Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế giữa các thương nhân bằng trọng t...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế giữa các thương nhân bằng trọng tài và thực tiễn ở việt nam

.PDF
84
285
64

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ********************** KHÓA LUẤN TỐT NGHIỆP Đề tài: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ GIỮA CÁC THƯƠNG NHÂN BẰNG TRỌNG TÀI VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện Lớp : PGS.TS. Hoàng Ngọc Thiết : Lý Thị Tiến : Pháp 1 - K38E HÀ NỘI – 2003 Mục lục LỜI NÓI ĐẦU ……………………………………………………2 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI ...................................... 5 1.1. Trọng tài và thẩm quyền xét xử của trọng tài ...................................................... 5 1.1.2. Khái niệm trọng tài ........................................................................ 5 1.1.2. Các loại trọng tài............................................................................ 7 1.1.3. Thẩm quyền xét xử của trọng tài.................................................. 10 1.2. Thủ tục tố tụng trọng tài ................................................................................................15 1.2.1. Thủ tục tố tụng trọng tài............................................................... 15 1.2.2. Sự khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tố tụng toà án trong giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế. ........................................... 19 1.2.3. Ưu thế của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với toà án22 1.3. Phán quyết trọng tài .........................................................................................................23 1.3.1. Khái niệm phán quyết trọng tài .................................................... 23 1.3.2. Hiệu lực của phán quyết trọng tài................................................. 25 1.4. Thi hành phán quyết trọng tài .....................................................................................27 1.4.1. Thi hành phán quyết trọng tài trong nước .................................... 29 1.4.2. Thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài .................................... 30 CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ TỔ CHỨC TRỌNG TÀI TRÊN THẾ GIỚI ................................................................... 37 2.1. Hiệp hội trọng tài Mỹ (The American Arbitration Association- AAA)38 2.2. Toà án trọng tài quốc tế của Phòng thương mại quốc tế ICC- (The ICC International Court of Arbitration) ....................................................................................39 2.3. Trọng tài thương mại Trung Quốc............................................................................41 2.3. Viện trọng tài Thái Lan (Thai arbitration institute- TAI) ..............................46 1.5. Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore ( The Singapore International Arbitration Centre-SIAC) .......................................................................................................47 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CÓ LIÊN QUAN.......................................................................................................... 50 3.1. Qui định hiện hành về trọng tài ở Việt Nam ......................................................50 3.1.1. Các văn bản pháp luật đề cập tới việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài đang được áp dụng ở Việt Nam hiện nay.................. 50 3.1.2. Pháp lệnh trọng tài thương mại ngày 25/2/2003 của Việt Nam .... 55 3.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa các thương nhân bằng trọng tài ở Việt Nam.........................................................................................60 3.2.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại ở Việt Nam .................. 60 3.2.2. Thực tiền giải quyết tranh chấp thương mại tại VIAC.................. 65 3.3. Một số kiến nghị có liên quan đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam ....................................................................................................................................73 3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam ... 73 3.3.2. Kiến nghị đối với các trung tâm trọng tài ở Việt Nam.................. 75 3.3.3. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ................................................................................................. 76 KẾT LUẬN................................................................................................. 81 LỜI NÓI ĐẦU Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đã và đang phát triển và phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới theo nền kinh tế thị trường và xu hướng sử dụng các biện pháp ngoài toà án (ADR) đã mang tính toàn cầu. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. TRONG LÀM ĂN KINH TẾ, TRANH CHẤP LÀ ĐIỀU TẤT YẾU KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI NHẤT LÀ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ DO CÁC BÊN CÓ SỰ KHÁC BIỆT VỀ NGÔN NGỮ, VĂN HOÁ, TẬP TỤC, TRÌNH ĐỘ, QUYỀN VÀ LỢI ÍCH NGOÀI RA CHƯA KỂ ĐẾN CÁC GIAN LẬN TRONG QUAN HỆ HỢP TÁC. ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP NÀY LÀ ĐIỀU KHÔNG PHẢI ĐƠN GIẢN. VIỆC GIẢI QUYẾT CÓ THỂ BẰNG CON ĐƯỜNG THƯƠNG LƯỢNG, HOÀ GIẢI, TOÀ ÁN HAY TRỌNG TÀI NHƯNG VIỆC GIẢI QUYẾT THÔNG QUA TRỌNG TÀI VẪN ĐƯỢC DÙNG NHIỀU HƠN CẢ DO NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP NÀY LÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MỘT CÁCH NHANH CHÓNG, TRIỆT ĐỂ VÀ BÍ MẬT. Trọng tài Việt nam tuy đã ra đời từ rất lâu song hoạt động chưa có hiệu quả do cơ chế pháp luật về trọng tài còn nhiều bất cập và một phần do các thương nhân chưa hiểu rõ về cách giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Mới đây, Quốc hội Việt Nam đã ban hành pháp lệnh trọng tài thương mại nhằm khắc phục những thiếu sót về luật từ trước tới nay, tạo điều kiện cho trọng tài thương mại ở nước ta phát triển. Trong điều kiện đó, tôi chọn “Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế giữa các thương nhân bằng phương pháp trọng tài và thực tiễn ở Việt Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình với mong muốn giúp cho các thương nhân Việt Nam hiểu rõ hơn về trọng tài thương mại và việc phát triển trọng tài thương mại ở Việt Nam. Tôi vô cùng biết ơn gia đình tôi đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như trong thời gian làm khoá luận. Tôi xin cám ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã dạy dỗ tôi và đặc biêt tôi xin cám ơn PGS. TS. Hoàng Ngọc Thiết đã hướng dẫn tôi làm khoá luận này. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI 1.1. Trọng tài và thẩm quyền xét xử của trọng tài 1.1.2. Khái niệm trọng tài Trọng tài thương mại được hiểu ngắn gọn là trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại. Để hiểu được rõ hơn khái niệm “trọng tài thương mại” chúng ta tìm hiểu khái niệm “thương mại” là gì. Ở các nước kinh tế thị trường phát triển ở mức cao người ta thường sử dụng khái niệm thương mại và quy định phạm vi của nó khá rõ ràng trong các văn bản pháp luật với phạm vi rộng. Các quan hệ thương mại được phân biệt với các quan hệ dân sự ở mục đích sử dụng của nó: các quan hệ thương mại là các quan hệ nhằm mục đích thu lợi nhuận còn các quan hệ dân sự là các quan hệ chỉ nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu cá nhân. Ví dụ nếu như người mua khiếu nại người bán thì được coi là quan hệ thương mại, nhưng nếu người tiêu dùng khiếu nại người bán thì lại được coi là quan hệ dân sự. Luật Thương mại Việt Nam quy định rõ trong điều 5 rằng “hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội. Dịch vụ thương mại gồm những dịch vụ gắn liền với việc mua bán hàng hoá. Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại”. Như vậy là Luật thương mại quy định khái niệm “thương mại” theo nghĩa hẹp, tức là chỉ các hoạt động mua bán hàng hoá và những hoạt động gắn với việc mua bán hàng hoá. Trong phần chú thích của Điều 1 Luật mẫu UNCITRAL, người ta cho rằng “khái niệm thương mại cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hợp đồng hay không. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hạn với các giao dịch sau đây: bất kì giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hay dịch vụ, hợp đồng phân phối; đại diện thương mại hay đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li-xăng. đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ”. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Luật mẫu UNCTRAL đã đưa ra gợi ý về một phạm vi khái niệm thương mại rất rộng so với khái niệm thương mại của Việt Nam. Trong Pháp lệnh trọng tài thương mại của Việt Nam mới được ban hành ngày 25/2/2003 vừa qua chúng ta đã có một sự đổi mới trong cách hiểu về khái niệm thương mại. Khoản 3 điều 2 của Pháp lệnh này quy định: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường không, đường biểm, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Như vậy ta có thể thấy Pháp lệnh trọng tài thương mại đã mở rộng khái niệm thương mại ra rất nhiều và khái niệm này gần giống với Luật mẫu UNCITRAL. Từ đó, rút ra khái niệm trọng tài thương mại là quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại do các bên tự nguyện lựa chọn trong đó bên thứ ba trung lập (trọng tài) sau khi nghe các bên trình bày sẽ đưa ra một quyết định (phán quyết trọng tài) có tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp 1.1.2. Các loại trọng tài TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY, SỐ LƯỢNG NHỮNG VỤ TRANH CHẤP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT BẰNG TRỌNG TÀI NGÀY CÀNG TĂNG. CÁC TỔ CHỨC TRỌNG TÀI PHI CHÍNH PHỦ ĐÃ PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ CHƯA TỪNG THẤY Ở KHẮP CÁC NƠI TRÊN THẾ GIỚI, ĐẶC BIỆT LÀ Ở KHU VỰC CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG, NƠI ĐƯỢC COI LÀ KHU VỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NĂNG ĐỘNG NHẤT TRÊN THẾ GIỚI. Ở CÁC QUỐC GIA KHÁC NHAU, TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI PHI CHÍNH PHỦ CÓ NHỮNG TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM KHÁC BIỆT, PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ –XÃ HỘI CỦA MỖI NƯỚC. TUY VẬY, NHÌN CHUNG, CHÚNG TA CÓ THỂ CHIA TRỌNG TÀI KINH TẾ PHI CHÍNH PHỦ RA LÀM HAI LOẠI CHÍNH DỰA TRÊN PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH TỐ TỤNG: A/ TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT HAY TRỌNG TÀI VỤ VIỆC (AD-HOC ARBITRATION) TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT LÀ LOẠI HÌNH TRỌNG TÀI MÀ DO CÁC BÊN TỰ THÀNH LẬP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ HỌ YÊU CẦU, SAU KHI GIẢI QUYẾT XONG VỤ TRANH CHẤP THÌ GIẢI TÁN. NHƯ VẬY, TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT HOÀN TOÀN PHỤ THUỘC VÀO SỰ TỰ DO THOẢ THUẬN CỦA CÁC BÊN TRANH CHẤP. CÁC BÊN TRANH CHẤP CÓ TOÀN QUYỀN LỰA CHỌN BẤT KỲ MỘT NGƯỜI NÀO LÀM TRỌNG TÀI VIÊN ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA MÌNH. NGƯỜI NÀY CHỈ CẦN ĐƯỢC CÁC BÊN NHẤT TRÍ CHỨ KHÔNG BỊ GIỚI HẠN BỞI BẤT KỲ MỘT ĐIỀU KIỆN NÀO NHƯNG NẾU CÁC BÊN THỐNG NHẤT LỰA CHỌN MỘT NGƯỜI KHÔNG ĐỦ KHẢ NĂNG THÌ CHÍNH HỌ LÀ NGƯỜI SẼ PHẢI GÁNH CHỊU HẬU QUẢ DO SỰ ĐỀ CỬ CỦA MÌNH ĐEM LẠI. DO ĐÓ, TRỌNG TÀI VIÊN THƯỜNG LÀ NGƯỜI CÓ UY TÍN, KINH NGHIỆM, TINH THÔNG NGHIỆP VỤ TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ CÔNG MINH TRONG XÉT XỬ. NGOÀI RA, CÁC BÊN TRANH CHẤP CÒN CÓ TOÀN QUYỀN TRONG VIỆC THOẢ THUẬN ĐỂ TỰ THIẾT LẬP NHỮNG THỦ TỤC, NGUYÊN TẮC TỐ TỤNG RIÊNG SAO CHO PHÙ HỢP VỚI TRANH CHẤP CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI TUÂN THEO BẤT KỲ MỘT NGUYÊN TẮC SẴN CÓ NÀO. NHƯNG HỌ CŨNG CÓ THỂ THOẢ THUẬN CHẤP NHẬN MỘT HỆ THỐNG QUY ĐỊNH MẪU VỀ TRỌNG TÀI, ĐIỂN HÌNH NHƯ BẢN QUY TẮC TRỌNG TÀI CỦA UNCITRAL THÔNG QUA NGÀY 28/4/1976 HAY LUẬT MẪU UNCITRAL THÔNG QUA NGÀY 21/6/1985. NHƯ VẬY, TỔ CHỨC VÀ TỐ TỤNG CỦA TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT KHÁ ĐƠN GIẢN, CÓ THỂ TIẾT KIỆM ĐƯỢC THỜI GIAN VÀ CHI PHÍ CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN. TUY NHIÊN TRÊN THỰC TẾ, HÌNH THỨC TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT CHỈ THÍCH HỢP VỚI NHỮNG TRANH CHẤP CÓ GIÁ TRỊ NHỎ, HOẶC GIỮA CÁC BÊN ĐƯƠNG SỰ AM HIỂU PHÁP LUẬT, DÀY DẠN TRÊN THƯƠNG TRƯỜNG VÀ CÓ NHIỀU KINH NGHIỆM TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP. Ở VIỆT NAM, TRƯỚC ĐÂY CHƯA CÓ QUI ĐỊNH CỤ THỂ VỀ HÌNH THỨC TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT NÀY. TUY NHIÊN, PHÁP LỆNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI CÓ HIỆU LỰC TỪ NGÀY 01/7/2003 ĐÃ ĐƯA RA QUI ĐỊNH VỀ LOẠI HÌNH TRỌNG TÀI NÀY TẠI ĐIỀU 26, CHÍNH THỨC CÔNG NHẬN LOẠI HÌNH TRỌNG TÀI NÀY VÀ ĐỒNG THỜI CŨNG ĐÃ ĐƯA RA ĐƯỢC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HẠN CHẾ NÊU TRÊN CỦA TRỌNG TÀI AD-HOC.  Trọng tài thường trực hay trọng tài qui chế (Institutional Arbiration) Trọng tài thường trực là trọng tài được thành lập ra và hoạt động thường xuyên theo một quy chế nhất định, có cơ quan thường trực (trung tâm trọng tài). đối với trọng tài thường trực, khi lựa chọn trọng tài viên, các bên thường chỉ được lựa chọn trong một danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài, hoặc ít nhất trọng tài viên cũng phải đáp ứng được một số điều kiện tối thiểu do trung tâm trọng tài đặt ra. Khi xét xử, trọng tài thường trực phải tuân theo qui tắc tố tụng đã định trước của trung tâm. Như vậy, đối với hình thức trọng tài thường trực, quyền tự do của các bên bị hạn chế một phần nên có thể coi trọng tài thường trực là hình thức trung gian giữa trọng tài đặc biệt và toà án. Tuy nhiên, đây cũng là thuận lợi cho các bên chưa có nhiều kinh nghiệm trong thương mại quốc tế bởi vì các bên tranh chấp không cần phải qui định quá chi tiết về qui tắc, thủ tục tố tụng mà chỉ cần qui định trung tâm trọng tài nào sẽ giải quyết tranh chấp giữa các bên và chấp nhận qui tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đó. Hình thức trọng tài thường trực có rất nhiều ưu điểm, với một điều lệ và quy tắc tố tụng độc lập, tương đối ổn định, với thực tiễn và kinh nghiệm phong phú được tích luỹ qua quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp, với một đội ngũ những trọng tài viên là những chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (thương mại quốc tế, hàng hải quốc tế, thanh toán quốc tế, luật quốc tế...) khiến cho quá trình tố tụng diễn ra một cách nhanh chóng và hiệu quả. Do đó, các tổ chức trọng tài phi chính phủ thường trực đã được thành lập ở rất nhiều nước trên thế giới. Có những nước như Trung quốc, Thái Lan...trọng tài thường trực được tổ chức dưới hình thức các trung tâm trọng tài bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp, nhưng cũng có những nước trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng công ty hoặc hiệp hội trọng tài như ở Nhật, Mỹ, Anh,... Ở Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam được thành lập theo quyết định số 204/TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài hàng hải và Hội đồng trọng tài ngoại thương. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có nhiệm vụ xét xử các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế và từ ngày 15/4/1996, Trung tâm được phép mở rộng thẩm quyền xét xử sang các quan hệ kinh tế phát sinh trong nước. Trung tâm hoạt động theo điều lệ riêng, xét xử theo quy tắc tố tụng riêng và là tổ chức trọng tài thương mại có uy tín nhất hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có các trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo NĐ 116 tuy nhiên các trung tâm này hoạt động kém hiệu quả và ít được biết đến. 1.1.3. Thẩm quyền xét xử của trọng tài Ở các nước trọng tài được lập ra để xét xử các tranh chấp phát sinh trong thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Nhưng đối với một tranh chấp cụ thể thì trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử khi các bên giao tranh chấp trong thương mại cho trọng tài giải quyết chứ trọng tài không thể tự mình đem tranh chấp ra xét xử (trừ trường hợp Trọng tài kinh tế Nhà nước ở Việt Nam nhưng hiện nay đã chấm dứt hoạt động). Trong hoạt động ngoại thương, thẩm quyền xét xử của trọng tài đối với các tranh chấp cụ thể có thể được quy định trong hợp đồng, trong một văn bản thoả thuận riêng về trọng tài giữa các bên, hoặc trong điều ước quốc tế có liên quan. */ Theo thoả thuận trọng tài Thoả thuận trọng tài (còn được gọi là hiệp nghị trọng tài) là thoả thuận giữa các bên cam kết đưa ra trọng tài để giải quyết tất cả hoặc một số loại tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau về một quan hệ pháp luật nhất định, theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới dạng một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc một văn bản thoả thuận riêng (điều 7.1 Luật mẫu UNCITRAL) Trong khi đàm phán, ký kết hợp đồng, các bên có thể thoả thuận điều khoản về trọng tài, trong đó qui định trọng tài nào có quyền giải quyết tranh chấp có thể phát sinh sau này. Điều khoản trọng tài này trở thành một phần của hợp đồng. Khi đó, điều khoản trọng tài trong hợp đồng được coi là một hình thức của thoả thuận trọng tài. Tất nhiên, vào lúc này chưa thể xác định được tranh chấp có xảy ra hay không và xảy ra tranh chấp gì. Vì vậy, điều khoản trọng tài thường mang tính tổng quan, không đi vào chi tiết, tuy nhiên sẽ rất thuận lợi nếu các bên thống nhất về việc chọn cơ quan trọng tài nào, ở đâu có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng như thống nhất về thể thức chỉ định trọng tài viên. Trong bản quy tắc trọng tài UNCITRAL 1976, điều 21 quy định như sau: “1. Uỷ ban trọng tài sẽ có quyền quyết định về việc phản đối uỷ ban trọng tài không có thẩm quyền giải quyết, kể cả bất cứ sự phản đối về việc tồn tại hoặc giá trị pháp lý của điều khoản trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài riêng. 2. Uỷ ban trọng tài sẽ có quyền quyết định về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của hợp đồng mà trong đó điều khoản trọng tài hợp thành như là một phần của nó. Vì mục đích của điều 21 này, một điều khoản trọng tài sẽ được xem như là một thoả thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Một quyết định bởi uỷ ban trọng tài cho rằng hợp đồng vô hiệu và không có giá trị sẽ không kéo theo làm mất hiệu lực pháp lý của điều khoản trọng tài”. Như vậy, điều khoản trọng tài trong hợp đồng là độc lập tương đối so với hợp đồng vì nó được coi như một dạng của thoả thuận trọng tài. Có nghĩa là khi hợp đồng vô hiệu thì điều khoản trọng tài vẫn có hiệu lực trừ phi người ký kết hợp đồng không đủ năng lực hành vi Nếu trong hợp đồng không có điều khoản trọng tài, thì trong quá trình thực hiện hợp đồng, thường là khi tranh chấp đã xảy ra nhưng cũng có thể là khi tranh chấp chưa xảy ra, các bên cũng có thể ký một văn bản thoả thuận giao tranh chấp cho một tổ chức trọng tài nào đó giải quyết; thoả thuận này, cũng có thể được ghi nhận qua việc trao đổi thư từ hoặc điện tín ( sau đây gọi chung là văn bản trọng tài). Văn bản trọng tài cũng được coi là một hình thức của thoả thuận trọng tài. Trong trường hợp này văn bản trọng tài thường chính xác, chi tiết hơn so với điều khoản trọng tài vì các bên giao kết nắm được đầy đủ nguyên nhân xảy ra tranh chấp. Nhưng đây cũng là lý do mà văn bản trọng tài ít được xác lập trên thực tế, do vụ tranh chấp đã làm đối lập quyền lợi của các bên, làm hạn chế đáng kể thoả thuận giữa họ. Thoả thuận trọng tài là cơ sở để khẳng định thẩm quyền của trọng tài đối với tranh chấp trong thương mại quốc tế. Trọng tài chỉ có thẩm quyền khi thoả thuận trọng tài có hiệu lực. Vậy thì khi nào thoả thuận trọng tài có hiệu lực? Thoả thuận trọng tài có hiệu lực khi nội dung và hình thức của nó phù hợp với luật pháp. Về nội dung thì một thoả thuận trọng tài phải hàm chứa các nội dung sau  Cơ quan giải quyết tranh chấp  Quy tắc tố tụng trọng tài đước áp dụng  Trọng tài viên được chỉ định để giải quyết tranh chấp  Địa điểm giải quyết tranh chấp Hầu hết luật pháp các nước đều quy định thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản, tuy nhiên có những nước qui định thoả thuận trọng tài có thể lập bằng miệng. Công ước New york 1958, công ước Châu Âu 1961 đều qui định rằng: thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản tuy nhiên lại có cách giải thích khác nhau về hình thức văn bản của thoả thuận trọng tài. Công ước New york 1958 khẳng định: “một thoả thuận trọng tài bằng văn bản được hiểu là điều khoản trọng tài trong một hợp đồng bằng văn bản thoả thuận trọng tài được các bên ký kết bằng văn bản độc lập với hợp đồng hoặc được ghi nhận trong việc trao đổi thư từ hoặc điện tín”. Công ước Châu Âu 1961 mở rộng qui định hình thức văn bản của thoả thuận trọng tài còn bao gồm cả thoả thuận trọng tài hàm chứa trong Telex. Trong Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam 2003 qui định thoả thuận trọng tài phải được làm băng văn bản, bao gồm cả những hình thức như thư từ, tài liệu trao đổi giữa các bên. Những qui định không giống nhau này làm phát sinh khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp khi có sự xung đột pháp luật về hình thức của thoả thuận trọng tài. Thoả thuận trọng tài sẽ là vô hiệu khi trái với qui định của pháp luật về nội dung và hình thức của thoả thuận. Ngoài ra thoả thuận sẽ không có hiệu lực khi người kí kết thoả thuận không có đủ năng lực hành vi theo qui định của luật pháp. */Theo điều ước quốc tế Việc giao tranh chấp cho trọng tài thương mại xét xử cũng có thể được quy định trong các điều ước quốc tế. Trước đây, trong Điều kiện chung giao hàng giữa các nước thành viên khối SEV qui định trọng tài của bên bị kiện có thẩm quyền xét xử tranh chấp giữa các bên mua bán hàng hoá. Hiện nay, bản Điều kiện chung giao hàng này không còn hiệu lực nữa. Trong các điều ước quốc tế hai bên hay nhiều bên đang có hiệu lực không có qui định về thẩm quyền của trọng tài. Từ đó rút ra thẩm quyền của trọng tài hiện nay chỉ do các bên đương sự lập ra. Ngoài việc chấp nhận xét xử tranh chấp ra, trọng tài còn có thể từ chối không xét xử tranh chấp mặc dù hai bên tranh chấp có thoả thuận đưa tranh chấp ra xét xử tài cơ quan trọng tài. Đây có thể là những trưòng hợp trọng tài xét thấy rằng tranh chấp đó không thuộc thẩm quyền của mình hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu do qui định pháp luật của một trong hai bên tranh chấp mà họ không biết. 1.2. Thủ tục tố tụng trọng tài 1.2.1. Thủ tục tố tụng trọng tài THỦ TỤC TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐƯỢC TIẾN HÀNH THEO ĐÚNG QUY TẮC TỐ TỤNG CỦA TỔ CHỨC TRỌNG TÀI HOẶC QUY TẮC TỐ TỤNG MÀ HAI BÊN ĐÃ THỐNG NHẤT LỰA CHỌN. MỖI TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Ở MỘT NƯỚC ĐỀU XÂY DỰNG CHO MÌNH MỘT BẢN QUI TẮC TỐ TỤNG PHÙ HỢP VỚI ĐẶC ĐIỂM LUẬT PHÁP VỀ TRỌNG TÀI CỦA NƯỚC ĐÓ. TUY NHIÊN, ĐỂ TĂNG SỰ HẤP DẪN CỦA CÁC TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VÀ ĐỂ THUẬN TIỆN CHO VIỆC XÉT XỬ VÀ CÔNG NHẬN PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI, HẦU HẾT QUY TẮC TỐ TỤNG CỦA CÁC TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ ĐỀU CÓ XU THẾ XÍCH LẠI GẦN VỚI QUY TẮC CỦA TRỌNG TÀI ICC VÀ QUY TẮC CỦA LUẬT MẪU UNCITRAL. QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG TẠI TRỌNG TÀI QUỐC TẾ THƯỜNG BAO GỒM CÁC BƯỚC NHƯ: ĐƠN KIỆN, CHỌN VÀ CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VIÊN, CÔNG TÁC ĐIỀU TRA TRƯỚC KHI XÉT XỬ, PHIÊN HỌP XÉT XỬ, KẾT THÚC XÉT XỬ... THEO MỘT CÁCH THÔNG THƯỜNG NHẤT, TỐ TỤNG TRỌNG TÀI SẼ BẮT ĐẦU KHI ĐƠN KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN ĐƯỢC GỬI TỚI TRUNG TÂM TRỌNG TÀI. TRUNG TÂM TRỌNG TÀI XEM XÉT ĐƠN YÊU CẦU VÀ BẢN TƯỜNG TRÌNH NỘI DUNG TRANH CHẤP, NẾU THẤY TRANH CHẤP LÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI VÀ THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI GIỮA CÁC BÊN LÀ CÓ GIÁ TRỊ HIỆU LỰC PHÁP LÝ THÌ QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG SẼ BẮT ĐẦU VÀ TIẾP TỤC VỚI VIỆC HÌNH THÀNH MỘT HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI (HAY CÒN GỌI LÀ UỶ BAN TRỌNG TÀI). HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI ĐƯỢC CHỌN VÀ THÀNH LẬP THEO ĐÚNG THOẢ THUẬN CỦA CÁC BÊN. TRONG VIỆC HÌNH THÀNH HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THÌ VIỆC QUAN TRỌNG NHẤT LÀ VIỆC CHỌN VÀ CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VIÊN. THỜI GIAN CHỌN LỰA VÀ CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VIÊN CÓ THỂ DO CÁC BÊN THOẢ THUẬN. THỜI GIAN NÀY PHẢI HỢP LÝ, ĐẢM BẢO CHO CÁC BÊN LỰA CHỌN ĐƯỢC TRỌNG TÀI PHÙ HỢP ĐỒNG THỜI VẪN ĐẢM BẢO CHO QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DIỄN RA NHANH CHÓNG. NẾU CÁC BÊN KHÔNG THOẢ THUẬN VỀ VẤN ĐỀ NÀY THÌ SẼ CĂN CỨ THEO QUI TẮC TỐ TỤNG HOẶC LUẬT TRỌNG TÀI CÓ LIÊN QUAN. VÍ DỤ THEO LUẬT MẪU UNCITRAL, CÁC BÊN TRONG VÒNG 30 NGÀY KHÔNG CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI SẼ MẤT QUYỀN CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VÀ KHI ĐÓ TÒA ÁN HOẶC CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN KHÁC SẼ THAY MẶT CÁC BÊN CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VIÊN. THEO QUY TẮC CỦA HIỆP HỘI TRỌNG TÀI HOA KỲ THÌ THỜI GIAN NÀY LÀ 10 NGÀY, THEO QUY TẮC TỐ TỤNG CỦA TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM THÌ THỜI HẠN NÀY LÀ TỪ 30 NGÀY ĐẾN 2 THÁNG. PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI CỦA CÁC NƯỚC KHÁC NHAU CŨNG QUY ĐỊNH CÁCH THỨC LỰA CHỌN TRỌNG TÀI VIÊN KHÁC NHAU. THÔNG THƯỜNG NẾU TRANH CHẤP ĐƯỢC GIẢI QUYẾT BẰNG HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI GỒM BA TRỌNG TÀI VIÊN THÌ MỖI BÊN (NGUYÊN ĐƠN, BỊ ĐƠN) CHỌN MỘT TRỌNG TÀI VIÊN. HAI TRỌNG TÀI ĐƯỢC CHỌN SẼ BẦU MỘT TRỌNG TÀI VIÊN THỨ BA CÓ TÊN TRONG DANH SÁCH TRỌNG TÀI CỦA TRUNG TÂM LÀM CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI. NẾU TRANH CHẤP ĐƯỢC GIẢI QUYẾT BẰNG MỘT TRỌNG TÀI VIÊN DUY NHẤT THÌ CÁC BÊN TỰ THƯƠNG LƯỢNG CHỌN RA. ĐÂY LÀ PHƯƠNG THỨC CHỌN LỰA PHỔ BIẾN NHẤT THEO THÔNG LỆ QUỐC TẾ, NGOÀI RA MỖI NƯỚC CÓ THỂ CÓ CÁC CÁCH QUI ĐỊNH KHÁC. VÍ DỤ TẠI MỸ, NGOÀI PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG LÀ VIỆC CHỌN LỰA TRỌNG TÀI VIÊN DO CÁC BÊN THỰC HIỆN, NGÀY NAY CÓ MỘT PHƯƠNG PHÁP MỚI ĐƯỢC ÁP DỤNG RẤT PHỔ BIẾN LÀ: CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC SẼ ĐỨNG RA LÀ NGƯỜI THAY MẶT CÁC BÊN ĐƯƠNG SỰ CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI , GIÚP VIỆC CHO CƠ QUAN HÀNH CHÍNH TRONG VIỆC LỰA CHỌN NÀY LÀ HIỆP HỘI TRỌNG TÀI HOA KỲ. CŨNG CÓ KHI, CÁC THƯƠNG NHÂN THOẢ THUẬN LUÔN TRONG ĐIỀU KHOẢN TRỌNG TÀI NHỜ HIỆP HỘI TRỌNG TÀI CHỈ ĐỊNH LUÔN TRỌNG TÀI VIÊN KHI CÓ TRANH CHẤP PHÁT SINH. CÁC BÊN ĐƯỢC QUYỀN LỰA CHỌN VÀ CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VIÊN THÌ CŨNG CÓ QUYỀN TỪ CHỐI TRỌNG TÀI VIÊN DO CHÍNH HỌ CHỈ ĐỊNH. LUẬT MẪU UNCITRAL QUY ĐỊNH: “MỘT TRỌNG TÀI VIÊN CÓ THỂ BỊ TỪ CHỐI NẾU CÓ THỂ GÂY NÊN NHỮNG NGHI NGỜ CHÍNH ĐÁNG VỀ SỰ CÔNG MINH VÀ TÍNH ĐỘC LẬP KHÁCH QUAN CỦA MÌNH, HOẶC KHI TRỌNG TÀI VIÊN KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN VÀ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NHƯ CÁC BÊN ĐÃ THOẢ THUẬN.” QUY TẮC TRỌNG TÀI CỦA TUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ SINGAPORE CŨNG QUY ĐỊNH: BẤT KỲ TRỌNG TÀI VIÊN NÀO CŨNG CÓ THỂ BỊ KHƯỚC TỪ,.. MỘT BÊN CHỈ CÓ THỂ KHƯỚC TỪ TRỌNG TÀI VIÊN DO CHÍNH MÌNH CHỈ ĐỊNH. PHÙ HỢP VỚI THÔNG LỆ QUỐC TẾ, NGHỊ ĐỊNH 116 CP VÀ QUY TẮC TỐ TỤNG VIAC CŨNG CÓ NHỮNG QUY ĐỊNH TƯƠNG TỰ. ĐIỀU 18 NGHỊ ĐỊNH 116 CP GHI: “TRỌNG TÀI VIÊN PHẢI KHƯỚC TỪ HOẶC BỊ BÊN YÊU CẦU KHƯỚC TỪ NẾU CÓ CĂN CỨ CHO THẤY TRỌNG TÀI VIÊN CÓ THỂ KHÔNG VÔ TƯ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP. MỖI BÊN CHỈ CÓ THỂ KHƯỚC TỪ TRỌNG TÀI VIÊN MÀ MÌNH ĐÃ CHỌN. ĐIỀU 11 QUY TẮC TỐ TỤNG VIAC CŨNG QUY ĐỊNH: “CÁC BÊN ĐƯƠNG SỰ CÓ QUYỀN KHƯỚC TỪ TRỌNG TÀI VIÊN… NẾU ĐƯƠNG SỰ NGHI NGỜ VỀ SỰ VÔ TƯ CỦA TRỌNG TÀI VIÊN.” THỦ TỤC CỦA VIỆC KHƯỚC TỪ TRỌNG TÀI VIÊN DO CÁC BÊN THOẢ THUẬN HOẶC TUÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT. THÔNG THƯỜNG, VIỆC KHƯỚC TỪ SẼ DO THÀNH VIÊN KHÁC CỦA UỶ BAN TRỌNG TÀI XEM XÉT VÀ QUYẾT ĐỊNH. NẾU THÀNH VIÊN KHÔNG ĐI ĐẾN QUYẾT ĐỊNH HOẶC NẾU TRƯỜNG HỢP 2 TRỌNG TÀI VIÊN HOẶC TRỌNG TÀI VIÊN DUY NHẤT BỊ KHƯỚC TỪ THÌ CHỦ TỊCH TRUNG TÂM TRỌNG TÀI SẼ QUYẾT ĐỊNH. VIỆC KHƯỚC TỪ TRỌNG TÀI VIÊN CŨNG ĐỂ LẠI HẬU QUẢ PHÁP LÝ NHẤT ĐỊNH; NẾU ĐƠN KHƯỚC TỪ ĐƯỢC CHẤP NHẬN THÌ VIỆC CHỌN VÀ CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VIÊN THAY THẾ SẼ ĐƯỢC TIẾN HÀNH. THAY THẾ TRỌNG TÀI VIÊN KHÁC KHƯỚC TỪ TRỌNG TÀI VIÊN Ở CHỖ: KHƯỚC TỪ DO CÁC BÊN ĐƯƠNG SỰ ĐỀ XUẤT DỰA TRÊN CÁC CĂN CỨ LUẬT ĐỊNH CÒN THAY THẾ TRỌNG TÀI VIÊN DO CÁC ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN KHIẾN TRỌNG TÀI VIÊN KHÔNG THỂ TIẾP TỤC THAM GIA GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP (VÍ DỤ NHƯ CHẾT, ỐM ĐAU, ĐI CÔNG TÁC, CÓ QUAN HỆ GẦN GŨI VỚI ĐƯƠNG SỰ MÀ TRƯỚC ĐÓ ĐƯƠNG SỰ KHÔNG BIẾT…) SAU KHI THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI, HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI SẼ ĐƯỢC TIẾP TỤC VỚI THỦ TỤC CHUẨN BỊ XÉT XỬ. ĐỊA ĐIỂM XÉT XỬ VÀ NGÔN NGỮ XÉT XỬ CŨNG LÀ MỘT TRONG NHỮNG YẾU TỐ QUAN TRỌNG TRONG QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG, CHI PHÍ ĐI LẠI VÀ PHIÊN DỊCH CÓ THỂ SẼ LÀ KHÔNG NHỎ NẾU CÁC BÊN KHÔNG KHÔN KHÉO TRONG VẤN ĐỀ NÀY. TUY NHIÊN, NẾU CÁC BÊN KHÔNG THỂ THỐNG NHẤT ĐƯỢC VẤN ĐỀ NÀY THI HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SẼ QUYẾT ĐỊNH. TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI, NGUYÊN ĐƠN PHẢI ỨNG TRƯỚC LỆ PHÍ TRỌNG TÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA BIỂU PHÍ TRỌNG TÀI. LỆ PHÍ TRỌNG TÀI CỦA CÁC TRUNG TÂM TRỌNG TÀI ĐƯỢC QUY ĐỊNH TRONG BIỂU PHÍ TRỌNG TÀI CĂN CỨ THEO TRỊ GIÁ VỤ KIÊN. TRONG QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG TRỌNG TÀI, TÍNH KHÁCH QUAN VÀ VIỆC XÉT XỬ CÔNG BẰNG PHẢI ĐƯỢC ĐẢM BẢO. HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI XÉT XỬ KHÔNG ĐƯỢC CÓ THÀNH KIẾN VỚI CÁC BÊN KHI TỐ TỤNG, CÁC BÊN PHẢI ĐƯỢC ĐỐI XỬ BÌNH ĐẲNG VÀ ĐƯỢC QUYỀN TRÌNH BÀY VỀ VỤ VIỆC. CÁC BÊN TRANH TỤNG PHẢI ĐƯỢC THÔNG BÁO VỀ VIỆC MỞ PHIÊN XỬ VÀ CÓ QUYỀN TRANH LUẬN TRỰC TIẾP, ĐƯA RA MỌI PHƯƠNG TIỆN CHỨNG MINH ĐỂ BẢO VỆ LÝ LẼ CỦA MÌNH. TỐ TỤNG TRỌNG TÀI SẼ ĐƯỢC ĐÌNH CHỈ NẾU CÁC BÊN ĐẠT ĐƯỢC SỰ HOÀ GIẢI. BIÊN BẢN HOÀ GIẢI (NẾU ĐƯỢC UỶ BAN TRỌNG TÀI CHẤP THUẬN) SẼ TRỞ THÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI VỀ ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC THOẢ THUẬN. PHÁN QUYẾT NÀY CÓ GIÁ TRỊ HIỆU LỰC NHƯ PHÁN QUYẾT VỀ NỘI DUNG VỤ KIỆN. TỐ TỤNG TRỌNG TÀI SẼ ĐƯỢC CHẤM DỨT BỞI MỘT PHÁN QUYẾT CHUNG THẨM HOẶC KHI NGUYÊN ĐƠN RÚT ĐƠN KIỆN, BỊ ĐƠN CHẤP THUẬN VÀ UỶ BAN TRỌNG TÀI CÔNG NHẬN LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG CỦA HỌ TRONG VIỆC CÓ ĐƯỢC MỘT GIẢI PHÁP CUỐI CÙNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HOẶC KHI UỶ BAN TRỌNG TÀI THẤY RẰNG VIỆC TIẾP TỤC TỐ TỤNG CÓ NHỮNG NGUYÊN NHÂN TRỞ NÊN KHÔNG CẦN THIẾT VÀ KHÔNG THỂ ĐƯỢC. TÓM LẠI, TỐ TỤNG TRỌNG TÀI ĐƯỢC BẮT ĐẦU KHI NGUYÊN ĐƠN GỬI ĐƠN YÊU CẦU TỚI TRUNG TÂM TRỌNG TÀI, TRUNG TÂM TRỌNG TÀI GỬI ĐƠN KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN CHO BỊ ĐƠN MÀ BỊ ĐƠN KHÔNG CÓ SỰ PHẢN ĐỐI HOẶC HỢP PHÁP NÀO. TRONG QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG TRỌNG TÀI, YẾU TỐ THOẢ THUẬN LUÔN ĐƯỢC TÔN TRỌNG VÀ ĐƯA LÊN HÀNG ĐẦU, VIỆC ÁP DỤNG LUẬT CHỈ XẢY RA NẾU CÁC BÊN KHÔNG THOẢ THUẬN ĐƯỢC. QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG ĐƯỢC ĐÌNH CHỈ NẾU NHƯ CÁC BÊN ĐẠT ĐƯỢC GIẢI PHÁP TỰ NGUYỆN. QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG CHẤM DỨT KHI CÓ PHÁN QUYẾT CHUNG THẨM GIẢI QUYẾT VỤ KIỆN HOẶC KHI CÁC BÊN YÊU CẦU CHẤM DỨT HOẶC KHI VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ KIỆN TRỎ THÀNH VIỆC KHÔNG CẦN THIẾT, KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC. 1.2.2. Sự khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tố tụng toà án trong giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế. TRỌNG TÀI VÀ TOÀ ÁN ĐỀU LÀ NHỮNG CƠ QUAN TÀI PHÁN. MỤC ĐÍCH ĐỀU NHẰM GIẢI QUYẾT NHỮNG TRANH CHẤP PHÁT SINH. MỖI PHƯƠNG PHÁP ĐỀU CÓ NHỮNG ƯU ĐIỂM RIÊNG MÀ TRONG TỪNG VỤ VIỆC CỤ THỂ, SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÀY HAY PHƯƠNG PHÁP KIA SẼ PHÁT HUY ĐƯỢC LỢI THẾ CỦA CHÚNG. KHI NGHIÊN CỨU VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG PHÁP TRỌNG TÀI, VIỆC NẮM BẮT NHỮNG ƯU ĐIỂM KHÁC NHAU CỦA PHƯƠNG PHÁP NÀY SO VỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TOÀ ÁN LÀ RẤT CẦN THIẾT. */ Về thẩm quyền xét xử Trọng tài và toà án đều không có thẩm quyền đương nhiên đối với những tranh chấp trong thương mại quốc tế giữa các thương nhân. Tuy nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ khi tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế, muốn kiện ra toà án, các bên đương sự phải kiện theo qui định theo pháp luật về thẩm quyền theo vụ việc, thẩm quyền theo giá trị vụ kiện, thẩm quyền theo lãnh thổ toà án. Do đó, sự lựa chọn toà án là rất hạn chế. Còn trong tố tụng trọng tài tại các trung tâm trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh chấp không phụ thuộc vào quốc tịch của các bên tranh chấp, nơi có trụ sở thương mại, nơi cư trú của các bên hoặc nơi có tài sản của các bên. */ Về thủ tục tố tụng Đây là điểm khác biệt quan trọng giữa hai hình thức. Bản chất của trọng tài là dựa trên cơ sở sự thoả thuận của các bên tham gia tranh chấp, do đó, trong suốt quá trình tố tụng trọng tài, sự thoả thuận của các bên luôn được coi trọng. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên cũng như có quyền thoả thuận về thủ tục tố tụng. Trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên trong trường hợp các bên không thể lựa chọn được. Đối với tố tụng tại toà án thì thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp do Chánh án phân công, các bên đương sự chỉ có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng trên cơ sở căn cứ luật định. */ Phiên họp xét xử Về cơ bản, đây là nơi mà thẩm phán cũng như các trọng tài viên tiến hành xét xử tranh chấp trên cơ sở những chứng cứ thu được ở giai đoạn trước. Thời gian và địa điểm tiến hành phiên toà trong tố tụng toà án do cơ quan tư pháp ấn định còn trong tố tụng trọng tài nó phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự. Thông thường, thời gian và địa điểm diễn ra phiên toà trong tố tụng toà án phải vào giờ hành chính và tại phòng xử án mà toà án qui định. Tuy nhiên trong tố tụng trọng tài thì hoàn toàn khác. Với mục đích đảm bảo uy tín và bí mật trong kinh doanh, nơi diễn ra phiên xét xử cũng như địa điểm diễn ra phiên xét xử do hai bên tự thoả thuận để phù hợp với điều kiện của mình, nếu các bên không thoả thuận được thì địa điểm xét xử do Hội đồng trọng tài quyết định. Nó không nhất thiết phải diễn ra vào giờ hành chính hay ngày làm việc, cũng không nhất thiết phải ở trụ sở của trung tâm trọng tài mà có thể ở bất cứ đâu. Hơn nữa việc xét xử của toà án dựa trên nguyên tắc xét xử công khai, ngoài các bên đương sự ra có nhiều người khác tham dự phiên xét xử, phiên xét xử cũng có thể đựơc đưa trực tiếp hoặc gián tiếp lên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền thanh, truyền hình… Điều này gây
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan