trưng cầu ý kiến - Tiến hành phát phiếu trưng cầu ý kiến cho 73 phụ huynh có con đang theo học 2 trường THCS ở quận Hà Đông, TP. Hà Nội; - 180 phiếu trưng cầu ý kiến cho những học sinh đang theo học tại 2 trường THCS Lê Hồng Phong và THCS Nguyễn Trãi có độ tuổi từ 12 đến 15; 7.5. Phương pháp xử lý thông tin, số liệu - Phương pháp thống kê xã hội học, xử lý phần mềm SPSS.12.0 - Gỡ băng phỏng vấn sâu NỘI DUNG CHÍNH Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Những khái niệm công cụ 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức 8 Đạo đức là một phạm trù không dễ định nghĩa, tuy nhiên nó cũng có thể được hiểu theo những cấp độ sau: - Đạo đức, theo nghĩa hẹp, là luân lý, những qui định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm những qui định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và với môi trường sống. - Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, luật pháp, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của cá nhân đã được xã hội hoá. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động góp phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp, giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại. - Đạo đức ngày nay không chỉ bó hẹp trong phạm trù luân lý, những quy định, qui ước đối xử với con người từ vi mô đến vĩ mô (như cha mẹ với con cái, thầy trò, bạn bè, hàng xóm láng giềng, dân tộc…) mà còn bao quát cả ý thức trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ hoà bình, biết hợp tác cùng phát triển với các dân tộc khác. Đó là điểm mở rộng của quan hệ con người trong điều kiện hiện nay. - Đạo đức còn thể hiện ở hiệu quả lao động của cá nhân trong quá trình hoàn thiện nhân cách suốt đời, là trách nhiệm của con người trong việc thực hiện nghĩa vụ công dân góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; trong việc tham gia giải quyết những vấn đề bức xúc của thời đại, tham gia xây dựng, giữ gìn, bảo vệ môi trường tự nhiên, xã hội lành mạnh cho con người vì sự phát triển bền vững của toàn nhân loại. - Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của đời sống xã hội, có cơ sở từ tồn tại xã hội. Lẽ sống, niềm hạnh phúc, nghĩa vụ và lương tâm của con người, những quan hệ hành vi đạo đức chỉ nảy sinh, tồn tại khi chủ thể đạo đức ý thức được điều đó, xây dựng cho mình có được lý trí và tự nguyện hành động, phù hợp với những tiêu chuẩn, nguyên tắc 9 được dư luận xã hội thừa nhận. Trong cuốn “Đạo đức học” do Trần Hậu Kiêm chủ biên cho rằng: “ Đạo đức là một hình thái ý thức đặc biệt, bao gồm một hệ thống quan điểm, quan niệm, những quy tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội”. Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bị chi phối bởi điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Đặc trưng của đạo đức là ý chí, năng lực và hành vi tự giác, tự nguyện của con người. Tiêu chuẩn của đạo đức phải phù hợp với lợi ích chung của xã hội, của gia đình, theo đó mỗi người phải điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Đạo đức có nguồn gốc từ tồn tại xã hội nhưng thường bảo thủ và biến đổi chậm hơn so với tồn tại xã hội. Không phải lúc nào đạo đức phản ánh và tác động thuận chiều, thậm chí, nó có thể tác động tiêu cực trở lại xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm gia đình Gia đình là một loại hình tổ chức xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người và đã không ngừng biến đổi cùng với bước tiến của nền văn minh nhân loại. Là thiết chế cơ sở của xã hội, gia đình từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Gia đình là một tế bào xã hội và là một thiết chế xã hội có tính lịch sử và tính toàn cầu. Là một yếu tố năng động, một khái niệm phức tạp, vì vậy khái niệm gia đình có nhiều cách biểu đạt và có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau: - Gia đình là một tổ chức xã hội, được hình thành bởi một nhóm gồm ít nhất hai thành viên, tồn tại có tính lịch sử, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nhận nuôi; các thành viên có các quyền và nghĩa vụ với nhau tuân theo chuẩn mực xã hội và pháp luật quy định nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng tư và thoả mãn những nhu cầu của xã hội cả trên phương diện vật chất và tinh thần. - Theo quan điểm của nhà nhân chủng học người Pháp Levy Straus thì, gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi ba đặc điểm thường thấy nhiều nhất: + Hôn nhân + Quan hệ huyết thống 10 + Những ràng buộc về mặt pháp lý, nghĩa vụ và quyền lợi có tính chất kinh tế, sự cấm đoán tình dục gắn với các thành viên và những ràng buộc về tình cảm, tâm lý, tình yêu, tình thương và sự kính trọng sợ hãi. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845), khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con người, Các Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng: “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. 2Quan niệm này cho thấy, thứ nhất, gia đình ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của xã hội loài người, con người cùng với quá trình tái tạo ra bản thân mình thì đồng thời cũng tạo ra gia đình. Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo ra con người - chức năng tái sản xuất con người. Thứ ba, gia đình được cấu thành bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân (vợ - chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái). - Gia đình có thể được hiểu theo quan điểm của A. G. Kharchep, trong tác phẩm “Hôn nhân và gia đình ở Liên Xô” ông đã coi gia đình là một hệ thống cụ thể lịch sử các mối quan hệ qua lại giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, là một nhóm nhỏ xã hội trong đó các thành viên liên quan với nhau bởi các mối quan hệ hôn nhân, họ hàng và nhận con nuôi, bởi sự chung sống và có trách nhiệm đạo đức với nhau và tính tất yếu của nhóm xã hội này được quy định bởi nhu cầu của xã hội về tái sản xuất dân số, về thể chất và tinh thần. - Hướng tới việc xây dựng gia đình bền vững, tổ chức UNESCO của Liên hợp quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm Quốc tế về gia đình và khẳng định: Gia đình là một yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế của xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được gìn giữ và phát huy. Trên tinh thần đó, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về gia đình: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung”. - Gia đình theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, (năm 2000): “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau”. 2 Các Mác, Ph.Anghen, Toàn tập, Tập 3,NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 11 - Dưới khía cạnh xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Các nhà xã hội học đưa ra khái nhiệm về gia đình như sau: “Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của các thành viên cũng như để thực hiện tính chất tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người”. 3 Như vậy, khi bàn tới khái niệm gia đình còn rất nhiều vấn đề phải tìm hiểu và nghiên cứu. Như trên đã trình bày, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình nhưng khái quát lại chúng ta có thể thống nhất: về cơ bản, gia đình là một nhóm xã hội cơ bản hình thành trên hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống được nhà nước và xã hội thừa nhận. 1.1.1.3. Cơ cấu gia đình, chức năng và chức năng gia đình * Cơ cấu gia đình Cơ cấu là các yếu tố và các mối quan hệ gắn bó với nhau hợp thành hệ thống. Gia đình là một tiểu hệ thống, vì vậy gia đình cũng có cơ cấu của nó. Cơ cấu gia đình gồm 4 loại đáng chú ý nhất đó là: cơ cấu tổ chức, cơ cấu quyền uy, cơ cấu giao tiếp, cơ cấu vai trò. - Cơ cấu tổ chức : cho biết kiểu gia đình được hình thành (gia đình hạt nhân, gia đình mở rộng,...), số lượng các thành viên, tình trạng hôn nhân (đa thê, một vợ, một chồng, ly hôn, ly thân,....) các thế hệ cùng chung sống (hai, ba, bốn thế hệ....). - Cơ cấu quyền uy : Cho biết người quyền lực quyết định trong gia đình thuộc về thành viên nào. Từ đó thấy được tình trạng gia đình gia trưởng hay gia đình dân chủ có văn hóa. - Cơ cấu giao tiếp : cơ cấu giao tiếp phản ánh trình độ văn hóa và mức độ giao tiếp của các thành viên gia đình; phản ánh quan hệ tình cảm của vợ, chồng, con cái, sự đoàn kết giữa các thành viên và sự bền vững của hôn nhân, gia đình. - Cơ cấu vai trò : Phản ánh vị thế và quan hệ tương tác giữa các thành viên trong gia đình. Các yếu tố pháp lý quy định liên quan đến gia đình được xã 3 Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (đồng chủ biên), Xã hội học , NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1997 12 hội thừa nhận. Cơ cấu vai trò thể hiện ở vai trò của các thành viên trong gia đình và ngoài xã hội. * Chức năng gia đình Trong quan điểm cơ cấu chức năng của Talcot Parsons, ông sử dụng khái niệm chức năng như sau: “Một chức năng là một phức hợp các hành động trực tiếp hướng tới sự đáp ứng một nhu cầu hay những nhu cầu của hệ thống” (Rocher, 1975, 40). “Chức năng gia đình là sự đóng góp của gia đình vào sự tồn tại của hệ thống xã hội. Chức năng gia đình là một trong những khái niệm then chốt, phạm trù cơ bản của xã hội học gia đình. Các nghiên cứu xã hội học về gia đình dù dừng lại ở cấp độ nào cũng đều xuất phát từ quan niệm: gia đình có chức năng cụ thể của nó, gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển, chính nó có sứ mệnh đảm đương các chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã trao cho, không một thiết chế xã hội nào có thể thay thế được”. 4 “Chức năng gia đình là phương thức biểu hiện hoạt động sống của gia đình và các thành viên. Chức năng của gia đình gắn liền với nhu cầu của xã hội cũng như của cá nhân. Nó phản ánh mối quan hệ qua lại giữa gia đình và xã hội, giữa gia đình và cá nhân - các thành viên của gia đình” [40, tr.289]. Khái niệm chức năng gia đình thường được dùng để chỉ phương thức hoạt động sống của gia đình và các thành viên của nó. Chức năng gia đình gắn liền với nhu cầu xã hội, với thể chế gia đình cũng như đối với nhu cầu cá nhân. Ở từng quốc gia khác nhau, với hoàn cảnh kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhau thì chức năng của gia đình cũng khác nhau. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, sự chuyển đổi cơ cấu với sự du nhập của các luồng văn hoá nước ngoài thì mọi chức năng của gia đình đều được đánh giá là rất quan trọng, trong đó chức năng giáo dục trẻ em là một chức năng đặc biệt quan trọng. Vì qua đó, cha mẹ sẽ cung cấp cho con cái những mô hình hành vi của xã hội mà dựa vào đó cá nhân mới có khả năng gia nhập vào xã hội. Hiện nay, gia đình Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ chuyển từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại và đang chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khách quan, chủ quan. Việc chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu 4 Chung Á, Nguyễn Đình Tấn, Nghiên cứu xã hội học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996 13 bao cấp sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, đồng thời thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và mở rộng giao lưu quốc tế đã góp phần làm cho quá trình này diễn ra hết sức phức tạp và đa dạng, theo cả hai chiều hướng tiến bộ và ngược lại. Trong bối cảnh ấy, gia đình có vai trò hết sức quan trọng. Sự thay đổi cơ chế quản lý trong hoạt động kinh tế đã có tác dụng phát huy được tiềm lực kinh tế gia đình. Gia đình Việt Nam đã trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, tự hạch toán kinh doanh. Việc phát triển kinh tế dưới dạng hộ gia đình là hình thức phổ biến nhất ở nước ta hiện nay. Việc gia đình thực hiện chức năng kinh tế như một đơn vị độc lập đã đóng góp rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả đất nước. Song bên cạnh những mặt tích cực này, cũng còn không ít những khó khăn đặt ra trong mỗi gia đình trong việc thực hiện các chức năng của mình. Đặc biệt trong việc bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của gia đình. Sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường một mặt tạo điều kiện cho gia đình cũng như các thành viên của nó phát huy được tối đa năng lực của mình. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít những vấn đề nảy sinh như: sự xuống cấp đạo đức do đề cao sức mạnh của đồng tiền, đặt quyền lợi cá nhân lên trên mọi đạo lý trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, giữa họ hàng, dòng tộc..., bất hoà trong đời sống vợ chồng, sự tăng lên của ly hôn, hư hỏng của con cái, bỏ rơi bố mẹ già, sự tồn tại của bạo lực gia đình, gia tăng của tệ nạn xã hội… Tất cả những điều này không thể đổ lỗi hoàn toàn cho nền kinh tế thị trường, mà ở đây trước hết chúng ta cần phải xem xét lại chức năng giáo dục của gia đình mà cụ thể là vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình. Cũng chính vì vậy mà nhiệm vụ đặt ra cho các gia đình ngày nay là bên cạnh việc phát huy được những tiềm năng vốn có của gia đình để phát triển kinh tế thì gia đình phải gìn giữ và phát huy được những giá trị truyền thống về đạo đức, tinh thần yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên. 1.1.1.4. Giáo dục, giáo dục đạo đức và giáo dục trong gia đình * Giáo dục “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng đó dần có những phẩm chất và năng lực do yêu cầu đề ra”. 14 Các nhà xã hội học giáo dục luôn nhấn mạnh tính định hướng của giáo dục, coi giáo dục là hoạt động có ý thức của con người. Trên thực tế, nếu thiếu hoạt động giáo dục sẽ không thể tạo ra quá trình tái sản xuất các hoạt động tinh thần và vật chất khác. * Giáo dục đạo đức Trong xã hội truyền thống, nếu như giáo dục gia đình giữ vai trò quyết định trong việc xã hội hóa cá nhân, đưa cá nhân hòa nhập với cộng đồng xã hội thì giáo dục đạo đức được coi là cốt lõi của giáo dục gia đình. Trong nội dung giáo dục đạo đức, các thế hệ đi trước đặc biệt chú ý giáo dục cách ứng xử của cá nhân đối với các tổ chức cộng đồng xung quanh (cộng đồng gia đình, cộng đồng thân tộc, cộng đồng làng xã). Giáo dục đạo đức trong gia đình truyền thống Phương pháp giáo dục đạo đức trong gia đình trước kia chủ yếu được thực hiện dưới hình thức « nêu gương », những tấm gương về đạo Hiếu, về đức hy sinh của con đối với cha mẹ được ghi chép trong các sách sơ học, dưới hình thức câu chuyện kể ngắn gọn hoặc những câu châm ngôn trong sách thánh hiền, ca dao, tục ngữ được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhằm giáo dục cho con những ý thức cơ bản nhất về đạo lý làm người. Trong Kinh thi có nêu rõ con phải biết ơn công lao dưỡng dục của cha mẹ « Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã/ Ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao/ Dục báo thâm ân, hiên thiên võng cực » (nghĩa là: Cha sinh ta, mẹ nuôi ta/ Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc/ Ta muốn đền ơn sâu, ơn ấy như trời, mênh mông không cùng). Còn trong Hiếu kinh có nêu: « Lập thân hành đạo, dương danh hậu thế, di hiển phụ mẫu » (Lập thân hành đạo, nêu cao danh đến đời sau để làm vinh hiển cho cha mẹ). Trong tập Minh tâm bảo giám (Gương quý soi vào mà sáng cõi lòng) có ghi: « Tử hiếu song thân lạc/ Gia hòa vạn sự thành » (Con hiếu thì cha mẹ vui/ Gia đình hòa thuận thì mọi việc đều thành). Các công trình nghiên cứu trên 20 cuốn gia huấn của 7 dòng họ nổi tiếng Việt Nam đều đề cao đạo Hiếu, công lao sinh dưỡng của cha mẹ: « Có nguồn mạch mới có sông sâu bể rộng, gốc vững mới có cành lá xanh tươi »... 15 nhằm giáo dục con lòng biết ơn đối với cha mẹ. Tinh thần này còn thể hiện rõ trong lời hát ru : « Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con ». Giáo dục đạo đức trong gia đình hiện nay Nền kinh tế thị trường phát triển đã tạo ra những thay đổi tích cực cho kinh tế - xã hội đất nước, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, sức sản xuất phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hàng loạt những vấn đề xã hội tiêu cực liên tục nảy sinh, đồng tiền đã phát huy sức mạnh của nó không chỉ ở ngoài xã hội mà cả ở trong gia đình. Những chuẩn mực đạo đức vốn được coi là tiêu chí hàng đầu để đánh giá nhân cách con người thi nay đã dần suy giảm và bị vi phạm tương đối nghiêm trọng. Con người chân chất, hiền lành trong xã hội truyền thống đang dần nhường chỗ cho con người có đầu óc kinh tế thực dụng trong xã hội hiện đại. Hằng ngày chúng ta phải chứng kiến không ít những hiện tượng vô trách nhiệm, ích kỉ,.... gây nhức nhối lương tâm, xôn xao dư luận. Con hắt hủi, ngược đãi, đánh đập cha mẹ già vài các cụ không còn khả năng kiếm được tiền, phải sống dựa vào họ. Anh em ruột xung đột với nhau do tranh dành của cải cha mẹ để lại. Vợ chồng phụ bạc lẫn nhau, bỏ rơi con, chạy theo sự giàu sang.... Luân thường đạo lý có nguy cơ bị đảo lộn và phá vỡ. Đạo đức, trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều giữ một vị trí quan trọng đặc biệt trong cuộc sống con người, hơn tất cả các phẩm chất con người khác. Thiếu đạo đức, con người dễ mất phương hướng của hành động, dễ dàng vi phạm những chuẩn mực của xã hội. Đạo đức được ví như chiếc gậy thăng bằng, người diễn viên xiếc sẽ bị rơi khỏi dây. Cũng như vậy, một con người thiếu đạo đức sẽ tự loại bỏ mình ra khỏi cộng đồng xã hội. Giáo dục đạo đức con người là hình thành những chuẩn mực đạo đức có tác dụng điều chỉnh hành vi của các cá nhân, buộc các cá nhân phải tuân theo những yêu cầu, chuẩn mực mà xã hội đòi hỏi. Nền kinh tế thị trường đang làm xáo trộn các chuẩn mực đạo đức truyền thống. Nó gây ra sự khủng hoảng trong các giá trị truyền thống nói chung và giá trị đạo đức trong gia đình nói 16 riêng. Thực tế, hiện nay đang tồn tại nhiều loại giá trị chuẩn mực khác nhau cùng đan xen trong xã hội. Mẫu hình con người hiện đại có thể có nhiều điểm khác biệt so với mẫu hình con người trong xã hội truyền thống. Tuy nhiên, trong bất kỳ xã hội nào, đạo đức vẫn là phẩm chất cơ bản của một con người, giáo dục đạo đức vẫn là một nội dung giáo dục quan trọng trong gia đình. Một cá nhân có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của xã hội hiện đại song quan trọng hơn cả đó phải là một con người có nhân cách, có phẩm chất đạo đức cao đẹp ngay từ trong chính gia đình của mình. Những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và gia đình Việt Nam là một trong các yếu tố cơ bản góp phần kiến tạo sự ổn định của xã hội, cần thiết phải được khôi phục và bảo lưu trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, các giá trị đạo đức hiện đại (mới) cũng cần được tiếp thu và vận dụng một cách phù hợp. Bước đầu có thể hình dung một số chuẩn mực điều chỉnh hành vi của mỗi người với gia đình, họ tộc; với cộng đồng, xã hội và với đất nước, theo hướng Chân – Thiện – Mỹ như sau: - Đạo đức đối với gia đình, họ tộc: Hiếu thảo, hiếu học, thành kính tổ tiên, tình thương yêu ruột thịt, phúc đức, hiền hòa, nhân nghĩa, thật thà, biết bổn phận, lễ phép, hòa thuận, kính trên nhường dưới, chung thủy vợ chồng, có trách nhiệm với gia đình, thiện tâm, thiện ý, chăm chỉ, cần cù lao động,... - Đạo đức hiện đại (mới) cần xây dựng bổ sung: dân chủ, tự do, bình đẳng, có trách nhiệm công dân, đoàn kết, danh dự, công bằng, uy tín, sáng tạo, có tri thức, có ý thức vươn lên, có lý tưởng, tính nhân văn, tính tiến bộ, tự tin, mạnh dạn, năng động, dễ thích nghi, văn minh, thẩm mỹ tinh tế, cao thượng, trọng trọng luật pháp, tôn trọng của công,... - Những điều trái đạo đức: có thể gọi chung là « cái ác » như: vị kỷ, hẹp hòi, độc đoán, hung bạo, đố kỵ, ghen ghét, bè cánh, cục bộ địa phương, tham nhũng, tham lam, tàn nhẫn, thiếu tôn trọng kỷ cương, pháp luật, dâm ô, trụy lạc, nghiện ngập,... Sự hệ thống hóa bước đầu những giá trị đạo đức, cũng là những giá trị văn hóa dân tộc và hiện đại là những chuẩn mực lý tưởng cần phấn đấu vươn tới đối với mọi công dân Việt Nam trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế. Biết những chuẩn mực đạo đức tốt để mà noi 17 theo, vươn tới, để phát huy hết cái tốt, cái đẹp trong mỗi con người, vì vậy, việc phổ biến cho các gia đình nhằm giúp các thành viên trong gia đình nhận thức được những chuẩn mực đạo đức và phấn đấu thực hiện là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng gia đình, từng thành viên trong gia đình ở từng nơi, từng lúc mà vận dụng cho thích hợp 5. * Giáo dục trong gia đình: Giáo dục thế hệ trẻ về cơ bản là giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội, trong đó giáo dục gia đình là cơ sở và có vị trí và vai trò quan trọng nhất. Mỗi loại hình giáo dục có những chức năng, vai trò khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là giáo dục thế hệ trẻ một cách toàn diện. “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có ảnh hưởng không tốt tới trẻ em và kết quả cũng không tốt”. “Giáo dục gia đình là sự tác động có hệ thống, có mục đích của những người lớn trong gia đình và toàn bộ nếp sống của gia đình đến đứa trẻ”. Giáo dục gia đình là một bộ phận của hệ thống giáo dục xã hội, diễn ra trong phạm vi gia đình. Mục đích của giáo dục gia đình bị quy định bởi chế độ kinh tế - xã hội mà cơ sở của nó là hệ tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức, hệ thống mối quan hệ qua lại trong gia đình. Nhìn chung, mục đích của giáo dục gia đình và xã hội thống nhất với nhau đó là cho ra đời những người con ngoan, trò giỏi, những công dân tốt, những con người hạnh phúc. Song, so với mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội, mục đích của giáo dục gia đình có điểm khác ở chỗ phân tán và cụ thể hơn do nó hướng vào từng đứa trẻ cụ thể và gắn với lợi ích của từng gia đình riêng biệt. Đồng thời, mục đích của giáo dục gia đình linh hoạt hơn, thay đổi theo sự biến đổi và phát triển của đứa trẻ, theo sự vận động và phát triển của xã hội xung quanh, phụ thuộc vào chính cuộc sống của gia đình và những định hướng giá trị của nó. Nếu việc tái sản xuất ra con người là một chức năng cơ bản của gia đình thì việc nuôi dưỡng con cái, giáo dục cho chúng thành người là công việc hàng đầu của gia đình. 5 Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch, Các kiến thức chung về gia đình trong Tài liệu giáo dục đời sống gia đình, Hà Nội, 2008 18 Ngay từ khi mới sinh ra, môi trường đầu tiên mà đứa trẻ tiếp xúc chính là gia đình. Gia đình là chiếc cầu nối giữa con người và xã hội, là nơi đầu tiên và có trách nhiệm biến một sinh vật người thành con người xã hội. Đó là nơi quyết định việc hình thành và hoàn thiện nhân cách của một con người, và có ảnh hưởng đến suốt cuộc đời con người đó. Mặt khác, gia đình cũng chính là môi trường để các thành viên tác động lẫn nhau một cách tự nhiên và có hiệu quả nhất. Có thể nói, gia đình là một môi trường giáo dục đặc biệt. Đó không chỉ là trách nhiệm xã hội công dân mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ làm cha mẹ. Trong môi trường này, mỗi con người không chỉ được truyền thụ hệ giá trị chuẩn mực văn hoá - xã hội, hệ giá trị chuẩn mực của gia đình, dòng họ mà còn được truyền thụ cả những kinh nghiệm sống, những tri thức khoa học - kỹ thuật, sự định hướng nghề nghiệp và lựa chọn con đường sống. Như vậy, gia đình trở thành môi trường giáo dục toàn diện cho mỗi con người. Bằng cách này hay cách khác, những kiến thức về tình yêu, hôn nhân, đạo đức, văn hoá, nghề nghiệp đều được truyền tải hàng ngày đến các thành viên. Chính gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội học tập và thăng tiến xã hội của con cái. Nguồn gốc văn hoá, xã hội và điều kiện vật chất của gia đình sẽ tạo ra cơ may hay rủi ro cho mỗi người trong bước thăng tiến xã hội và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân của sự bất bình đẳng xã hội do xuất thân từ các loại gia đình khác nhau như: gia đình trí thức, gia đình nông dân... Mỗi loại gia đình có sự khác nhau về nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, định hướng cuộc sống và điều kiện sống. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì nội dung, cách thức giáo dục cũng có sự khác nhau căn bản. Gia đình Việt Nam truyền thống chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, coi trọng thứ bậc trên dưới và nề nếp gia phong, muốn thành gia đình nề nếp, việc quan trọng nhất là cha mẹ phải giáo dục con cái. Gia đình này đòi hỏi người cha - người gia trưởng phải quan tâm đến gia đình, có trách nhiệm, gương mẫu, công minh, uy tín. Cả nhà phải tỏ lòng kính trọng quyền uy của người cha. Trong việc giáo dục con, người cha phải nghiêm, công bằng và dứt khoát. Trong gia đình truyền thống việc giáo dục con cái giữa gia đình nông dân với gia đình nho giáo cũng có sự khác nhau căn bản về nội dung, phương pháp giáo dục và định hướng nghề nghiệp. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan