PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ai cũng mong ước đạt được thành công vượt trội, nhưng vì sao chỉ một
số ít người có thể biến ước mơ của mình thành hiện thực? Vì sao không ít người
học giỏi, bằng cấp cao nhưng không thành đạt bằng một số người có thành tích
học tập kém hơn? Chính vì thực tế đó, từ ngàn xưa con người luôn trăn trở với
câu hỏi: Điều gì quyết định sự thành công của con người?
Trong kỷ nguyên sáng tạo, thành công luôn chờ đón những người dám
nghĩ, dám làm với kỹ năng sống phù hợp. Kiến thức chỉ là dạng sức mạnh tiềm
ẩn, nó chỉ trở thành sức mạnh, có giá trị và hiệu quả khi được ứng dụng vào
những công việc có mục đích rõ ràng. Yếu tố quyết định phần lớn sự phát huy
sức mạnh tiềm ẩn của tri thức là kỹ năng sống gồm kỹ năng tư duy và kỹ năng
ứng xử. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi, không
tạo dựng được mối quan hệ xã hội thích hợp trong cuộc sống và trong công việc,
dẫn đến sự mai một dần khối kiến thức dù lớn đến đâu. Các kết quả nghiên cứu
xã hội học của nhiều nhà khoa học dẫn đến kết luận khá thống nhất là: Trong
các yếu tố quyết định sự thành công của con người thì kỹ năng sống chiếm đến
85%, còn kiến thức chuyên môn hay kỹ năng cứng chỉ chiếm 15%. Ngân hàng
Thế giới nhận định thế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng (skills
based economy). Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích
cực trong xã hội hiện đại. Thế nhưng trên thực tế con người đã đầu tư bao nhiêu
công sức, thời gian, tiền của vào yếu tố quyết định phần lớn sự thành công cho
tương lai của mình? Còn nền giáo dục đã giúp trang bị cho người học thế nào về
kỹ năng sống? Câu trả lời cho cả hai câu hỏi trên là: Rất ít, nếu so với sự đầu tư
hàng chục năm và nhiều tiền của vào kiến thức khoa học, chuyên môn. Tất
nhiên là quan điểm giáo dục nói trên ảnh hưởng không nhỏ đến cả sự hiểu biết
và nhận thức của đội ngũ giáo viên.
Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp
trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ,
giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc
sống.
Kỹ năng sống chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó
những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
Một nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng
giao tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách
ứng xử phù hợp và biết tự cách giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập rất
quan trọng đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu lồng ghép dạy kỹ năng sống
1/28
cho trẻ phù hợp với từng độ tuổi lứa tuổi mầm non vô cùng cần thiết và đó cũng
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2016-2017.
Kỹ năng sống của trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp ứng
xử, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp tác
chia sẻ...
Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của
người lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với những khó khăn
trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải quyết
những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp. Kỹ năng sống là một yếu tố quan
trọng điều khiển ý thức và hành vi của con người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non sẽ mang lại cho các cháu rất nhiều lợi ích về mặt sức khỏe, giáo dục
và cả văn hóa xã hội, giúp trẻ sớm có một cơ thể cường tráng, lành mạnh về trí
tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức và khả năng thích nghi với cuộc sống, làm
chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình
cũng như cho cộng đồng. Muốn vậy, người lớn phải tạo cho trẻ có môi trường
để trải nghiệm, thực hành. Nhưng trên thực tế, ở trường mầm non nội dung rèn
các kỹ năng sống được nhà trường yêu cầu giáo viên thường xuyên đưa vào dạy
ở các hoạt động hàng ngày nhưng việc giáo dục kỹ năng sống ở một số hoạt
động như rèn trẻ cách chào hỏi lễ phép trong giờ đón trả trẻ, khi tổ chức các hoạt
động học cũng lồng ghép các bài học giáo dục, dạy trẻ biết chăm sóc bố mẹ khi
ốm, nhưng giáo viên đôi khi còn chưa lưu ý sửa các kỹ năng cho trẻ, các bài
giáo dục kỹ năng còn cụ thể nói chung chung. Ngoài ra việc phối hợp giữa gia
đình và giáo viên trong việc rèn kỹ năng sống còn hạn chế. Các gia đình thường
chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ
năng cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ,
không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế.
Khó khăn cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra. Chính vì vậy, việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ là một việc quan trọng hơn bao giờ hết, nên tôi đã
chọn đề tài:“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi.”. Làm đề tài nghiên cứu và thực nghiệm ở lớp mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi, năm
học 2016-2017.
Đề tài này được thực hiện ở lớp MGL A3 từ tháng 9 năm 2016 đến tháng
4 năm 2017. Theo các phương pháp đọc, nghiên cứu tài liệu, phương pháp lí
luận, quan sát, thực nghiệm, thực tế giảng dạy tôi đã mạnh dạn xây dựng nội
dung biện pháp thực hiện cụ thể cho đề tài của mình.
2/28
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Nội dung lý luận:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nhiệm vụ đang được
ngành giáo dục triển khai và thực hiện khá tốt trong trường mầm non. Tùy theo
lứa tuổi, các cháu sẽ được bắt đầu làm quen với các kỹ năng như giao tiếp, thích
nghi, khám phá thế giới xung quanh, kỹ năng tự chăm sóc bản thân, kỹ năng tạo
niềm vui, tự bảo vệ mình, kỹ năng làm việc nhóm, và kỹ năng tự quyết một số
tình huống phù hợp với lứa tuổi. Kỹ năng sống giáo dục dạy trẻ dưới nhiều hình
thức đưa lồng ghép các hoạt động là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể
chất, tình cảm trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những kỹ năng sống tích cực trong
trẻ.
Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh cho phép
bạn đối mặt với những thách thức của cuộc sống hằng ngày. Dạy kỹ năng sống
cho trẻ mầm non là ta nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được
những điều nên làm và không nên làm. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
em phải hết sức đơn giản và gần gũi với trẻ. Chúng ta dạy kỹ năng sống cho trẻ
chính là chúng ta dạy trẻ biết sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò mò,
khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Trẻ sẽ học cách có được những mối liên kết mật
thiết với các bạn khác trong lớp, biết chia sẻ, chăm sóc, lắng nghe, trình bày và
diễn đạt được ý của mình trong nhóm bạn. Điều quan trọng chúng ta mong
muốn là sẽ giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới qua
việc phát triển các kỹ năng cho trẻ.
Nếu chỉ suy ngẫm và trò chuyện thôi thì chưa đủ, cần có các kỹ năng
ứng dụng vào thực tế. Ngày nay trẻ cần được trải nghiệm, hiểu kết quả của hành
vi ứng xử và muốn chủ động đưa ra những quyết định có sức ảnh hưởng lớn.
Giáo dục rèn kỹ năng sống phải thực hiện đồng bộ 3 môi trường giáo dục: Gia
đình – nhà trường và xã hội. Việc dạy làm quen kỹ năng sống cho trẻ mầm non
là dạy trẻ để làm người, rèn luyện kỹ năng tự học, kỹ năng tư duy, kỹ năng ứng
xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen kỹ năng làm việc sinh
hoạt theo nhóm … đã tạo ra một môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện
mang tính tương tác cao giữa giáo viên và học sinh, nhằm xây dựng vẻ đẹp tâm
hồn, phẩm chất và tính cách con người, tăng sức đề kháng và năng lực hội nhập
cho con trẻ ngay hôm nay và tự tin vững bước trong tương lai.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Năm học 2016-2017 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp MGL
5-6 tuổi. Lớp có 2 giáo viên phụ trách với tổng số học sinh là 39 cháu. Qua thực
tế lớp, tôi gặp phải một số thuận lợi và khó khăn cụ thể sau:
3/28
1- Thuận lợi:
- Bô ̣ Giáo dục và Đào tạo đã phát đô ̣ng phong trào thi đua “Xây dưng
trường hoc thân thiên-hoc
sinh tich cưc” với những kế hoạch nhất quán từ
̣
Trung ương đến địa phương, Phòng Giáo dục- Đào tạo cũng đã có kế hoạch
từng năm học với nhà trường, và nhà trường cũng có kế hoạch đến từng giáo
viên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Được sự quan tâm của ban giám hiệu luôn chỉ đạo sát sao với công tác
chuyên môn. Luôn có sự đầu tư và bồi dưỡng cho chuyên môn cho giáo viên để
có phương pháp giáo dục lồng ghép kỹ năng sống phù hợp.
- Ban giám hiệu luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, các
phương tiện dạy học hiện đại.
- Trẻ đã học qua các lớp nhà trẻ, mẫu giáo bé, mẫu giáo nhỡ nên đã có
kiến thức và kỹ năng nhất định. Trẻ mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá
tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ.
- Giáo viên đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, nhiệt tình tâm huyết với
nghề. Luôn luôn tìm tòi, học hỏi và có 1 số kỹ năng trong việc dạy kỹ năng sống
cho trẻ.
- Luôn luôn được sự quan tâm, chia sẻ và ủng hộ của phụ huynh.
2- Khó khăn:
- Giáo viên hiểu các nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn chưa sâu,
chưa biết vâ ̣n dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng
sống cho trẻ phù hợp theo đặc điểm riêng của trẻ.
- Trẻ chưa có kỹ năng hợp tác nhiều khi chơi, ăn còn nói chuyện, làm rơi
vãi thức ăn. Trẻ chưa tự tin chưa biết cách xử lý các tình huống bất ngờ xảy ra:
Ví dụ trẻ bị chảy máu cam trẻ không biết làm sao, trẻ chưa biết cách lên xuống
cầu thang an toàn… và còn rất nhiều kỹ năng khác mà trẻ còn lúng túng trong
cách xử lý.
- Sĩ số học sinh đông nên ít nhiều cũng ảnh hưởng đến việc triển khai các
hoạt động cho trẻ.
- Phụ huynh thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà chưa biết
cách phát triển các kỹ năng sống cho trẻ.
*Khảo sát đánh giá trẻ có các kỹ năng sống cơ bản:
Qua khảo sát đầu năm tôi thấy nhiều trẻ kỹ năng sống còn hạn chế như trẻ
còn chưa có thói quen tự phục vụ như vẫn để bố mẹ, ông bà cất dép, cất ba lô
giúp, trẻ chưa mạnh dạn chào hỏi..., và khi cô đưa ra các tình huống như: “Nếu
con bị lạc trong siêu thị thì con sẽ làm gì”, hoặc “Nếu con ở nhà một mình, có
người lạ gọi cửa con sẽ làm gì” đa số trẻ còn lúng túng chưa biết hoặc chưa tự
tin đưa ra phương án trả lời:
4/28
Kết quả đạt được như sau:
Tổng số trẻ: 39
Các tiêu
chí
Mạnh dạn tự
Phân
tin
loại
Xếp
Đ
CĐ
loại
Số trẻ
18
21
Tỷlệ % 46%
54%
Kỹ năng hợp
tác
Đ
15
38%
Kỹ năng thích
khám phá học
hỏi
CĐ
Đ
24
62%
23
59%
CĐ
Kỹ năng
trong giao
tiếp
Kỹ năng tự
phục vụ
Đ
CĐ
Đ
CĐ
16
19
41% 49%
20
51%
22
56%
17
34%
Sau khi nắm bắt được đặc điểm tình hình của lớp tôi đã nghiên cứu và áp
dụng “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5- 6 tuổi” như sau:
III. Biện pháp thực hiện.
1. Xác định nhiêm
̣ vụ cợ bản và̉ trách nhiệm củac giáo viên trong viêc̣
dạy trẻ kỹ năng sống.
Chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non là công việc vô cùng quan
trọng. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở Việt nam và trên thế giới đã
chứng minh lợi ích lâu dài của việc can thiệp vào các năm ở tuổi mầm non là rất
to lớn. Trí tuệ, tính cách và hành vi xã hội của đứa trẻ đã được hình thành. Mục
tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
em vào lớp một. Nhiệm vụ của giáo viên mầm non là chăm sóc trẻ để trẻ phát
triển toàn diện. Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho trẻ? Tôi
luôn đặt câu hỏi như vậy cho bản thân và tôi nhận thấy được để dạy được kỹ
năng sống cho trẻ tôi cần phải:
- Gương mẫu, không vi phạm đạo đức nhà giáo, gần gũi yêu thương trẻ để
trẻ cảm nhận được cô như là người mẹ thứ 2 của trẻ.
- Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy trẻ làm trung tâm nhằm
khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, bản thân cần phải biết khai thác
phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở môi trẻ. Vì môi đứa trẻ là một nhân
vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi
tình huống của cuộc sống.
- Thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ
mô ̣t cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều
các lĩnh vực: Thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát
huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận
dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
5/28
- Giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong
lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe
trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau,
giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan
tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung
quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào?
Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc
ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ,
trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ
tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
2. Xác định nhưng kỹ năng sống cợ bản cân dạy trẻ 5-6 tuổi.
Đối với tâm sinh lý trẻ em 5-6 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ
cần phải biết trước khi tập trung vào hoạt động học. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian
đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát,
tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Viê ̣c xác định được
các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những
nô ̣i dung trọng tâm để dạy trẻ.
- Kỹ năng sống tư tin:̃ Một trong những kỹ năng quan trọng mà giáo viên
cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Biết tự lập, luôn tin là:
“mình có thể”. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình
huống ở mọi nơi. Và trẻ thể hiện tính kiên trì thường xuyên và ý thức hơn. Trẻ
có thể đánh giá các trở ngại một cách đúng hơn và biết tự lượng sức mình để
khắc phục những trở ngại đó. Sự động viên khuyến khích của cô giáo, người lớn
có ảnh hưởng tích cực và làm cho trẻ tin vào sức lực và khả năng của mình.
Hầu hết trẻ ở độ tuổi này đều cảm thấy tự tin và thể hiện bản thân mình
thông qua thành tích của trẻ. Chẳng hạn, trẻ có thể làm được một số việc đơn
giản hàng ngày như: Quét nhà, làm trực nhật hay làm vệ sinh cá nhân, …và cố
gắng hoàn thành công việc được giao.
Ngoài ra giao lưu tình cảm, tiếp xúc gần gũi với trẻ là 1 cách tạo ra sự tin
tưởng, gắn bó giữa trẻ với người xung quanh. Tăng cường sự phát triển các giác
quan, góp phần tích cực phát triển các kĩ năng xã hội, trong đó có kĩ năng sống
tự tin. Tôi luôn tạo nhiều thời gian nhất có thể để giao lưu với trẻ bằng lời nói,
cử chỉ thể hiện cảm xúc, ánh mắt, nét mặt đặc biệt là ánh mắt sẽ khiến trẻ cảm
nhận được thái độ, tình cảm của người cùng giao tiếp. Và những cuộc trò
chuyện này mang ý nghĩa nhiều mặt: Phát triển ngôn ngữ, tư duy, các chức năng
tâm lí, tình cảm, kĩ năng giao tiếp ứng xử.
6/28
- Kỹ năng sống hợp tác:̃ Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn
trong nhóm. Tình bạn ổn định bắt đầu nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ với bạn
và tình bạn bắt đầu trở nên quan trọng với trẻ.
Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng
làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả
năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Ở kĩ năng này chủ yếu tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ. Với biện pháp này
không chỉ cung cấp cho trẻ kiến thức một cách tự nhiên, đồng thời là cơ hội cho
trẻ hợp tác với nhau trong hoạt động, từ đó phát triển tính đoàn kết, tương trợ
giữa các trẻ trong lớp.
- Ở trò chơi học tập đó là trò chơi có luật nên trẻ cần phải có kiến thức và
biết hợp tác với bạn.
- Trò chơi dân gian trẻ lĩnh hội được rất nhiều kiến thức và đặc biệt những
kĩ năng sống trong đó có kĩ năng hợp tác.
Ngoài sử dụng trò chơi tôi còn sử dụng câu chuyện, bài hát để rèn kĩ năng
sống hợp tác. Tôi cho trẻ cùng nhau kể một câu chuyện, hay tất cả trẻ cùng hát 1
bài hát theo yêu cầu của cô.
Không những dạy trẻ qua câu chuyện, bài thơ, bài hát, qua trò chơi mà tôi
còn rèn kĩ năng hợp tác cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, qua các hoạt động.
- Kỹ năng thich tòc mòch hcm hoc hỏih khả năng thuu hiểuu:̃ Đây là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát
khao được học. Tôi cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi
tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện
hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não
nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
Để rèn và phát huy tốt kĩ năng này tôi đã sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau kết hợp các phương pháp giáo dục như: Sử dụng lời nói; dùng tình huống;
sử dụng trò chơi;
* Sử dụng lời nói nhằm giúp trẻ nắm được các nội dung cần thực hiện. Ở
phương pháp này đòi hỏi phải chú ý tới khâu dẫn dắt bởi đây là điểm mấu chốt
lôi cuốn hứng thú và sự chú ý của trẻ, giúp trẻ tiếp thu tốt kiến thức các nội dung
tiếp theo.
* Sử dụng tình huống: Nhằm hình thành cho trẻ kĩ năng giải quyết những
tình huống thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Các tình huống không có sẵn
7/28
và bản thân tôi phải phát hiện và tận dụng các tình huống có vấn đề và biết cách
xử lí. Tuy nhiên, ở trong trường mầm non ít khi hay thậm chí không xảy ra các
tình huống như: Lạc đường, bị bắt cóc, giúp đỡ người già, … Vì thế, tôi tạo ra
một số tình huống thông qua xây dựng kịch bản chơi trò chơi đóng kịch
* Sử dụng trò chơi: Trẻ được học tập các kiến thức, kĩ năng một cách tự
nhiên qua các trò chơi, đồng thời đây cũng là cơ hội để trẻ trải nghiệm và kiểm
tra lại vốn kiến thức kĩ năng của mình. Đây cũng được coi là hoạt động có ý
nghĩa trong phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Khi tham gia trò chơi trẻ khám
phá môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh mình. Hoạt động vui chơi cũng
đặt ra cho trẻ nhiều tình huống bất ngờ đòi hỏi trẻ sự linh hoạt, nhạy bén và sáng
tạo để giải quyết tình huống chơi.
Trò chơi tôi sử dụng có 2 loại: Trò chơi sưu tầm và sáng tạo trò chơi mới.
- Trò chơi học tập là nhóm trò chơi có luật nhằm mục đích phát triển hoạt
động trí tuệ và nhận thức. Qua trò chơi này củng cố nhận biết, phân biệt và phân
nhóm các đối tượng.
Ví dụ: Làm quen với toán “Đong các đối tượng có dung tích khác nhau
bằng 1 đơn vị đong”. Ở hoạt động này tôi cho trẻ chơi trò chơi đong nước đầy 2
chai không to bằng nhau và cho trẻ nhận xét kết quả đong.
Ví dụ 2: Khám phá tự nhiên “Sự phát triển của cây từ hạt”.
Tôi yêu cầu trẻ xếp đúng thứ tự quá trình phát triển của cây từ hạt (Hạt ->
mầm -> cây con -> cây nhiều cành, nhiều lá -> cây có hoa -> cây có quả.)
- Đặc biệt với trò chơi khoa học là những trò chơi mang tính khám phá,
thử nghiệm nhằm cung cấp cho trẻ những tri thức tiền khoa học, khuyến khích
và nuôi dưỡng trí tò mò, ham hiểu biết, góp phần phát triển trí tuệ và chuẩn bị
những kĩ năng nhận thức nhất định. Với trò chơi này tôi gần như sử dụng triệt để
nhằm rèn kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu cho trẻ.
Ví dụ 1: Khám phá thiên nhiên “Sự kì diệu của cát”, tôi đã tổ chức cho trẻ
chơi với cát
- Với những chậu cát thật đẹp này các con có ý tưởng trò chơi gì với cát
không?
(Làm tranh cát, in khuôn hình, xây lâu đài cát, làm hang cát, …). Hay cho
trẻ chơi “đồng hồ cát”.
Ví dụ 2: Cho trẻ chơi với nước, thả vật nổi vật chìm:
- Vì sao quả bóng, miếng xốp lại nổi?
8/28
- Vì sao hòn sỏi lại chìm?
Ví dụ 3: Cho trẻ thí nghiệm nam châm với sắt, nam châm với gô:
- Khi nam châm đặt gần gô thì điều gì xảy ra?
- Vì sao nam châm không hút được gô?
- Chuyện gì sẽ xảy ra khi nam châm và sắt đặt gần nhau?
Hay tôi cho trẻ chơi pha màu nước khi khám phá về sự kì diệu của nước:
- Vì sao nước biến thành màu vàng? (pha bột màu vàng)
- Tại sao nước bây giờ màu đỏ mà lại ngọt? (pha với nước dâu)
- Để làm ra nước biển cần làm như thế nào?
- Kỹ năng gico tiếp ứng xử: Những hành vi văn minh lịch sự. Giáo viên
cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác
hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh
nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính
yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, hoạt động học làm quen với toán
và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng nào
đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây
chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ. Ngoài ra, ở trường
mầm non giáo viên cần dạy trẻ văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao
động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn
uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một
cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng
ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết
tự dọn, cất đúng nơi quy định bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn
dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. Không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
3. Lồng ghéph giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở các hoạt động moi lúch
moi nợi.
Muốn hình thành một kỹ năng thì trẻ cần được học, được rèn luyện ở mọi
lúc, mọi nơi. Trẻ được cô chăm sóc, dạy dô cả ngày từ lúc đón trẻ đến giờ chiều
trả trẻ, thời gian trẻ được hoạt động bên cô và các bạn nhiều hơn ở nhà. Vì vậy
tôi đã lồng ghép kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
* Với giờ đón trẻ: Tôi dạy cho trẻ tính tự lập, trẻ tự biết chào hỏi lễ phép,
biết cất đồ dùng cá nhân vào đúng nơi quy định. Đầu năm học trong khi đón trẻ
tôi thấy một số phụ huynh còn cất dép, ba lô giúp con, tôi nhẹ nhàng nhắc phụ
huynh: “Bà con Thái Dương ơi! Các bạn trong lớp đều tự cất dép và ba lô của
9/28
mình đấy!”, và tôi cũng vừa nói vừa động viên con: “Thái Dương cũng tự cất
được đồ dùng của mình giống các bạn đúng không con!”
Trẻ tư cut đồ dùng cá nhân và̉o đúng nợi quy định.
* Giờ hoạt động học: Tôi tích hợp kỹ năng sống cho trẻ một cách nhẹ
nhàng, quan tâm đến từng cá nhân trẻ, với trẻ nhút nhát cô động viên gợi mở trẻ
nói lên ý kiến của mình, còn với trẻ mạnh dạn thông minh cô đưa câu hỏi mở để
giúp trẻ tư duy.
*Rèn kỹ năng tư tin
Ví dụ: Khi kể chuyện “Quả bâu tiên” giáo viên đă ̣t những câu hỏi gợi
mở như: Nếu là con khi thấy con én nhỏ bị thương con sẽ làm gì? Giúp rèn cho
trẻ mạnh dạn, tự tin khi trình bày suy nghĩ của mình với người khác gợi mở tính
tò mò thay đổi đoạn kết của truyện có hậu hơn, đặt tên khác cho câu chuyện.
Ví dụ: Tiết học tạo hình “Vẽ cô giáo” có những trẻ chưa mạnh dạn tự tin
vẽ, tôi động viên gần gũi trẻ để trẻ mạnh dạn hơn.
Trẻ nói: Con không biết vẽ.
Cô nói: Cô thì cô tin là con có thể vẽ được cô giáo rất đẹp đấy! Con hãy
cầm bút và nhớ lại cách vẽ mà cô vừa hướng dẫn cho con rồi, con hãy vẽ đi nhé!
cô tin là con làm được!
Dạy con cách qua đường là kỹ năng cần thiết giúp trẻ tự tin, chủ động hơn
trong cuộc sống.
Ví dụ: Với hoạt động khám phá tôi cung cấp cho trẻ các kiến thức về an
toàn giao thông, đồng thời tôi dạy trẻ các kĩ năng qua đường như:
- Khi đi muốn qua đường con phải làm gì?
- Nếu có nhiều xe cộ qua lại con sẽ làm như thế nào?
10/28
- Khi nào thì con được qua đường?
- Các bạn nhỏ khi qua đường phải có ai đi cùng?
Sau đó tôi cho trẻ chơi đóng vai bé và mẹ qua đường.
*Rèn kỹ năng hợp tác:̃
Ví dụ: Lĩnh vực phát triển nhận thức: Làm quen với toán “Sắp xếp theo
quy tắc”
Tôi sử dụng trò chơi “Xếp tranh” và chia lớp thành 3 nhóm.
Yêu cầu: Môi nhóm sẽ hoàn thành một bức tranh xếp theo qui tắc đội nào
gắn đúng nhanh đội đó sẽ chiến thắng. Và lúc này buộc trẻ phải thảo luận với
nhau cùng nhau hợp tác mới hoàn thành bài tập.
Ví dụ: Truyện “Ngày và đêm” thì tôi cho 2 -3 trẻ cùng nhau kể, môi trẻ sẽ
kể một đoạn của câu chuyện, và đến trẻ cuối cùng thì câu chuyện hoàn chỉnh.
- Giờ hoạt động ngoài trời: Tôi cho trẻ được quan sát, phát hiện, tôi cho
nhiều trẻ nêu ý kiến của mình, giúp được rèn luyện các kỹ năng tự tin nói trước
mọi người.
Ví dụ: Giờ hoạt động ngoài trời “Quan sát bồn cây” trong khi đang quan
sát và đàm thoại trẻ phát hiện ra có 1 con sâu đang bò trên lá, trẻ tỏ ra rất sợ hãi.
Lúc này cô giáo chính là người giúp trẻ quên ngay nôi sợ hãi đó
Cô: - Con sâu đó như thế nào?
- Con thấy con sâu đó đang làm gì? Nó có lợi hay có hại? Vì sao?
Con sâu không đáng sợ nhưng nó lại gây hại cho cây cối, mùa màng đấy.
- Để cho cây xanh tốt, nhanh lớn chúng ta phải làm gì?
Và cô bắt ngay con sâu lên khỏi lá cây để trẻ thấy rằng con sâu không
đáng sợ mà cần phải diệt trừ nó. Bây giờ cô muốn cùng các con chăm sóc bồn
cây lớp mình, các con có đồng ý không nào?
- Bạn nào sẽ giúp cô nhổ cỏ?
- Ai giúp cô bắt sâu cho cây? ….
Trẻ cùng hợp tác chăm sóc bồn cây củac lớp.
11/28
Nhờ sự hợp tác của trẻ mà tôi hoàn thành công việc nhanh chóng hơn và
đó cũng là một cách rèn các kĩ năng sống cho trẻ như: Tự tin, hợp tác, tự lập.
Ngoài ra khi tổ chức các trò chơi vận động: “Kéo co”, “Rồng rắn lên
mây”, và các trò chơi khác rèn cho trẻ tính đoàn kết, kỹ năng hợp tác chơi theo
nhóm
Ví dụ 1: Trò chơi dân gian “Rồng rắn lên mây” ở trò chơi này ngoài rèn
cho trẻ một số tố chất thì nó cũng rèn cho trẻ tinh thần đoàn kết hợp tác với
nhau. Tất cả trẻ làm con rắn phải đoàn kết, đồng lòng với nhau để “cái đuôi”
không bị bắt.
Ví dụ 2: Trò chơi dân gian “Kéo co” ở trò chơi này trẻ phải biết dùng sức
mạnh của bản thân và tập thể để kéo cho được bên kia ngã về phía mình. Một
vạch đích để ở giữa sân chơi, có dây thừng căng đều ra hai phía, hai bên xúm
nhau nắm lấy dây thừng để kéo. Một người cầm trịch ra hiệu lệnh. Hai bên ra
sức kéo, sao cho người bên kia kéo về bên mình là thắng. Nếu trẻ không đồng
lòng, hợp tác với nhau thì đội của mình bị thua vì vậy để chiến thắng trong trò
chơi này thì trẻ phải cùng hợp tác với nhau.
- Hướng dẫn trẻ cách gieo hạt, trồng cây để tạo môi trường xanh, sạch,
đẹp cho lớp.
Trẻ trải nghiệm gieo hạt.
Ví dụ: Cô cho trẻ ra hoạt động ngoài trời, cho trẻ quan sát cây xanh, cho
trẻ trải nghiệm, cảm nhận đứng ở dưới khi trời nắng, đứng, chơi đùa ở dưới
bóng cây thì thấy khác như thế nào so với đứng chơi ở dưới trời nắng không có
cây, ra ngoài trời các con có thấy dễ chịu không. Cô giúp cho trẻ hiểu cây xanh
12/28
rất có ích cho con người, cây cho bóng mát, cho gô để làm bàn ghế, giường tủ
… Ngoài ra cây còn làm cho không khí trở nên trong lành, làm giảm ô nhiễm
môi trường, giảm bụi, giảm tiếng ồn, cây xanh còn cung cấp cho người thức ăn,
cây kiểng để trang trí tạo ra cảnh đẹp cho trường, cho lớp. Từ đó trẻ biết yêu cây
xanh, cô tạo điều kiện cho môi trẻ có một bồn cây riêng để trẻ tự gieo hạt, tưới
và chăm sóc, hình thành ở trẻ kỹ năng tự lập, tôi nghĩ ra ý tưởng tận dụng các vỏ
hộp sữa bột đã hết môi trẻ mang một hộp đến tôi cho đất vào đó và cùng trẻ
trồng cây, gieo hạt rồi hằng ngày cho trẻ tự chăm sóc bồn cây của mình. Ngoài
ra ở nhà, cô còn khuyến khích trẻ trồng cây, trồng rau bằng các thùng xốp đã sử
dụng, từ đó góp phần hạn chế rác thải, làm cho môi trường được trong lành hơn.
- Cô hỏi trẻ rau hoa quả cung cấp cho các con chất gì? Cho trẻ tự suy
nghĩ, trò chuyện bàn bạc sau đó trả lời. Cô hướng dẫn trẻ chọn hoa quả tươi theo
mùa để ăn thay cho các loại quà bánh hay snack vì rau, trái cây cung cấp cho trẻ
rất nhiều vitamin và muối khoáng giúp trẻ khoẻ mạnh. Còn các loại quà bánh
hay snack ít các chất dinh dưỡng.
* Giờ hoạt động vui chơi: Đối với trẻ mầm non, hoạt động vui chơi
chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ ở trường. Thông qua giờ chơi, trẻ
được đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻ đóng vai và tái hiện lại những gì
trẻ nhìn thấy trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc
sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể hiện qua họat động vui chơi. Chính vì vậy, tôi
rất chú trọng đến việc tạo các tình huống khi trẻ đóng vai để trẻ tìm cách giải
quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻ
đã có.
Ví dụ: Ở góc “Gia đình”, khi tôi đóng giả một người lạ đến gõ cửa khi
trẻ ở nhà một mình, thì trẻ biết nhắc nhau “Đừng mở cửa, phải đợi bố mẹ về
đã”.
Hoặc tôi cho trẻ ở nhóm gia đình cùng đi siêu thị và đưa ra tình huống:
“Con bị lạc bố mẹ ở siêu thị” thì trẻ biết ra nhờ cô bán hàng gọi điện thoại cho
bố mẹ, cháu đóng vai người bán hàng cũng nhắc trẻ: Cháu chờ ở đây với cô đợi
bố mẹ đón.
Tôi đóng một vai làm người đi đường và rủ bé: Đi cùng cô để cô dắt về
với mẹ.
Các trẻ trong nhóm đã nhắc nhau: “Đừng đi, nếu không sẽ bị bắt cóc
đấy”.
Hoặc với trò chơi “Đi ô tô” tôi cũng chú ý xem cách thể hiện của trẻ để
có những gợi mở kịp thời như: Các bác đã thắt dây an toàn chưa, đừng thò đầu,
thò tay ra ngoài khi xe đang chạy nhé.
13/28
Ở trò chơi đóng vai cơ hội nhiều nhất để rèn và phát triển kĩ năng hợp tác
của trẻ.
Ví dụ: Góc xây dựng thì tất cả trẻ trong nhóm cùng nhau hoàn thành công
trình và để làm được điều đó tất cả trẻ cùng thảo luận, phân công công việc cho
nhau cùng nhau làm công việc được giao, cuối cùng trẻ cùng nhau hoàn thiện
công trình. Đó là một cách hợp tác cùng làm việc.
Ngoài ra qua trò chơi đóng vai còn hình thành ở trẻ các thói quen lao
động tự phục vụ, không vứt đồ chơi bừa bãi, chơi xong biết cất dọn, sắp xếp gọn
gàng đồ dùng, đồ chơi. Trẻ có kỹ năng hợp tác bằng cách thỏa thuận phân công
trong góc chơi, nhất là trong các góc phân vai và góc xây dựng.
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua các hoạt động khác:
Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như
những giờ ngủ trưa hoặc trong giờ sinh hoạt chiều. Tăng cường kể cho trẻ nghe
các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện
mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng
thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò,
ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Cô đoc sách cho trẻ nghe.
Chuẩn bị đến giờ ăn cô hỏi trẻ trước khi ăn con phải làm gì?, vì sao lại
phải rửa tay trước khi ăn, khi ăn các con phải như thế nào, cho trẻ trò chuyện, trẻ
được nói những suy nghĩ của mình.
14/28
Trẻ biết rửc tcy lcu mặt trước khi ăn.
Ngoài ra cô vào những giờ hoạt động chiều do lớp tôi có kết nối internet
nên tôi có thể cho các cháu xem video về những tình huống: “Vứt rác đúng nơi
quy định”, “Khi bố mẹ không có nhà, có người lạ xin vào nhà bé trú mưa”,
“Trộm đột nhập vào nhà”, …thảo luận cùng trẻ nếu con ở trong hoàn cảnh đó thì
con sẽ làm gì?, cô hỏi nhiều ý kiến của trẻ sau đó cô đưa ra ý kiến cô cho là
đúng nhất trong tình huống đó.
Trẻ xem thảo luận cùng cô giải quyết các tình huống kỹ năng sống.
Tận dụng thời gian của giờ sinh hoạt chiều để giáo dục trẻ thói quen trực
nhật cuối ngày theo nhóm hoặc cá nhân. Chăm sóc góc thiên nhiên của lớp, sắp
xếp, lau dọn kệ đồ chơi, nhắc nhở bạn cùng nhau thực hiện.
Ví dụ: Lao động cuối tuần: Tôi giao nhiệm vụ cho trẻ là các nhóm thi
nhau lau và cất dọn đồ chơi các góc. Trẻ ở các nhóm thi đua nhau làm nhanh,
sạch và gọn để thể hiện mình.
15/28
Khi tổ chức các hoạt động nên để trẻ trải nghiệm, trao đổi và giáo viên
lắng nghe ý kiến của trẻ, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho trẻ được thể
hiện ý tưởng của mình.
Muốn hình thành được nề nếp trong việc dạy kỹ năng sống thì trẻ phải
được rèn luyện thường xuyên mọi lúc, mọi nơi những hành vi tốt, từ đó hình
thành cho trẻ một thói quen, trẻ không những để ý đến hành động của mình mà
còn để ý đến hành động của bạn xung quanh, trẻ có những phản ứng với những
hành động không đúng, tự nhắc nhở lẫn nhau, nên đa số trẻ có nề nếp kỹ năng
sống cần thiết.
4. Sưu tâm các bà̉i thợh câu chuyệnh các tình huống đểu giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là rất thích nghe đọc thơ kể
chuyện. Nội dung các bài thơ, câu chuyện thường để lại ấn tượng cho trẻ khó
phai mờ. Chính vì vậy tôi đã sáng tác, sưu tầm một số bài thơ câu chuyện lồng
vào đó các tình huống để giáo dục trẻ. Giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng thú, tự
nguyện.
Giáo dục trẻ biết giữ gìn trường lớp, nhà luôn gọn gàng, sạch sẽ, tôi sưu
tầm bài thơ và cho trẻ đọc:
Lớp sạch
Nhà sạch thì mát
Bát sạch ngon cơm
Lớp có sạch thơm
Thì học mới tốt
Tôi lau tôi quét
Sắp xếp gọn gàng
Sách vở ghế bàn
Đều về đúng chô.
Giáo dục trẻ luôn biết vứt rác vào đúng nơi quy định tôi sưu tầm bài thơ:
Không vứt rác ra đường
Cái bánh có lá gói
Quả chuối vỏ rất trơn
Dẫm phải là ngã luôn
Nhớ bỏ vào thùng rác!
Cô lao công
Sạch đường phố em qua
Không ngại ngần vất vả
16/28
Cô lao công hối hả
Đủn chiếc xe bên đường.
Từng nhịp bước bộn bề
Tay đưa đều nhịp chổi
Ngoài trời đang gió thổi
lạnh lắm đôi tay gầy.
Em ước ao bà tiên
Gom gió đông bớt lạnh
Đường hôm nay sạch đẹp,
Nhờ có bàn tay cô.
Ngô Thị Hạnh - Móng Cái
Ngoài ra tôi còn sưu tầm các tình huống tôi kể cho trẻ nghe sau đó đặt câu
hỏi mở để hỏi trẻ “Nếu con ở trong tình huống đó con sẽ làm gì”, sau đó tôi đưa
ra những lời khuyên của các chuyên gia cho trẻ.
Để giáo dục trẻ đảm bảo an toàn khi đi chơi các con phải luôn đi cùng bố
mẹ, không được tự ý đi chơi một mình, nếu xảy ra bị lạc thì phải bình tĩnh, cô kể
cho trẻ nghe tình huống và các phương án giải quyết.
Lạc mất mẹ ở nơi đông người
Sáng chủ nhật, Lan tung tăng đi theo bố mẹ vào trung tâm thương mại.
Chà! ở đây có cả một gian hàng đồ chơi. Lan không thể rời mắt khỏi những quả
bóng bay, những chú gấu bông xinh xắn. Lan tiến lại gần quầy đồ chơi, chạm
tay vào chú gấu bông hồng trên quầy. Lan quay người lại xin bố mẹ mua thỏ
bông cho mình. Ơ...ơ, bố mẹ đâu rồi? Lan cuống quýt không biết làm sao bây
giờ...
1. Bị lạc, bé đừng lo lắng và cũng đừng khóc lóc. Bé hãy đứng yên tại chô
chờ một lúc, có thể bố mẹ sẽ quay lại đón bé.
2. Nếu chờ một lúc lâu không thấy bố mẹ, bé hãy đến nói với các chú bảo
vệ, hoặc cô bán hàng, nhờ họ thông báo lên loa cho bố mẹ biết.
3. Không được chạy lung tung khắp nơi, cũng không được đi theo người
lớn nào ngoài bố mẹ và các chú bảo vệ.
4. Không được tự tiện rời khỏi nơi ấy, kẻo bố mẹ sẽ không tìm được bé.
5. Hãy ngoan ngoãn nghe theo lời các chú bảo vệ, đứng yên bên cạnh chú
chờ bố mẹ quay lại đón mình
Giáo dục trẻ tránh những nơi nguy hiểm phòng điện giật tôi đã sưu tầm
câu chuyện:
17/28
Phòng ngừa bị điện giật
Một buổi chiều hè, hai bạn nhỏ dắt nhau ra đường chơi. Đường phố thật
đông vui, hai bạn vừa đi vừa chuyện trò rôm rả. Bông Tuấn chỉ cho Hùng thấy
một sợi dây điện đứt. Đầu dây rủ thõng xuống sát đường, gió thổi đung đưa từ
bên này sang bên kia. Hùng thấy hay hay liền chạy đến gần, nhìn sợi dây cười
khoái chí. May có chú đi đường dừng lại, bảo Hùng phải tránh xa chô dây điện
dứt ra.
Dây điện đứt nguy hiểm lắm đấy, bé phải chú ý các điểm sau:
1. Tuyệt đối không được trèo lên cột điện. Khi có sợi dây điện đứt rơi
xuống thì phải đi vòng qua, có thể vẫn còn có điện trong sợi dây đấy.
2. Khi tay còn ướt, bé không được chạm vào công tắc điện, bật tắt đèn...
3. Không tùy ý nghịch ổ cắm, bật tắt lung tung, không được tháo hoặc
nghịch các đồ điện khi chưa hỏi người lớn.
4. Không được chọc tay, chọc dao, chọc bút máy vào ổ cắm, làm như vậy
dễ bị điện giật lắm.
5. Không được phơi quần áo lên đường dây điện.
6. Khi trời mưa có sấm sét, không được trú mưa dưới chân cột điện, kẻo
bị sét đánh.
Để có kỹ năng khi tắm vừa giữ vệ sinh cơ thể sạch sẽ. Vừa đảm bảo an
toàn khi tắm tôi sưu tầm câu chuyện:
An toàn trong phòng tắm
Ngày chủ nhật, Minh được đi đá bóng cả buổi sáng. Đá đến tận trưa, khắp
người lấm lem, Minh mới chạy về nhà. Minh chạy ùa vào phòng tắm, ồ mẹ đã
đã xả nước nóng sẵn rồi nè! Minh vội vàng cởi quần áo, định nhảy vào tắm luôn.
Mẹ thấy vậy liền ngăn lại.
Tại sao như vậy nhỉ? Vì có rất nhiều điều cần chú ý khi đi tắm, mẹ
nhắc Minh chú ý các điều sau:
1. Khi bé đi tắm, phải có người lớn bên cạnh. Nếu bố mẹ, anh chị đi vắng,
bé đừng tắm một mình; và cũng đừng khóa trái cửa phòng tắm.
2. Sàn nhà tắm thường trơn ướt, nên bé đừng nhảy nhót, nghịch ngợm
trong nhà tắm, kẻo dễ bị trượt ngã.
3. Nếu tắm trong bồn hay chậu tắm, bé phải nhờ người lớn xả nước giúp,
bé thò tay vào xem nước nóng hay lạnh rồi mới vào.
4. Lúc bước vào bồn hay chậu tắm, bé cẩn thận kẻo trượt ngã nhé! Phải
nắm chắc tay vào gờ chậu rồi từ từ đặt chân vào.
5. Không nên nằm trong bồn lâu quá, tắm lâu rất dễ bị đau đầu, hoa mắt,
chóng mặt.
18/28
Khi dạy bài về các giác quan, để trẻ có kỹ năng bảo vệ mắt tôi đã đọc cho
trẻ nghe câu chuyện:
Bảo vệ mắt
Cuối tuần vừa rồi, Lâm được ở nhà xem tivi suốt ngày. Lâm ngồi trên ghế
xa lông xem liền mấy bộ phim hoạt hình. Chà! ngồi lâu mỏi quá, Lâm liền nằm
bò ra ghế xem tiếp. Nhưng Lâm nằm một lúc thì thấy đau nhức mắt, hình ảnh
trên tivi chập chờn trước mắt. Lâm đành tắt tivi, nhắm mắt nghỉ nghơi một lúc.
Nào, để khỏi bị đau mắt như Lâm, chúng ta cùng học cách bảo vệ đôi
mắt nhé.
1. Không nên đọc sách dưới ánh sáng quá mạnh hoặc quá yếu. ánh sáng
vừa phải, đủ để bé nhìn rõ chữ là tốt. Nên để đèn hoặc nguồn ánh sáng ngay bên
trái, trước mặt mình, như vậy sẽ không bị vướng bóng tối che mắt.
2. Không nên xem sách quá lâu, khoảng nửa tiếng thì nên đứng lên, ngắm
mây trời, cây cối ngoài cửa, cho mắt nghỉ ngơi.
3. Khi xem sách xem tivi, chơi máy tính,....thì nên ngồi ngay ngắn, lưng
thẳng, không nên nằm sấp hoặc nằm ngửa. Giữ cho mắt mình cách quyển sách
và tivi một khoảng không xa quá, cũng không sát quá.
4. Không nên xem sách lúc đi bộ, ngồi xe ô tô, khi ăn cơm hoặc khi nằm
trên giường. Cũng không nên nhìn thẳng vào luồng ánh sáng quá mạnh như lửa
hàn, nắng chói chang...
5. Không nên dùng tay bẩn sờ mắt hoặc dụi mắt khi có vật lạ lọt vào.
Hàng ngày nên "tập thể dục" đơn giản cho mắt như chớp chớp mắt, nhắm mắt
nghỉ ngơi.
Vì lớp tôi có rất nhiều trẻ bị sâu răng, và trẻ nhỏ thường thích ăn nhiều
kẹo để hạn chế tỷ lệ sâu răng tôi sưu tầm câu chuyện:
Đừng ăn quá nhiều kẹo
Sắp đến Tết trung thu rồi, mẹ đưa Minh đi siêu thị mua đồ. Minh đứng
ngắm quầy kẹo, quầy bánh ga tô, quầy nước ngọt...thèm đến nhỏ nước dãi. Minh
khoái nhất là ăn kẹo ngọt, cậu túm áo đòi mẹ mua cho bịch kẹo to. Về đến nhà,
Minh ôm ngay bịch kẹo chạy vào phòng, sắp có một bữa tiệc ngọt đã đời!
Nhưng ăn nhiều kẹo như Minh không tốt đâu vì sẽ gây ra các tác hại
sau:
1. Nếu ăn nhiều kẹo và đồ ngọt, những chất ngọt bám trong kẽ răng là môi
trường tốt để sâu răng sinh sôi nảy nở, bé sẽ bị hỏng mất hàm răng đẹp.
2. Ăn quá nhiều kẹo khiến lượng đường trong cơ thể bé tăng lên cao, làm
cơ thể tiêu hao nhiều canxi, kali, vitamin B tiêu hóa chúng. Về sau bé sẽ dễ mắc
các bệnh về cột sống, dễ bị gãy xương...
19/28
3. Nếu ăn quá nhiều kẹo, cơ thể không hấp thụ được hết đường, sẽ chuyển
hóa chúng thành mỡ, gây béo phì.
4. Ăn quá nhiều kẹo, bánh ga tô...sẽ gây đầy bụng, khó tiêu, không còn
cảm giác muốn ăn cơm. Lâu dài như vậy sẽ dẫn tới bệnh chán ăn và bệnh dạ
dày.
Vì lớp tôi ở trên tầng 2, để đảm bảo an toàn cho trẻ khi lên xuống cầu
thang hoặc chơi đồ chơi ngoài trời tôi có các câu chuyện:
Chú ý khi chơi cầu trượt
Tuần này Quân học rất ngoan, nên bố mẹ thưởng cho một chuyến đi công
viên ngày thứ bảy. Công viên thật vui và đông người. Quân chạy chô này, chơi
chô kia, đến là vui! Ồ, đằng kia có trò chơi cầu trượt, Quân liền chạy đến chơi
cùng các bạn. Chúng mình hãy cùng bạn Quân nắm vững cách thức giữ an toàn
khi chơi cầu trượt nhé!
1. Khi chơi cầu trượt, phải bám chắc hai tay vào hai bên thành cầu trượt,
leo từng bậc thang lên nóc cầu trượt. Đừng xô đẩy, chen lấn bạn phía trước kẻo
bạn ấy bị ngã.
2. Khi lên đến nóc, không được giằng co, xô đẩy các bạn. Phải chờ tuần tự
đến mình rồi mới được trượt xuống. Hãy ngồi thấp xuống rồi trượt xuống đất thì
mới an toàn.
3. Khi chơi cầu trượt nên cất hết các món đồ nhỏ của bé vào túi quần áo,
không cầm thứ gì trên tay.
4. Không nên nghịch, trèo lên từ đằng ván trượt, các bạn trượt từ trên cao
xuống sẽ xô đè vào bé đấy. Cũng không nên quay lưng xuống đất, trượt từ trên
xuống, như vậy sẽ ngã lộn, dễ bị thương lắm.
Giữ an toàn khi lên xuống cầu thang.
Hết giờ học, Lâm và Huy cầm lấy vợt bóng bàn, chạy ngay ra khỏi cửa
lớp. Hai bạn chạy đến sân bóng để chơi bóng bàn. Hai bạn chạy đến cầu thang
thì thấy rất nhiều bạn lớp khác đang chen chúc chạy như bay xuống cầu thang
hoặc trượt trên tay vịn cầu thang xuống đất. Lâm và Huy liền can các bạn, bảo
các bạn từ từ kẻo nguy hiểm.
Bé cần lưu ý các hướng dẫn dưới đây:
1. Ở nơi cộng cộng, khi lên xuống cầu thang cần hết sức trật tự, đi theo
dòng người, kẻo sẽ va vào người khác gây nguy hiểm.
2. Khi lên xuống cầu thang, không được đùa nghịch, xô đẩy bạn đứng
trước, kẻo sẽ làm bạn ấy ngã.
3. Không được trượt trên tay vịn cầu thang, rất nguy hiểm.
4. Nên bước từng bậc một, không nhảy cóc hai ba bậc, rất dễ bị trẹo chân.
20/28
- Xem thêm -