Giải quyết tranh chấp môi trường
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................1
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG.............2
1. Khái niệm chung.............................................................................2
2.Những dấu hiệu đặc trưng của tranh chấp môi trường...............5
2.1 Tranh chấp môi trường là xung đột mà trong đó lợi ích tư và lợi ích công
thường gắn chặt với nhau...........................................................................................5
2.2 Tranh chấp môi trường thường xảy ra với quy mô lớn liên quan đến nhiều tổ
chức, cá nhân, các cộng đồng dân cư, thậm chí đến nhiều quốc gia..........................6
2.2. Vị thế các bên tranh chấp môi trường thường không công bằng ........................7
2.3 Tranh chấp môi trường có thể nảy sinh ngay từ khi chưa có sự xâm hại thực tế
đến quyền và lợi ích hợp pháp về môi trường............................................................7
2.4 Giá trị của những thiệt hại trong tranh chấp môi trường rất lớn và khó xác định.
....................................................................................................................................8
3. Các nguyên nhân gây ra tranh chấp môi trường:.......................8
3.1 Sự nhận thức không đầy đủ về tài nguyên. .........................................................8
3.2 Sự tồn tại của các giá trị khác nhau. ....................................................................9
3.3 Thiếu sự tham gia đóng góp của cộng đồng và các bên liên quan. .....................9
3.4 Sự phân bố quyền lực khác nhau giữa các nhóm xã hội. ....................................9
3.5 Cơ thế chính sách về bảo vệ môi trường yếu kém. ...........................................10
4. Yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết tranh chấp môi trường. 11
4.1 Ưu tiên bảo vệ các quyền lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. ................11
4.2 Đảm bảo duy trì mối quan hệ bảo vệ môi trường giữa các bền vững................11
4.3 Ngăn chặn sớm nhất sự xâm hại đối với môi trường ........................................12
4.4 Đảm bảo xác định một cách có căn cứ giá trị thiệt hại đến môi trường.............12
4.5 Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp môi trường nảy sinh. ............13
II. CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG:..............13
1. Định nghĩa cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường:..............13
1.1 Định nghĩa:.........................................................................................................13
1.2 Các phương tiện pháp lý đặc thù để giải quyết tranh chấp môi trường gồm:....14
2. Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp môi
trường:...............................................................................................14
2.1 Nguyên tắc công quyền can thiệp:.....................................................................14
2.2 Nguyên tắc phòng ngừa: ....................................................................................15
2.3 Nguyên tắc phối hợp,hợp tác:.............................................................................17
2.4 Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá:......................................................17
2.5 Nguyên tắc tham vấn chuyên gia:......................................................................18
3.Các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường:.................18
3.1 Thương lượng:....................................................................................................19
3.2 Hòa giải:.............................................................................................................20
3.3 Giải quyết tranh chấp tại các cơ quan có thẩm quyền:.......................................22
4. Trình tự giải quyết tranh chấp môi trường:..............................25
4.1 Kiểm tra, xác minh những nội dung được phản ánh trong đơn thư khiếu kiện: 25
4.2 Hướng dẫn bên bị thiệt hại thu thập các chứng cứ về sự thiệt hại và xác định
yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại:..............................................................................27
4.3 Tham gia giải quyết tranh chấp, góp phần điều hòa lợi ích giữa các bên xung
đột:............................................................................................................................30
5.Thủ tục hành chính giải quyết khiếu nại, tranh chấp môi
trường:...............................................................................................31
6. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải
quyết tranh chấp môi trường:.........................................................35
III. THỰC TRẠNG TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG:..........................36
1. Một số tồn tại trong các văn bản pháp luật về tranh chấp môi
trường:...............................................................................................36
1.1 Xử lý hình sự vi phạm môi trường.....................................................................36
1.2 Xử lí hành chính vi phạm môi trường:...............................................................39
2.Tình trạng tranh chấp môi trường trong thực tế ở nước ta hiện nay:
.....................................................................................................................48
IV/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI
TRƯỜNG:..................................................................................................60
1. Nâng cao ý thức pháp luật cho người dân đồng thời xây dựng
cụ thể khung pháp lý riêng cho giải quyêt tranh chấp môi trường:
.............................................................................................................61
2.Thành lập tổ chức ứng phó đề phòng các vấn đề, sự cố môi
trường:...............................................................................................63
5. Tăng nặng chế tài xử phạt hành chính:......................................71
6. Thay đổi khung hình phạt cho các tội phạm về môi trường:....72
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................76
LỜI MỞ ĐẦU
Con người trong cuộc đời luôn hướng tới một cuộc sống ngày càng đầy
đủ, tiện nghi và làm mọi cách để có cuộc sống như thế. Xuất phát từ nhu cầu
không có giới hạn và suy nghĩ tài nguyên thiên nhiên là của chung, nguồn lợi
ích vô tận đã làm xảy ra tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi,
không có kế hoạch đúng đắn và xung đột, đấu tranh lẫn nhau để giành lấy
quyền,lợi ích khai thác nguồn tài nguyên đó. Tại Việt Nam, từ giữa những
năm 1980 trở lại đây, xung đột, tranh chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
đã nảy sinh và có chiều hướng gia tăng trên phạm vi cả nước. Không như các
loại tranh chấp khác (tranh chấp lao động, tranh chấp dân sự…), tranh chấp
môi trường mang nhiều yếu tố phức tạp như liên quan đến nhiều loại chủ thể
khác nhau về cả địa vị và quyền, xảy ra trên phạm vi rộng và gây ảnh hưởng
trong thời gian dài, thiệt hại gây ra thường lớn và khó xác định… dẫn đến
việc giải quyết tranh chấp môi trường cũng khó khăn hơn nhiều. Trong các
biện pháp giải quyết tranh chấp môi trường thì biện pháp pháp lý đóng một
vai trò quan trọng. Vậy khung pháp lý điều chỉnh vấn đề giải quyết tranh chấp
môi trường ở nước ta hiện nay được quy định như thế nào, đã phát huy vai
trò, hiệu quả đến đâu, còn những vướng mắc, khó khăn gì, cần phải hoàn
thiện ở những điểm nào? Nhóm chúng em xin chọn đề tài “Giải quyết tranh
chấp môi trường” nhằm giúp mọi người có thể hiểu được cơ bản vấn đề
tranh chấp môi trường và phương hướng giải quyết, chỉ ra thực trạng của việc
giải quyết tranh chấp môi trường trong giai đoạn hiện nay đồng thời đóng góp
một số ý kiến nhằm hoàn thiện khung pháp lý trong lĩnh vực này.
Đề tài của chúng em không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót, mong cô và
các bạn đóng góp ý kiến để nhóm chúng em có thể hoàn thành tốt đề tài này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh
Thủy, người đã trực tiếp hướng dẫn chúng em trong thời gian làm đề tài.
1
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG
1. Khái niệm chung
Trong thời gian gần đây, ở VN xuất hiện các tranh chấp về môi trường.
Điều này chứng tỏ vấn đề môi trường đang là vấn đề nóng hổi được nhiều
tầng lớp quan tâm, ý thức của người dân được nâng lên, hệ thống thực thi
quyền lực nhà nước về quản lý, kiểm soát môi trường ngày càng phát huy
hiệu lực, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng hoàn thiện, các
chuẩn mực về môi trường ngày càng được hoàn thiện.... Song bên cạnh tính
phổ biến, thì tranh chấp môi trường cũng có nhiều vấn đề cần xem xét trên cả
khía cạnh pháp lý và thực tiễn. Bởi có quá nhiều vấn đề phát sinh, chưa có
tiền lệ hoặc sự hiểu biết còn hạn chế.
Nguyên nhân chính gây xung đột, tranh chấp môi trường là sự gia tăng
nhu cầu hưëng thụ chất lượng môi trường sống, nhu cầu khai thác các tài
nguyên thiên nhiên, chống lại những giá trị hữu hạn của chúng. Môi trường
với các yếu tố cấu thành như đất, nước, không khí, rừng, hệ sinh vật... đều có
giới hạn và có khi trở thành hiếm hoi ở nơi này hoặc nơi khác. Trong bối cảnh
đó, sự đấu tranh lẫn nhau để giành lấy các yếu tố của môi trường, lợi ích của
nó dẫn đến xung đột về môi trường.
Từ giác độ xã hội học, xung đột môi trường được hiểu là xung đột vể
quyền lợi giữa các nhóm xã hội khác nhau trong việc khai thác và sử dụng các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Nhóm này muốn tước đoạt lợi
thế của nhóm khác, dẫn đến sự đấu tranh giữa các nhóm để phân phối lại lợi
thế về tài nguyên, về các yếu tố môi trường.
Từ giác độ môi trường học, xung đội môi trường được nhình nhận theo
hai khía cạnh: xung đột giữa nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội với nhu cầu
bảo vệ môi trường sống trong lành của loài người; xung đột giữa các nhóm
dân cư khác nhau trong quá trình khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên
2
môi trường.
Trong khoa học pháp lý, tranh chấp môi trường là thuật ngữ có nguồn
gốc từ thông lệ quốc tế được hình thành qua thực tiễn xét xử các vụ khiếu
kiện quốc tế về môi trường vào thế kì XX. Ở phạm vi mỗi quốc gia, tính đến
cuối thập kỉ 70, thuật ngữ tranh chấp môi trường đã được sử dụng khá phổ
biến tại nhiều nước như: Australia, Ấn Độ, Hoa Kì, Singapore, Cannada,
Bangladesh, SriLanKa, Thái Lan, Malaysia...ở các nước này thường xuyên
xuất hiện các vụ kiện liên quan đến việc khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên thiên nhiên làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác, cũng như các
vụ kiện đòi hỏi bồi thường thiệt hại về môi trường, thiệt hại vể tính mạng, sức
khỏe và tài sản do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây nên.
Tại Việt Nam, từ giữa những năm 1980 trở lại đây, xung đột, tranh chấp
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã nảy sinh và có chiều hướng gia tăng trên
phạm vi cả nước; nhiều đơn thư khiếu kiện về vấn đề môi trường đã được gửi
tới các cấp có thẩm quyền với những nội dung chính như:
•
Một là yêu cầu các cơ quan nhà nước xử lý nghiêm hành vi vi
phạm pháp luật môi trường ,buộc người gây ô nhiễm phải chấm dứt ngay
hành vi gây hại môi trường hoặc yêu cầu họ di chuyển địa điểm sản xuất đi
nơi khác.
•
Hai là yêu cầu người gây ô nhiễm phải có các biện pháp khôi
phục lại tính trạng môi trường bị ô nhiễm, phải bồi thường thiệt hại về người
và tài sản do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây nên.
•
Ba là yêu cầu các tổ chức ,cá nhân sử dụng chung các thành phần
môi trường không được khai thác quá mức giá trị sinh thái các nguồn tài
nguyên làm ảnh hường đến quyền sử dụng công cộng các yếu tố môi trường.
•
Bốn là yêu cầu các chủ dự án không được triển khai các hoạt
động phát triển có khả năng gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, phá vỡ
3
cân bằng sinh thái tại những khu vực có độ nhảy cảm cao hoặc những nơi có
đông dân cư sinh sống. Nếu vì lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia mà hoạt
động này nhất thiết phải được triển khai thì chủ dự án, chủ công trình hoặc cơ
quan chủ quản của dự án đó phải bù đắp cho người dân xung quanh những
thiệt thòi về chất lượng môi trường sống bị giảm sút do việc triển khai dự án.
•
Năm là yêu cầu cơ quan nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước
xem xét các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính có liên quan đến
lĩnh vực quản lý các tài nguyên và bảo vệ môi trường, đặc biệt là các quyết
định cấp giấy phép đầu tư, cấp phép xây dựng dự án, quyết định phê chuẩn
báo cáo đánh giá tác động môi trường, trong trường hợp này, người dân có cơ
sở cho rằng các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính chưa tuân thủ
các quy định của pháp luật môi trường, chưa dự liệu hết các tác động đến môi
trường để có biện pháp loại trừ hoặc giảm thiểu hợp lý.
Từ những yêu cầu đòi hỏi nêu trên ,có thể xác định được nội dung cơ
bản của tranh chấp môi trường là những xung đột giữa các tổ chức, cá nhân,
các cộng đồng dân cư về quyền và lợi ích liên quan đến việc phòng ngừa,
khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, về việc khai thác sử dụng
hợp lý các nguồn tài nguyên và môi trường; về quyền được sống trong môi
trường trong lành và quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản do làm
ô nhiễm môi trường gây nên.
Có thể thấy tranh chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường bao gồm các
loại như:
•
Tranh chấp giữa các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư, nhà sản
xuất trong việc khai thác, sử dụng chung các nguồn tài nguyên và các yếu tố
môi trường.
•
Tranh chấp giữa các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư với các
tổ chức, cá nhân khác về việc đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường
4
gây nên. Dạng này bao cả những tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại gây ra từ
các sự cố môi trường.
•
Tranh chấp môi trường nảy sinh trong quá trình tiến hành các dự
án phát triển gây ảnh hưởng hoặc có nguy cơ gây ảnh hưởng đến các yếu tố
môi trường thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của chủ thể khác.
2.Những dấu hiệu đặc trưng của tranh chấp môi trường.
Tranh chấp môi trường phát sinh từ các quan hệ pháp luật có nội dung
khác nhau thì khác nhau, sự khác nhau giữa chúng trước hết bị chi phối bởi
đặc trưng của các quan hệ pháp luật nội dung và thường bộc lộ những khía
cạnh như: cơ sở làm phát sính tranh chấp, chủ thể tham gia tranh chấp, lợi ích
mà các bên tranh chấp hướng tới, giá trị tranh chấp, thời điểm nảy sinh tranh
chấp... so với các tranh chấp khác,tranh chấp môi trường thường có một số
nét đặc thù sau:
2.1 Tranh chấp môi trường là xung đột mà trong đó lợi ích tư và lợi ích
công thường gắn chặt với nhau.
Đây là nét đặc trưng cơ bản nhất của tranh chấp môi trường, đặc trưng
này bắt nguồn từ chỗ lợi ích các bên tham gia quan hệ pháp luật môi trường
hướng tới mang tính đa chiều, khác với quan hệ pháp luật dân sự, thương mại,
lao động, đất đai, hôn nhân gia đình – lợi ích mà các bên đường sự hướng tới
thường có tính chất đơn nhất (một loại lợi ích - lợi ich tư). Trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường, các bên tham gia quan hệ, dù tham gia vì lợi ích tư thì vấn
hướng tới lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Lợi ích của cộng đồng,
của xã hội mà mỗi người quan tâm là chất lượng môi trường sống chung của
con người, gồm: chất lượng không khí, chất lượng nước, đất, âm thanh, sinh
vật ...khi lợi ích này bị xâm hại thì yêu cầu trước tiên mà người thụ hưởng
đưa ra là chất lượng môi trường sống của họ phải được phục hồi, cải thiện.
Bên cạnh đó, từng cá nhân trong cộng đồng, ngoài mối quan tâm kể trên còn
5
là những lợi ích gắn liền với tình trạng sức khỏe, tài sản của họ bị ảnh hưởng
bởi chất lượng môi trường sống giảm sút. Họ yêu cầu được đền bù những tồn
thất về người và tài sản mà họ phải chịu. Như vậy, đặc trưng của tranh chấp
môi trường là mỗi vụ kiện về môi trường thường có sự gắn kết loại lợi ích
chung –riêng (công - tư).
2.2 Tranh chấp môi trường thường xảy ra với quy mô lớn liên quan đến nhiều
tổ chức, cá nhân, các cộng đồng dân cư, thậm chí đến nhiều quốc gia.
Do môi trường là một thể thống nhất không thể tách rời, không bị giới
hạn bởi không gian, thời gian, nên tác động xấu ảnh hưởng đến thành phần
môi trường này sẽ ảnh hưởng xấu đến thành phần môi trường khác (theo hiệu
ứng đô mi nô). Các tác động đến môi trường thường diễn ra trên quy mô lớn,
phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan trực tiếp đến điều kiện sống của nhiều
người.
Tưong ứng với phạm vi và mức độ của những tác động xấu tới môi
trường là vi phạm và cấp độ của tranh chấp môi trường, tranh chấp có thể nảy
sinh trong phạm vi khu dân cư, tại một địa phương hoặc nhiều địa phương,
trong phạm vi khu vực và quốc tế. Điều này có nghĩa là tranh chấp môi
trường có thể nảy sinh bất cứ chủ thể nào, không phụ thuộc vào cá nhân hay
tổ chức, công quyền hay dân quyền, người trong nước hay người nước ngoài,
quốc gia phát triển hay đang phát triển và giữa họ có hay không quan hệ ngoại
giao, quan hệ hợp đồng hay công vụ... Sự đa dạng về chủ thể tham gia tranh
chấp môi trường trở nên khó kiểm soát, khó dung hòa và dễ chuyển hóa thành
các xung đột có quy mô lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội và an
toàn pháp lý, thậm chí cả những mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia láng giềng.
Sự đa dạng về chủ thể dẫn đến việc khó xác định số lượng cụ thể các
đương sự trong mỗi vụ tranh chấp môi trường. Đối với các tranh chấp trong
6
lĩnh vực khác, số lượng các bên tham gia tranh chấp luôn được xác định và
thường không quá hai hoặc ba bên. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường việc
các tranh chấp liên quan đến nhiều loại lợi ích, nhiều chủ thể khác nhau như:
lợi ích của những người làm công tác bảo tồn, các nhà sản xuất kinh doanh,
các cấp chính quyền, các tổ chức phi chính phủ (NGOs), các cộng đồng dân
cư... khiến cho tranh chấp môi trường khó được định lượng về hiệu quả.
2.2. Vị thế các bên tranh chấp môi trường thường không công bằng
Phần lớn các tranh chấp môi trường có một bên tham gia là chủ các dự
án phát triển hoặc cơ quan quản lý trong khi phía bên kia chỉ là những thường
dân với những yêu cầu, đòi hỏi về chất lượng môi trường sống của con người.
Điều dễ nhận thấy la bên thứ nhất thường ít có động cơ hơn trong việc tìm
giải pháp để hòa lợi ích xung đột. Sự bất tương xứng về vị thế giữa các bên là
một trong những trở ngại lớn của quá trình giải quyết tranh chấp. Trở ngại này
càng bộc lộ rõ hơn ở các quốc gia phải chịu nhiều áp lực từ mục tiêu phát
triển kinh tế, giảm đói nghèo do mối quan hệ đến tốc độ tăng trường kinh tế
thường được đẩy lên trước mối quan tâm đến chất lượng môi trường sống.
Trong hoàn cảnh như vậy ưu thế quá trình giải quyết xung đột thường
nghiêng về phía bên gây hại cho môi trường.
2.3 Tranh chấp môi trường có thể nảy sinh ngay từ khi chưa có sự xâm hại
thực tế đến quyền và lợi ích hợp pháp về môi trường.
Thời điểm xác định các tranh chấp môi trường nảy sinh thương sớm
hơn so với thời điểm xác định nảy sinh tranh chấp khác. Trong các tranh chấp
dân sự, kinh tế, lao động ....quyền và lợi ích mà các bên yêu cầu được bảo vệ,
phục hồi là những quyền và lợi ích đã bị phía bên kia xâm hại.
Khả năng xâm hại đến môi trường mà con người có thể dự báo thường
liên quan đến các án đầu tư, thậm chí ngày từ khi dự án chưa đi vào hoạt
động. Điều này lý giải cho việc nhiều mâu thuẫn, xung đột trong lĩnh vực môi
7
trường đã nảy sinh ngày từ giai đoạn khi các dự án đầu tư chưa triển khai
hoặc mới bắt đầu đi vào hoạt động. Vào giai đoạn này, mặc dù thiệt hại thực
tế chưa xảy ra nhưng các bên xung đột cho rằng nguy cơ nội tại sẽ xảy ra thiệt
hại đối với môi trường nếu không có biện pháp ngăn chặn kip thời..
2.4 Giá trị của những thiệt hại trong tranh chấp môi trường rất lớn và khó
xác định.
Điều này bắt nguồn từ thực tế là hậu quả do hành vi gây hại đối với môi
trường thường rất nghiêm trọng, đa dạng và biến đổi với nhiều cấp độ khác
nhau, gồm: thiệt hại trực tiếp, thiệt hại gián tiếp, thiệt hại trước mắt, thiệt hại
lâu dài thiệt hại về kinh tế, thiệt hại về sinh thái, thiệt hại về tài sản, thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe, thiệt hại đối với quốc gia thiệt hại trên phạm vi quốc
tế...
3. Các nguyên nhân gây ra tranh chấp môi trường:
Có thể nhận thấy tính “bất bình đẳng” trong phân bố và tính khan hiểm
của các nguồn tài nguyên chính là những nguyên nhân sâu xa của tranh chấp
môi trường. Xã hội càng phát triển, khoa học và công nghệ càng phát triển thì
làm tăng thêm nhóm nguyên nhân tranh chấp: Sự cạnh tranh nguồn tài nguyên
khan hiếm, sự giá tăng khoảng cách giữa giầu và nghèo, sự khác nhau trong
nhận thức… Phân tích bản chất của sự tranh chấp tài nguyên cho phép chúng
ta đưa ra một số nguyên nhân cơ bản của tranh chấp môi trường như sau:
3.1 Sự nhận thức không đầy đủ về tài nguyên.
Nguyên nhân này có thể xuất phát do việc thiếu thông tin bỏ qua thông
tin hoặc không nhận thức đúng về giá trị tài nguyên. Nhận thức không đầy đủ
về tài nguyên cũng có thể dẫn đến sự hiểu biết khác nhau trong hành động,
dẫn tới phá hoại môi trường. Nếu nhận thức rừng chỉ là nguồn cung cấp gỗ thì
rất có thể dẫn đến nhưng hành động khai thác qua mức. Nhưng nếu nhận thức
rừng là loại tài nguyên tái tạo với đầy đủ các chức năng kinh tế và sinh thái
8
thì sẽ dẫn tới những hành động hoàn toàn khác đối với tài nguyên rừng.
3.2 Sự tồn tại của các giá trị khác nhau.
Hệ thống các giá trị khác nhau có thể dẫn tới sự khác nhau về lợi ích
cũng như mục tiêu trong khai thác và sử dụng tài ngyên thiên nhiên giữa các
nhóm trong xã hội. Cùng một dòng sông, đối với các cộng đồng dân cư địa
phương thì đó là nguồn cung cấp thủy sản, nguồn nước tưới tiêu và sinh hoạt.
Nhưng đối với một số nhóm người khác trong xã hội thì đó có thể là nơi phát
triển thủy điện hoặc là nơi chứa đựng các sản phẩm phế thải. Các tài nguyên
thiên nhiên đều chứa đựng cả giá trị kinh tế và sinh thái, trong nhiều trường
hợp hai loại giá trị này không thể đánh đổi cho nhau được, cũng như không
thể hy sinh môi trường để đổi lấy lợi ích kinh tế. Hệ thống giá trị khác nhau
có thể dẫn tới sự bất bình đẳng trong phân bố nguồn lợi giữa các nhóm xã hội
và giữa các thế hệ. Thế hệ hiện tại có thể đánh giá quá cao những nguồn tài
nguyên con người mà không đánh giá đúng mức giá trị tài nguyên thiên nhiên
của các thế hệ trong tương lai.
3.3 Thiếu sự tham gia đóng góp của cộng đồng và các bên liên quan.
Tranh chấp môi trường cũng chính là tranh chấp lợi ích giữa các nhóm
trong xã hội. Thiết sự tham gia của tất cả các bên liên quan có thể dẫn đến
mất cân bằng về lợi ích của các nhóm xã hôị. Nhưng trường hợp tranh chấp
môi trường ở nước ta cũng là do thiếu sự tham gia cửa cộng đồng địa phương.
Chính sự tham gia cửa người dân sẽ đảm bảo được sự cân bằng lợi ích giữa
các nhóm xã hội, góp phần đáng kể vào sự thành công cửa các dự án, giảm
thiếu tranh chấp môi trường.
3.4 Sự phân bố quyền lực khác nhau giữa các nhóm xã hội.
Một là việc nhập siêu các tài nguyên thiên nhiên các vật liệu bảo về
môi trường từ các nước bảo vệ môi trường của quốc gia mình Ví dụ như
Trung Quốc: “Trong khi phần lớn các nước phát triển đang chìm trong hố sâu
9
nợ nần, Trung Quốc vẫn tiếp tục cuộc săn lùng tài nguyên trên phạm vi toàn
cầu với quy mô chưa từng thấy. Theo Hãng tin Bloomberg, chỉ trong năm
2009 các công ty Trung Quốc đầu tư số tiền kỷ lục 32 tỉ USD để mua lại các
tài sản năng lượng và tài nguyên khắp thế giới. Và trong năm nay, không có
dấu hiệu nào cho thấy Bắc Kinh ngừng tay. Hồi tháng 5-2010, Tập đoàn dầu
khí Na Uy Statoil đã đồng ý bán 40% cổ phần mỏ dầu Peregrino ở Brazil cho
Hãng Sinochem với giá 3,07 tỉ USD. Các công ty Trung Quốc cũng mua các
dự án khai thác cát dầu ở Canada, mỏ quặng sắt ở Guinea, mỏ dầu ở Angola
và Uganda, công ty dầu Argentina Bridas Corp. Và một công ty khí methane
lớn của Úc. Nguồn tin báo Anh Telegraph cho biết các nhà đầu tư Trung
Quốc cũng đang nhảy vào Mông Cổ để khai thác các mỏ than, đồng, vàng và
uranium giàu có ở quốc gia này. Tại Trung Á, Bắc Kinh nắm giữ cổ phần đa
số ở các mỏ dầu Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan... Mới đây, Bắc Kinh
ký hợp đồng trị giá 25 tỉ USD với Rosneft để đảm bảo hãng dầu khí Nga cung
cấp dầu cho Trung Quốc trong 20 năm tới.”
Trong nhiều trường hợp, bất chấp sự phán đối mạnh mẽ cửa các cộng
đồng địa phương, các tổ chức tài chính thế giới như: ADB, WB vấn cứ tiến
hành hố trợ một loạt các dự án phát triển có ảnh hưởng đến môi trường ở một
địa phương. Đó chính là biểu hiện của sự không cân bằng về quyền lực giữa
các nhóm xã hội. Ngày nay, những nước phát triển tiềm lực kinh tế, khoa học,
kỹ thuật và quân sự lớn thường giảm bớt hoặc tránh ô nhiễm trong nước mình
bằng cách chuyển những xí nghiệp gây nhiêù ô nhiễm sang những nước đang
phát triển, hoặc các nước phát triển lại thực hiện chính sách “nhập siêu” tài
nguyên thiên nhiên nguyên liệu sản xuất để bảo vệ môi trường của quốc gia
mình, trong khi đó các nước đang phát triển lại “xuất siêu” nhằm có được
ngoại tệ mạnh.
3.5 Cơ thế chính sách về bảo vệ môi trường yếu kém.
10
Việc pháp luật không xác định rõ ràng quyền sở hữu và sử dụng các tài
nguyên môi trường là một nguyên nhân trọng yếu dẫn đến các tranh chấp môi
trường. Khi quyền sở hữu, sử dụng không được xác định rõ, tài nguyên sẽ có
xu thế trở thành những “tài sản cộng đồng” (tức là những loại tài sản không
loại trừ bất kỳ ai trong quá trình khai thác và sử dụng). Hơn nữa, quyền sở
hữu, sử dụng không được xác định rõ sẽ không khuyến khích được người dân
tự nguyện đầu tư vào việc bảo vệ và phát triển tài nguyên mà còn thúc đẩy sử
dụng nó một cách quá mức không tính đến lợi ích lâu dài, lợi ích của cộng
đồng và lợi ích của các thế hệ như mai sau. Ngoài ra, chính sách của chính
phủ cũng có thể làm tăng mâu thuẫn giữa bảo vệ môi trường và phát triển
kinh tế. Tỷ lệ lợi nhuận cao cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến hao mòn
các tài nguyên sinh học, khi tỷ lệ lợi nhuận cao, tài nguyên được khai thác
nhanh để dút ngắn chu kỳ kinh doanh. Tỷ lệ lợi nhuận cao cũng có thể tác
động đến hành vi sử dung tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ, người chủ rừng có
thể lựa chọn giải pháp chặt rừng để chuyên sang kinh doanh một ngành kinh
tế khác có lợi hơn.
4. Yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết tranh chấp môi trường
Từ các đặc trưng và nguyên nhân của các tranh chấp môi trường hiện
nay tại Viẹt Nam có thể rút ra một số yêu cầu đối với việc giải quyết tranh
chấp môi trường như sau:
4.1 Ưu tiên bảo vệ các quyền lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội.
Do tranh chấp môi trường vừa là xung đột lợi ích công nên yêu cầu đặt
ra trong quá trình tìm kiếm cơ thế giải quyết tranh chấp là phải làm thế nào để
có thể dung hòa được cả 2 loại lợi ích của từng cá nhân, từng tổ chức song
đồng thời phải bảo vệ được lợi ích của cộng đồng, lợi ích của toàn xã hội, lợi
ích của số đông.
4.2 Đảm bảo duy trì mối quan hệ bảo vệ môi trường giữa các bền vững
11
Do sự ràng buộc một cách tự nhiên các yếu tố môi trường với tư cách là
điều kiện sống chung của mội người nên giải quyết tranh chấp môi trường
không chỉ đơn thuần là việc giải tòa mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp, kết
luận về việc thắng hay thua kiện đối với mỗi bên mà điều quan trọng là phải
duy trì mối quan hệ lâu dài giữa các bên tranh chấp để họ có thể cung nhau
khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường sống một cách liên tục thường
xuyên.
4.3 Ngăn chặn sớm nhất sự xâm hại đối với môi trường .
Do tính chất không thể sửa chữa được với các thiện hại môi trường nên
các tính chất môi trường này sinh khi thiện hại thực tế chưa xảy ra cũng phải
được giải quyết triệt đề nhằm ngăn chặn trước hậu quả từng giải quyết tranh
chấp môi trường cần loài trừ giảm hiệu mội khả năng xâm hại tới môi trường.
Nói cách khác, trong lĩnh vực bảo ngày từ khi các tác động xấu đến môi
trường chưa xuất hiện, thiện hại thực tế chưa xảy ra. Tuy nhiên, dung hòa lợi
ích ngày từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển, tính toán loại trừ khả năng
xâm hại tới môi trường không có nghĩa là phụ quyết mọi hoạt động phát triển,
khước từ mọi dự án. Vấn đề là phải tìm đến các giải pháp vừa tính tới yếu tố
tăng trường song vẫn đảm baỏ sự cảnh giác cao độ trước những thiện hại gây
nên cho môi tường.
4.4 Đảm bảo xác định một cách có căn cứ giá trị thiệt hại đến môi trường.
Do thiệt hại về môi trường thường rất lớn và khó xác định nên việc
đánh giá đầy đủ những thiện hại gây nên đối với môi trường cũng như ảnh
hưởng của nó đến các mặt kinh tế. Xã hội đòi hỏi dựa trên những căn cứ khoa
học nhất định. Do môi trường là tổng thể những thành tố từ tự nhiên đến nhân
tạo và phần lớn trong số đó luôn ở trạng thái động, tương hỗ với nhau nên
không một ai trong các chủ thể tham gia giải quyết tranh chất môi trường có
đủ khả năng và điều kiện để thu thập và đành giá và kết luận của các nhà
12
chuyên môn,điều này có nghĩa là cần phải có cách tiếp cận khác đối với nghĩa
vụ chứng minh thủ tục tranh tụng trong quá trình giải quyết tranh chất môi
trường.
4.5 Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp môi trường nảy sinh.
Do tranh chất môi trường thường xảy ra giữa các nhóm xã hội, các
cộng đồng dân cư nên ảnh hưởng về mặt xã hội là rất lớn kiểm soát chặt chẽ
xung đột môi trường đang tiểm ẩn và giải quyết chung một cách nhanh
chóng ;kịp thời sẽ góp phần bảo đảm trật tự xã hội ,tránh sự chuyển hóa một
cách tự pháp những tranh chất nhỏ; đơn giản, trong phạm vi hẹp thành các
cuộc biểu tình chính trị, khiếu kiện kéo dài gây rồi trật tự xã hội.
II. CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG:
1. Định nghĩa cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường:
1.1 Định nghĩa:
Cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường là hệ thống thống nhất các
phương tiện pháp lý đặc thù,thông qua đó thực hiện việc giải tỏa mâu thuẫn
giữa các bên tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên,bảo vệ trật tự xã hội.
• “Giải quyết tranh chấp” được hiểu là các hoạt động khắc phục,loại
trừ tranh chấp đã phát sinh bằng một phương pháp nào đó,nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp,bảo vệ trật tự kỉ cương xã hội.
• “Giải quyết tranh chấp môi trường” là việc lựa chọn các hình
thức,biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn,bất đồng,tạo lập lại sự cân
bằng về lợi ích mà các bên có thể tranh chấp dược.
• Thuật ngữ “cơ chế” trong khoa học xã hội là sự tương tác giữa các
yếu tố kết thành một hệ thống mà nhờ đó hệ thống có thể hoạt động.
• “Cơ chế giải quyết tranh chấp” là sự tương tác giữa tất cả các yếu tố
chi phối đến quá trình điều hòa các lợi ích xung đột xã hội.
13
1.2 Các phương tiện pháp lý đặc thù để giải quyết tranh chấp môi trường
gồm:
• Các nguyên tắc cơ bản đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo.
• Hệ thống pháp luật thực định là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh
chấp.
• Tổ chức bộ máy để vận hành và các yếu tố con người nhằm thực thi
pháp luật.
Mỗi phương tiện trên có nhiệm vụ,vị trí,vai trò nhất định trong quá
trình giải quyết tranh chấp song giữa chúng luôn có mối quan hệ hữu cơ,tác
động qua lại với nhau,tạo thành một thể thống nhất,có khả năng điều chỉnh
hiệu quả các xung đột.
2. Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp môi trường:
2.1 Nguyên tắc công quyền can thiệp:
Giải quyết tranh chấp môi trường không chỉ là mong muốn riêng của
các bên tranh chấp mà còn là trách nhiệm của nhà nước.Trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường,sự can thiệp của công quyền vào việc giải quyết tranh chấp cần
được xem là loại trách nhiệm công vụ.Tuy nhiên cần tránh tình trạng tuyệt đối
hóa vai trò của nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp môi trường vì điều
đó sẽ triệt tiêu tính tự chủ của người dân trong việc tìm các giải pháp thích
hợp để bảo vệ môi trường,điều hòa xung đột,thậm chí trong nhiều trường hợp
còn đẩy người sử dụng ,khai thác các thành phần môi trường vào tình trạng
đối phó,trốn tránh trách nhiệm bảo vệ môi trường.Để tránh hiện tượng này
pháp luật cần quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong việc giải quyết tranh chấp.Như vậy trong việc giải quyết tranh chấp môi
trường hiện nay thì sự can thiệp của các cơ quan công quyền là yếu tố không
thể thiếu,tuy nhiên trong nhiều trường hợp nên coi sự tham gia của công
quyền là giải pháp cuối cùng nhằm tiết kiệm thời gian,tiền của và công sức
14
của các bên,cũng như góp phần làm giảm đáng kể chi phí xã hội.Nên giải
quyêt vấn đề lần lượt theo thứ tự từ giải quyết tình cảm đến giải quyết bằng
pháp lý.
Các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp môi trường
bao gồm: - Chính phủ: Trực tiếp chỉ đạo,hướng dẫn giải quyết tranh chấp môi
trường.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường,Bộ Khoa học-Công nghệ,Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn,Bộ Công an (Cục cảnh sát môi trường) và các
cơ quan thanh tra bảo vệ môi trường thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường,
thanh tra bảo vệ môi trường cấp tỉnh: thanh tra,kiểm tra phát hiện các vi
phạm,thu thập thông tin,chứng cứ,lấy mẫu để xác minh sự việc…
- Ủy ban nhân dân các cấp:thanh tra,kiểm tra việc bảo vệ môi trường
của các cơ quan hành chính,đơn vị sự nghiệp,hộ gia đình cá nhân.
2.2 Nguyên tắc phòng ngừa:
Tiền đề của nguyên tắc này là nếu có những điều không chắc chắn hoặc
không rõ về bản chất hoặc mức độ,quy mô của sự nguy hại đến môi trường thì
người ra quyết định cần hết sức thận trọng.Trong trường hợp này,quan điểm
phát triển bền vững cần được tôn trọng.Cần phải cân nhắc giữa cái được và
cái mất để các bên có thể đi đến thống nhất các phương án nhằm loại trừ hoặc
hạn chế đến mức thấp nhất tác động xấu đến môi trường từ các hoạt động phát
triển.Nguyên tắc phòng ngừa đặc biệt có ý nghĩa trong việc giải quyết những
vụ kiện đòi chấm dứt các mối nguy hiểm tiềm tang đối với môi trường và sức
khỏe cộng đồng từ các hoạt động phát triển,nhất là các dự án có quy mô lớn
như:dự án xây dựng nhà máy hóa chất,các công trình thủy điện,nhiệt
điện,đường giao thông…
Để thực hiện đầy đủ nguyên tắc phòng ngừa trong giải quyết xung
đột,cần thiết phải tuân thủ các quy định về đánh giá tác động môi trường.
15
Đánh giá tác động môi trường (điều 3.20 luật bảo vệ môi trường 2005)là quá
trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường của các dự án
quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
công trình kinh tế, khoa học kỹ thuật, y tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích hợp về bảo vệ môi
trường.
Hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở đây có loại mang tính kinh tế xã hội của quốc gia, của một địa phương lớn, hoặc một ngành kinh tế văn hóa
quan trọng (luật lệ, chính sách quốc gia, những chương trình quốc gia về phát
triển kinh tế - xã hội, kế hoạch quốc gia dài hạn), có loại mang tính kinh tế xã hội vi mô như đề án xây dựng công trình xây dựng cơ bản, quy hoạch phát
triển, sơ đồ sử dụng một dạng hoặc nhiều dạng tài nguyên thiên nhiên tại một
địa phương nhỏ. Tuy nhiên, một hoạt động có ý nghĩa vi mô đối với cấp quốc
gia, nhưng có thể có ý nghĩa vĩ mô đối với xí nghiệp. Hoạt động vi mô nhưng
được tổ chức một cách phổ biến trên địa bàn rộng có khi lại mang ý nghĩa vĩ
mô.
Tác động đến môi trường có thể tốt hoặc xấu, có lợi hoặc có hại nhưng
việc đánh giá tác động môi trường sẽ giúp những nhà ra quyết định chủ động
lựa chọn những phương án khả thi và tối ưu về kinh tế và kỹ thuật trong bất
cứ một kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nào.
Đây được xem là công cụ vừa mang tính pháp lý vừa mang tính kĩ thuật
để giải quyết tranh chấp.Thông qua hoạt động đánh giá tác động môi
trường,cơ quan tài phán sẽ có cơ sở để xem xét một vấn đề như:các bên đã
câc nhắc đến tất cả các yếu tố liên quan đến môi trường chưa?Mọi tác động
xấu đến môi trường từ hoạt động phát triển đã được đánh giá,dự báo trước?
Các bên có liên quan cũng như cơ quan có thẩm quyền có nhận thức được đầy
đủ nguy cơ nội tại mà hoạt động phát triển có thể gây lên cho môi trường hay
16
không?...Nếu chưa có câu trả lời thì nguyên tắc phòng ngừa sẽ được áp dụng
để các bên phải tiến hành việc xem xét,đánh giá các vấn để nêu trên một cách
đầy đủ và nghiêm túc nhất.
2.3 Nguyên tắc phối hợp,hợp tác:
Nguyên tắc phối hợp,hợp tác hành động có thể được hiểu là thông qua
hoạt động giả quyết tranh chấp để liên lết tất cả các bên liên quan,tạo cơ hội
cho các bên liên quan đối thoại trực tiếp với nhau,thông tin đầy đủ cho nhau
và cùng xây dựng những cam kết có tính đồng thuận xã hội,cùng nhau xác
định trách nhiệm,chia sẻ quyền lợi và tìm tiếng nói chung để ngăn chặn nhuy
cơ hủy hoại môi trường cùng nhằm hướng tới phát triển bền vững.Từ phương
diện xã hội thì đây được coi là cách tốt nhất để tổng hợp mọi nguồn lực xã hội
vào việc khắc phục và cải thiện chất lượng môi trường sống chung của con
người.
2.4 Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá:
Hay còn được hiểu là người gây ô nhiễm phải bồi thường thiệt hại do
hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra. Điều 130 Luật bảo vệ môi trường đã
liệt kê các loại thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm, suy thoái môi trường gây ra.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự,
theo đó, các thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ và kịp thời, Bộ luật dân sự
cũng quy định việc xác định thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe.. (từ
Điều 608 đến Điều 612). Thiệt hại về suy giảm chức năng, tính hữu ích của
môi trường được quy định tại Điều 131 Luật bảo vệ môi trường. Nội dung của
nguyên tắc là xác định cái giá phải trả đối với người có hành vi gây ô nhiễm
môi trường.Cái giá đó là:(1)Phải áp dụng các biện pháp khắc phục tình trạng
ô nhiễm môi trường,suy thoái môi trường,sự cố môi trường,(2)phải bồi
thường thiệt hại về môi trường,về tính mạng,sức khỏe và tài sản cho nạn nhân
nếu có.Với nội dung này,nguyên tắc người gây ô nhiễm môi trường phải trả
17
giá đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết trah chấp đòi bồi
thường thiệt hại về môi trường,thiệt hại về con người do người gây ô nhiễm
môi trường gây nên..Điển hình là vụ Vedan đưa nước thải vào môi trường gây
ra ô nhiễm, tạo nên tác động đến hệ sinh thái, hoạt động sản xuất và sinh hoạt
của người dân.Vedan phải đền bù thiệt hại cho người dân. Đây là một minh
chứng rõ ràng cho những khó khăn của việc áp dụng nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả giá.Người vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường thì tùy tính
chất mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự.Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá được quy định tại 1 số điều:
Điều 127-Điều130-Điều131-Điều 132-Điều133_Luật bảo vệ môi
trường 2005.
Điều 182-Điều 183-Điều 184_Bộ luật hình sự.
2.5 Nguyên tắc tham vấn chuyên gia:
Để xác định một cách có căn cứ khoa học thiệt hại xảy ra đối với môi
trường,tính mạng,sức khỏe và tài sản của các nạn nhân trong các tranh chấp
môi trường cần sử dụng cơ chế tham vấn chuyên gia.Những bằng chứng góp
phần làm sáng tỏ nội dung các vụ kiện về môi trường phải là kết quả làm việc
của tập thể các chuyên gia,các nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực như:kinh tế
học,y học,sinh học,hóa học,vật lý học,khoa học quản lý và bảo vệ môi
trường…Các chuyên gia phải dựa vào các phương tiện kĩ thuật đo đạc,xét
nghiệm mẫu,từ đó mới có các kết luận khách quan,trung thực về mối liên hệ
giữa nguyên nhân và hậu quả,về mức độ thiệt hại,khi đó các số liệu mới trờ
thành căn cứ khoa học_pháp lý giúp các bên tranh chấp cũng như cơ quan có
thẩm quyền đánh giá,dự báo và kết luận đầy đủ về tính chất,mức độ cũng như
những ảnh hưởng đến các vấn đề môi trường,để đưa ra các phán quyết đảm
bảo tính chính xác,khách quan.
3.Các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường:
18
Theo quy định tại Điều 133 Luật bảo vệ môi trường, việc bồi thường
thiệt hại về môi trường được thực hiện theo các phương thức: i) Tự thỏa thuận
giữa các bên; ii) Yêu cầu trọng tài giải quyết; iii) Khởi kiện tại tòa án. Cho tới
thời điểm này, phương thức giải quyết thông qua trọng tài chưa được xác
lập.Nên các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường có thể chia ra như
sau:
3.1 Thương lượng:
Thương lượng luôn được xem là hình thức quan trọng trong việc giải
quyết tranh chấp môi trường cũng như các tranh chấp khác vì tính đơn giản và
hiệu quả của nó.Các cuộc đàm phán thương lượng hợp lý đúng đắn sẽ đạt đến
một sự thỏa thuận khôn ngoan làm hài long tất cả các bên.đây là cơ hội tốt
nhất để các bên thu thập thêm thông tin,xem xét hoàn cảnh xảy ra sự
việc,đánh giá đúng bản chất của vụ việc,giải tỏa những hiểu lầm,khúc mắc và
cùng tìm đến các giải pháp tối ưu trong điều kiện chi phí về thời gian,sức lực
và tài chính ở mức thấp nhất.
So với các cuộc thương lượng để giải quyết tranh chấp khác,thương
lượng trong giải quyết tranh chấp môi trường có đặc điểm là thường diễn ra
giữa các chủ thể đại diện.Do số lượng những người có liên quan trong mỗi vụ
tranh chấp môi trường rất đông nên quá trình thương lượng không thể diễn ra
trực tiếp giữa tất cả những người có liên quan.Tùy thuộc vào mối quan hệ
xung đột sẽ có những đại diện cụ thể sau:
• Đại diện cho lợi ích công cộng,lợi ích xã hội bị xâm hại.Loại đại
diện này thường xuất hiện trong các vụ tranh chấp môi trường có yếu tố nước
ngoài,tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường gây nên…Khác
với vai trò của người đại diện thong thường chỉ thay các mặt,các bên tiến
hành đàm phán thương lượng,hòa giải không đi đến kết quả.
• Đại diện cho các nhóm đồng lợi ích.Người đại diện trong trường
19
hợp này được các bên có cùng mối quan tâm,có chung yêu cầu chỉ định.Họ
thường là các chuyên gia(chuyên gia kinh tế ,chuyên gia kĩ thuật, các luật
sư…),các tổ chức hiệp hội hành nghề,trưởng các cụm dân cư,tổ dân phố …
thay mặt các nhóm người có cùng lợi ích để tiến hành các tranh chấp môi
trường.Cũng chính vì đặc điểm này mà trong lĩnh vực bảo vệ môi trường,khái
niệm khiếu kiện tập thể được thừa nhận rộng rãi.Ví dụ như đối với các hộ gia
đình và cá nhân bị thiệt hai, theo quy định tại Điều 107 Bộ luật dân sự 2005,
chủ hộ là người đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích
chung của hộ (bao gồm cả trường hợp đòi bồi thường thiệt hại). Các chủ thể
này có thể ủy quyền cho người khác đại diện thực hiện việc đòi bồi thường
theo quy định tại Điều 139, 142, 143, 144, 145, 146, 147 Bộ luật dân sự 2005.
Theo đó, chỉ những người được các chủ hộ bị thiệt hại ủy quyền đại diện thực
hiện việc đòi bồi thường thiệt hại mới có tư cách pháp lý tham gia vào việc
giải quyết tranh chấp và những người được ủy quyền đại diện này phải thực
hiện nhiệm vụ trong phạm vi được ủy quyền đại diện theo hợp đồng giữa các
bên.
• Đối với bên gây thiệt hại,tùy từng trường hợp cụ thể,chủ tiến hành
thương lượng sẽ là người có hành vi trực tiếp gây hại trong môi trường,người
đại diện sở hữa chủ hoặc các tổ chức bảo hiểm trong nước và quốc tế.
3.2 Hòa giải:
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp được tiến hành khi tranh
chấp đã xảy ra hoàn toàn và các bên nhận thấy quá trình thương lượng đã
không mang lại kết quả song vẫn mong muốn tìm kiếm sự thỏa thuận bởi
chính bản thân mình.
Hòa giải tranh chấp là quyền của các đương sự.Pháp luật khuyến khích
các bên tranh chấp áp dụng hình thức này.Luật tài nguyên nước 1988,Luật đất
đai 2003 đều có quy định: “nhà nước khuyến khích việc hòa giải các bên
20
tranh chấp về tài nguyên nước,ủy ban nhân dân xã,phường,thị trấn có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức cá nhân trong việc hòa giải các tranh
chấp về tài nguyên nước cho phù hợp với quy định của pháp luật”; “Nhà nước
khuyến khích các bên trong tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc tự giải quyết
tranh chấp đất đai thong qua hòa giải cơ sở”…
Trong hòa giải tranh chấp môi trường,trung gian hòa giải thường được
tổ chức thành các nhóm,bao gồm:đại diện chính quyền địa phương,các cơ
quan quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường,các tổ chức dịch vụ công
cộng,đại diện cộng đồng dân cư,các tổ chức phi chính phủ,các luật gia…Do
tranh chấp môi trường lien quan nhiều lợi ích,động chạm đến nhiều khía cạnh
của đời sống,cần đến kiến thức chuyên môn của nhiều lĩnh vực nên chỉ có
thông qua mô hình này các vấn đề có lien quan mới được xem xét một cách
khách quan,toàn diện.Ngoài ra tổ chức các nhóm trung gian hòa giải còn góp
phần làm cân bằng “vị thế” của các bên đương sự vốn luôn ở trong trạng thái
bất tương xứng trong mỗi vụ tranh chấp môi trường.
So với thương lượng hòa giải có mức độ thành công cao hơn do có sự
hỗ trợ của trung gian là những người có kiến thức chuyên môn nhất định.Tuy
nhiên khó khăn trong hòa giải tranh chấp môi trường lại bắt nguồn từ tính đa
phần của các nhóm trung gian.Đa thành phần cũng có nghĩa là sẽ có nhiều ý
kiến khác nhau,tiếp cận các lợi ích không giống nhau.Nếu việc tổ chức hòa
giải không được tổ chức khoa học hợp lý thì bất đồng có thể nảy sinh ngay
giữa chính các hòa giải viên.Thêm nữa,một trong những thành phần chính của
nhóm trung gian hòa giải môi trường là chính quyền địa phương,các cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường,trong khi chính chủ thể này lại thường giữ
vai trò của chủ thể,sự trùng lặp,chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ là điều
khó tránh khỏi.
Riêng đối với việc hòa giải ở tòa án thì hiện vẫn có những quan điểm
21
khác nhau.Quan điểm thứ nhất cho rằng,giải quyết tranh chấp môi trường chỉ
đơn thuần là việc giải quyêt việc đòi bồi thường thiệt hại về người và tài sản
của cá nhân và tổ chức nên vẫn phải tiến hành hòa giải tại tòa án như đối với
các tranh chấp dân sự khác.Tuy nhiên quan điểm khác lại cho rằng,do nhà
nước là đại diện chủ sở hữu đối với các nguồn tài nguyên và môi trường nên
gây tổn hại môi trường là gây thiệt hại đối với nhà nước.Trong những trường
hợp này,theo quy định của pháp luật hiện hành,tòa án không tiến hành hòa
giải.Nhưng đối với quyền đòi bồi thường thiệt hại của Nhà nước, theo quy
định tại Điều 56 khoản 2 Bộ luật tố tụng dân sự, cơ quan, tổ chức do Bộ luật
này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Theo đó, cơ quan
được giao quản lý nhà nước về môi trường theo quy định tại Điều 121, 122
Luật bảo vệ môi trường sẽ đại diện cho Nhà nước đòi bồi thường thiệt hại về
môi trường
3.3 Giải quyết tranh chấp tại các cơ quan có thẩm quyền:
Khác với các lĩnh vực dân sự, kinh tế hay lao động, trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường tranh chấp có thể được giải quyết theo thủ tục hành chính và
thủ tục tư pháp.
Sở dĩ nhiều nước trong đó có Việt Nam, thủ tục hành chính hiện vẫn
đang được thừa nhận và áp dụng tương đối phổ biến trong quá trình giải quyết
các xung đột môi trường là vì họ quan niệm đối tượng của tranh chấp môi
trường luôn có quan hệ mật thiết với lợi ích công cộng mà nhà nước bảo vệ.
Các chủ thể này trước tiên phải là người có trách nhiệm thay mặt nhà nước xử
lý các hành vi gây hại môi trường, điều hòa xung đột lợi ích môi trường giữa
các bên. Ngoài ra họ còn cho rằng thủ tục hành chính thường đáp ứng được
yêu cầu giải quyết nhanh chóng tranh chấp môi trường, trong khi thủ tục tư
pháp thì vụ án có thể bị kéo dài, các biện pháp khôi phục chất lượng môi
22
trường bị xâm hại khó có điều kiện được thực hiện ngay…
Tại Việt Nam, giải quyết tranh chấp môi trường là một trong chín nội
dung của hoạt động quản lý nhà nước về môi trường. Bộ máy các cơ quan
quản lý môi trường tham gia giải quyết tranh chấp môi trường được tổ chức ở
cả 4 cấp: cán bộ địa chính cấp phường, xã, thị trấn; các cơ quan chuyên môn
thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; sở tài
nguyên và môi trường; cục bảo vệ môi trường.
Mặc dù, thủ tục hành chính được áp dụng khá phổ biến trong giải quyết
tranh chấp môi trường nhưng điều đó không có nghĩa là thủ tục tư pháp không
được coi trọng. Xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân với các nguồn tài nguyên
thiên nhiên nên quan hệ giữa nhà nước với tổ chức,cá nhân thực chất là quan
hệ giữa đại diện chủ sở hữu với người khai thác,tác động đến các đối tượng
thuộc sở hữu chung. Khi các yếu tố môi trường bị xâm hại thì nhà nước sẽ
đóng vai trò là người đại diện cho lợi ích công đòi phục hồi lại chất lượng môi
trường đã bị xâm hại mà thôi. Trong trường hợp này mối quan hệ giữa nhà
nước với bên gây hại cho môi trường chỉ đơn thuần là quan hệ giữa hai bên
đương sự,trong đó nhà nước là đại diện cho bên bị hại. Còn khi hai bên không
tìm được tiếng nói chung thì tòa án sẽ là cơ quan có thẩm quyền phán quyết.
Sự hình thành và phát triển mạnh hệ thống tòa án môi trường tại một số nước
là một minh chứng về nhu cầu của xã hội muốn giải quyết các tranh chấp môi
trường theo thủ tục tư pháp.
Trên thế giới có hai mô hình tòa án có thẩm quyền giải quyết môi
trường như sau:
• Hệ thống các tòa thường tụng(trực tiếp là tòa dân sự).Thông
thường,tòa án tỉnh hoặc tòa án vùng sẽ thụ lý giải quyết các vụ án về môi
trường.Tòa thượng thẩm tòa án tối cao có thẩm quyền cuối cùng giải quyết vụ
án môi trường.Tòa thượng thẩm tòa án tối cao có thẩm quyền cuối cùng giải
23
quyết vụ án môi trường.Các nước hiện đang thiết lập mô hình này
gồm:bangladesk,ẤnĐộ,Pakistan,Srilanca,Malaysia,Philippines,Chile,Kenya,C
anada,….
• Hệ thống các tòa môi trường bên cạnh hệ thống tòa dân sự,hình
sự.Theo mô hình này,tòa môi trường có thẩm quyền giải quyết tất cả các vụ
án có lien quan việc khai thác,sử dụng,tác động đến các yếu tố môi
trường.Tòa môi trường được tổ chức theo vùng,đặc biệt là các vùng có độ
nhạy cảm cao về môi trường,vùng có nhiều ngành kinh tế công nghiệp dịch
vụ.Đại diện cho các quốc gia có mô hình này là:New Zealand,Canada,Đan
Mạch,Thụy Điển,Hoa Kỳ,Nam Phi,…Cá biệt có quốc gia còn thành lập tòa
môi trường tại từng đơn vị tiểu bang.Đây được coi là bước phát triển mạnh
trong nhận thức về bảo vệ môi trường của các quốc gia.Điểm hợp lý của mô
hình tòa môi trường là nó cho phép các cơ quan tự xem xét,giải quyết các vụ
án về môi trường ở mức chuyên môn hóa cao nhất,không phụ thuộc vào tính
chất dân sự hoặc phi dân sự,tính chất tài sản hay phi tài sản trong các mối
quan hệ xung đột.Đặc biệt nó cho phép giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào các
thiết chế,các nguyên tắc pháp lý truyền thống vốn đã bộc lộ ngày càng rõ nét
sự bất cập trước những yêu cầu mới phát sinh.
Tại Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành,thẩm quyền giải
quyết dạng tranh chấp môi trường được xác định theo pháp luật tố tụng dân
sự.Theo đó xét theo thẩm quyền vụ việc tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ
thẩm các vụ án đương sụ hoặc tài sản ở các nước ngoài hoặc cần phải ủy thác
cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài,cho tòa án nước ngoài,tòa án
nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm những trường hợp còn lại.Còn xét theo
phạm vi lãnh thổ thì thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ thuộc tòa án nơi
địa phương thuộc cư trú,làm việc hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết.
Tuy nhiên,cũng cần nhận thấy rằng việc xác định thẩm quyền của tòa
24
án dựa vào tiêu chí đối tượng hay lãnh thổ thường chỉ phù hợp với những
tranh chấp mang tính đơn giản,trong phạm vi hẹp,giá trị tranh chấp không
lớn.Còn đối với những tranh chấp môi trường có tính chất phức tạp,giá trị
tranh chấp lớn,lại nảy sinh giữa các nhóm người thuộc nhiều địa phương khác
nhau thì cách phân chia thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo lãnh thổ,theo
nơi cư trú hoặc nơi xảy ra thiệt hại đều tỏ ra chưa thật phù hợp.Điều này dẫn
đến yêu cầu là phải có các quy định phù hợp hơn về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp môi trường.
4. Trình tự giải quyết tranh chấp môi trường:
Trong thời gian qua tại Việt Nam, đa số các vụ tranh chấp môi trường
được giải quyêt ở giai đoạn thương lượng hoặc hòa giải cùng với sự tham gia
của các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước quản lý về môi
trường.Các chủ thể này trực tiếp thực hiện các đơn khiếu kiện đòi bồi thường
thiệt hại về môi trường và tiến hành xem xét giải quyết theo trình tự các bước
như sau:
- Kiểm tra xác minh những nội dung được phản ánh trong đơn thư
khiếu kiện.
- Hướng dẫn bên bị thiệt hại thu thập chứng cứ về sự thiệt hại và xác
định yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.
- Tham gia giải quyết tranh chấp,góp phần điều hòa lợi ích giữa các bên
xung đột.
4.1 Kiểm tra, xác minh những nội dung được phản ánh trong đơn thư
khiếu kiện:
Đây là bước đầu tiên trong quá trình xem xét giải quyết các tranh chấp
môi trường, là một bước quan trọng xác định mức độ chính xác của nội dung
đơn thư khiếu kiện từ đó là cơ sở để xem xét các tình tiết cụ thể của tranh
chấp. Do đặc điểm trong các tranh chấp môi trường, bên bị thiệt hại thường
25
khó xác định được đúng nguyên nhân gây thiệt hại và chủ thể gây thiệt hại
nên trong đơn thư khiếu kiện chỉ mô tả được sơ lược tình trạng vi phạm pháp
luật gây ô nhiễm và mức độ thiệt hại ước tính chung chung. Mà theo quy định
tại các Điều 93, 127 Luật Bảo vệ môi trường 2005, Điều 624 Bộ luật dân sự
2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thì chủ thể phải bồi thường thiệt hại trong lĩnh
vực môi trường khi thỏa mãn các yếu tố sau: i) Có hành vi trái pháp luật; ii)
Có thiệt hại xảy ra và iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và
hành vi trái pháp pháp luật. Theo quy định tại Điều 624 Bộ luật dân sự, chủ
thể gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp không có
lỗi.
Vì vậy, để có thể xác minh được nội dung của đơn thư khiếu nại cũng
như để xác định được nguyên nhân gây thiệt hại đòi hỏi các cơ quan chức
năng phải tiến hành các biện pháp nghiệp vụ như:
•
Lấy mẫu các thành phần môi trường bị ô nhiễm,phân tích các đặc
tính hóa,lý,sinh của các yếu tố môi trường.
•
Kiểm tra tình hình quan trắc và kiểm soát ô nhiễm trong khu vực.
•
Đánh giá hiện trạng môi trường nơi ô nhiễm xảy ra,xác định nguồn
gây ô nhiễm.Xác định mức độ thiệt hại môi trường thông qua việc xác định
phạm vi, giới hạn môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích theo khoản
2 Điều 131, việc xác định phạm vi, giới hạn môi trường bị suy giảm chức
năng, tính hữu ích gồm có: i) Xác định giới hạn, diện tích của khu vực, vùng
lõi bị suy giảm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; ii) Xác định giới hạn,
diện tích vùng đệm trực tiếp bị suy giảm; iii) Xác định giới hạn, diện tích các
vùng khác bị ảnh hưởng từ vùng lõi và vùng đệm.
•
Chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm và
thiệt hại vật chất về môi trường…Từ đó đối chiếu các số liệu thu thập được
26
với hồ sơ thiế kế,hệ thống tiêu chuẩn môi trường Việt Nam để đưa ra kết luận
nội dung khiếu kiện đúng hay sai sự thật.Chính phủ được giao nhiệm vụ
hướng dẫn việc xác định thiệt hại do ô nhiễm,suy thoái môi trường(khoản 7
Điều 131 Luật BVMT 2005)
• Dựa trên cơ sở kết luận về nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường,đối
tượng gây ô nhiễm…Các chủ thể có thẩm quyền quyết định xử phạt các đối
tượng gây ô nhiễm,buộc họ tiến hành các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi
trường theo quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường,đồng thời giúp bên bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu đòi
bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường.
4.2 Hướng dẫn bên bị thiệt hại thu thập các chứng cứ về sự thiệt hại và xác
định yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại:
Như chúng ta đã thấy,thiệt hại trong lĩnh vực môi trường thường không
những có giá trị lớn mà còn rất khó xác định.Do vậy mà bên thiệt hại cần có
sự hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn để đưa ra được những số liệu
chứng minh thiệt hại.Đây cũng là nét riêng trong quá trình xem xét giải quyết
tranh chấp môi trường khác với các tranh chấp trong lĩnh vực khác việc thu
thập các chứng cứ về sự thiệt hại phải do các bên đương sự tiến hành.Hiện tại,
Luật BVMT (2005)xác định có 3 mức độ của sự suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường, đó là: i) có suy giảm, ii) suy giảm nghiêm trọng, iii)
suy giảm đặc biệt nghiêm trọng (khoản 1 Điều 131). Nhiệm vụ của văn bản
hướng dẫn là phải lượng hóa được một cách đầy đủ hơn 3 mức độ suy giảm
nêu trên, làm căn cứ cho việc xác định các mức độ thiệt hại.Còn Điều 92 Luật
BVMT 2005 căn cứ vào tiêu chuẩn môi trường để lượng hóa ở mức có thể
nhận diện được các cấp độ ô nhiễm môi trường.
Theo quy định tại Điều 131 Luật BVMT (2005), có 2 loại thiệt hại:
•
Thứ nhất, thiệt hại đối với môi trường tự nhiên. Đó là sự suy giảm
27
chức năng, tính hữu ích của môi trường, trong đó chức năng, tính hữu ích của
môi trường được thể hiện qua các phương diện chính như sau: 1) Môi trường
là không gian sinh tồn của con người; 2) Môi trường là nơi cung cấp các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học (kể cả vật liệu, năng lượng,
thông tin cần thiết cho cuộc sống và hoạt động của con người); 3) Môi trường
là nơi chứa đựng và tiêu hủy chất thải do con người thải ra trong các hoạt
động của mình. Như vậy, có thể hiểu sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của
môi trường xảy ra khi: Một là, chất lượng của các yếu tố môi trường sau khi
bị tác động thấp hơn so với tiêu chuẩn về chất lượng môi trường; hai là, lượng
tài nguyên thiên nhiên bị khai thác, sử dụng lớn hơn lượng được khôi phục
(đối với tài nguyên tái tạo) và/hoặc lớn hơn lượng thay thế (đối với tài nguyên
không tái tạo được); ba là, lượng chất thải thải vào môi trường lớn hơn khả
năng tự phân hủy, tự làm sạch của chúng.
• Thứ hai, thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường gây ra. Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con
người được thể hiện qua các chi phí để cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục
hồi các chức năng bị mất của người bị hại và các khoản thu nhập thực tế bị
mất, bị giảm sút do bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe có nguyên nhân từ ô
nhiễm, suy thoái môi trường. Thiệt hại về tài sản được thể hiện qua những tổn
thất về cây trồng, vật nuôi, những khoản chi phí cho việc sửa chữa, thay thế,
ngăn chặn và phục hồi tài sản bị thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
gây nên. Còn thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thể
hiện qua sự tổn hại về lợi ích vật chất, sự giảm sút về thu nhập chính đáng mà
nguyên nhân là do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường.
Trong mối quan hệ với loại thiệt hại thứ nhất, loại thiệt hại thứ hai luôn
được xem là thiệt hại gián tiếp (còn gọi là thiệt hại phái sinh hay thiệt hại thứ
28
sinh) - thiệt hại chỉ xảy ra khi đã có loại thiệt hại thứ nhất. Tuy nhiên, cần lưu
ý là giữa thiệt hại đối với môi trường tự nhiên và thiệt hại đối với tài sản, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân không phải luôn luôn và hoàn toàn tách
biệt. Trong một số trường hợp thiệt hại về môi trường tự nhiên tại một khu
vực nhất định cũng đồng thời là thiệt hại về tài sản, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân tại khu vực đó. Ví dụ, sự suy giảm nguồn lợi thủy sinh tại một
vùng biển bị ô nhiễm cũng đồng thời là sự giảm sút về thu nhập của ngư dân
ở khu vực đó. Điều này thiết nghĩ cần được lưu ý để tránh sự trùng lặp khi xác
định các loại thiệt hại cụ thể do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên.
Về tính thiệt hại tài sản,một trong các phương pháp được áp dụng phổ
biến là phương pháp so sánh đối chứng.Phương pháp này thường được áp
dụng để tính tổng thiệt hại về cây trồng vật nuôi tại khu vực bị ô nhiễm,đặc
biệt là trong trường hợp phạm vi ô nhiễm rộng,thiệt hại xảy ra đối với nhiều
cá nhân tổ chức mà không thể tính cụ thể đối với từng người.Trong đó các số
liệu dung để đối chứng là sản lượng cây trồng,vật nuôi trung bình hàng năm
được thu thập từ các cơ quan thống kê địa phương,ban quản lý hợp tác xã…
Cách thức tiến hành là đối chứng sản lượng cây trồng vật nuôi trong năm ô
nhiễm với những năm trước đó,và đối chứng các số liệu trong khu vực ô
nhiễm với các khu vực khác với điều kiện tương đồng về khí hậu thổ
nhưỡng…Số lượng thành phần môi trường, loại hình hệ sinh thái, giống loài
bị suy giảm, và mức độ thiệt hại của từng loại cũng là một trong những căn cứ
để xác định mức độ thiệt hại đối với môi trường (khoản 3 Điều 131 Luật
BVMT 2005).
Về tính những thiệt hại về tính mạng,sức khỏe do ô nhiễm môi trường
gây nên thì dựa trên những chi phí khám bệnh do cơ sở y tế cung cấp.Tùy
thuộc vào mức độ ô nhiễm và thời gian ảnh hưởng mà thiệt hại gây ra đối với
sức khỏe con người có thể biểu hiện dưới các dạng như:bệnh mãn tính,bệnh
29
cấp tính,tử vong…Tuy nhiên,những thiệt hại về sức khỏe này mới chỉ được
tính thông qua các chi phí cho việc cứu chữa bệnh mà chưa tính đến các chi
phí bồi dưỡng phục hồi sức khỏe,chức năng bị mất hoặc giảm sút…
Ngoài ra việc tính toán thiệt hại môi trường thông qua chi phí xử lý, cải
tạo, phục hồi môi trường được hiểu là bên gây ô nhiễm môi trường phải bồi
thường một khoản bằng chi phí bỏ ra để xử lý ô nhiễm, để loại bỏ các yếu tố
độc hại có trong thành phần môi trường, như chi phí để xử lý, cải tạo đất bị ô
nhiễm, để phục hồi độ phì nhiêu của đất; chi phí để nạo vét kênh rạch, sông,
hồ, làm sạch môi trường nước...
4.3 Tham gia giải quyết tranh chấp, góp phần điều hòa lợi ích giữa các bên
xung đột:
Trong các vụ tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô
nhiễm môi trường gây ra tại Việt Nam, các cấp chính quyền và các cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường đóng vai trò là cơ quan chuyên môn xác định
nguyên nhân gây ô nhiễm,mức đọ thiệt hại, và đồng thời là cơ quan đánh giá
các chứng cứ pháp lý, phân tích và nêu cơ sở giải quyết tạo cơ hội cho các
bên tranh chấp tự giải quyết không cần đưa vụ việc ra giải quyết ở tòa án. Căn
cứ vào các trường hợp cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền gợi ý các
phương án nhằm điều hòa lợi ích xung đột như áp dụng các phương pháp bồi
thường thiệt hại:
• Bồi thường toàn bộ thiệt hại thực tế (thường trong các trường hợp
phạm vi ô nhiễm hẹp, thiệt hại với số ít người, giá trị thiệt hại dễ xác định)
• Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định tỷ lệ giữa tổng giá trị thiệt
hại được bù đắp so với tổng giá trị thiệt hại thực tế.
• Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định cấp độ thiệt hại(trong
trường hợp có sự chênh lệch đáng kể giữa những người bị thiệt hại ở các mức
độ khác nhau)
30
• Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định mức thiệt hại bình quân
(trong các trường hợp không có sự chênh lệch đáng kể giữa các mức thiệt
hại). Mọi đối tượng thiệt hại đều được hưởng mức bồi thường như nhau.
• Bồi thường thiệt hại bằng việc đầu tư vào các công trình công cộng
phúc lợi như: công trình thủy lợi, giao thông, y tế.
Việc tính toán chi phí thiệt hại về môi trường được quy định tại điều
131.4.Luật bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, đối với các trường hợp tranh chấp môi trường mà có một
bên hoặc các bên là chủ thể nước ngoài về bảo vệ môi trường trên lãnh thổ
Việt Nam tuân theo các quy định của luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp
môi trường đồng thời có xem xét các quy định và thông lệ của quốc tế.
5.Thủ tục hành chính giải quyết khiếu nại, tranh chấp môi trường:
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ
- Đơn thư khiếu nại, tranh chấp về lĩnh vực tài nguyên và môi trường
của tổ chức, cá nhân gửi đến Sở thông qua:
- Tổ chức, cá nhân nộp trực tiếp tại bộ phận văn thư của Sở;
- Chuyển qua đường bưu điện;
- Đơn của công dân do UBND Tỉnh chuyển đến Sở yêu cầu tổ chức
thẩm tra, xác minh, tham mưu UBND Tỉnh giải quyết.
Bước 2: Xem xét chỉ đạo:
Lãnh đạo Sở sau khi xem xét nội dung đơn khiếu nại, tranh chấp của
công dân gửi đến hoặc đơn do UBND Tỉnh giao, có ý kiến chỉ đạo Thanh tra
Sở xử lý: Đối với những đơn thư thuộc thẩm quyền của UBND Tỉnh hoặc của
Giám đốc Sở, giao Thanh tra Sở tiến hành thụ lý theo quy định của Luật khiếu
nại tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Đối với các đơn thư không thuộc thẩm quyền của Sở, giao Thanh tra Sở
xử lý: Chuyển, trả, hướng dẫn, lưu... Thanh tra Sở có trách nhiệm lập Phiếu
31
hướng dẫn (theo mẫu số 36 ban hành kèm theo Quyết định số:
1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18 tháng 6 năm 2008 của Thanh tra Chính phủ
v/v ban hành mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo) hướng dẫn tổ chức cá nhân đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ
việc.
Bước 3: Phân công thụ lý
- Lãnh đạo Thanh tra Sở nghiên cứu hồ sơ và phân công cán bộ thụ lý
hồ sơ (phân công trực tiếp vào đơn thư khiếu nại, do UBND Tỉnh chuyển đến)
hoặc đề xuất Lãnh đạo Sở có văn bản phân công cán bộ thụ lý vụ việc.
- Cán bộ được phân công cập nhật hồ sơ vào Sổ theo dõi tiếp nhận đơn
thư khiếu nại, tranh chấp.
- Sau khi xác định các hồ sơ thuộc thẩm quyền giải quyết, chuyên viên
được phân công cập nhật vào Bảng theo dõi thụ lý đơn đối với thẩm quyền
UBND tỉnh.
Bước 4: Thẩm tra hồ sơ
- Cán bộ thụ lý đơn tiến hành tổ chức thẩm tra, xác minh vụ việc (thu
thập hồ sơ, làm việc với đương sự, với địa phương, Phòng Tài nguyên và Môi
trường các huyện, thị xã, thành phố và các cá nhân, tổ chức có liên quan); cụ
thể:
- Yêu cầu người người khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu và những
bằng chứng về nội dung khiếu nại,
- Yêu cầu người bị khiếu nại giải trình bằng văn bản về những nội dung
bị khiếu nại.
- Yêu cầu người giải quyết khiếu nại lần đầu, cá nhân, cơ quan, tổ chức
hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu và những bằng chứng liên quan đến nội
dung khiếu nại;
- Đề xuất Lãnh đạo Sở tổ chức đối thoại người bị khiếu nại, người
32
khiếu nại khi cần thiết; Xác minh tại chỗ, cụ thể:
- Xác minh về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng, hồ sơ địa chính, quá
trình giải quyết của chính quyền địa phương, việc tham mưu giải quyết của
các Phòng, ban chức năng của cấp huyện và các cơ quan, tổ chức có liên
quan, xem xét hiện trạng sử dụng đất...
- Kết quả làm việc được lập thành biên bản.
Bước 5: Báo cáo kết luận đề xuất
- Sau khi thẩm tra, xác minh xong, cán bộ thụ lý hồ sơ lập Báo cáo
thẩm tra, xác minh trình Lãnh đạo Thanh tra Sở soát xét. Sau khi được Lãnh
đạo Thanh tra Sở tham gia chỉnh sửa, hoàn thiện, cán bộ thụ lý trình báo cáo
cho Giám đốc Sở.
- Giám đốc Sở xem xét Báo cáo thẩm tra, xác minh của Thanh tra Sở:
- Khi báo cáo đảm bảo yêu cầu thì thống nhất nội dung báo cáo.
- Khi báo cáo không đảm bảo yêu cầu thì yêu cầu cán bộ thụ lý hồ sơ
thẩm tra, xác minh lại (đối với Hồ sơ khiếu nại).
Bước 6:
- Báo cáo UBND tỉnh và UBND Tỉnh trả lời đương sự.
- Đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND Tỉnh, sau
khi Giám đốc Sở thống nhất nội dung báo cáo đề xuất của cán bộ được phân
công thụ lý, Giám đốc Sở ký vào báo cáo trình UBND Tỉnh kết quả thẩm tra,
xác minh, kết luận và đề xuất giải quyết.
- Bộ phận tiếp nhận có trách nhiệm tiếp nhận kết quả giải quyết và giao
kết quả giải quyết cho đương sự.
- Đối với hồ sơ thuộc thẩm quyền giải quyết của Giám đốc Sở, Văn thư
có trách nhiệm chuyển văn bản trả lời của Giám đốc Sở cho đương sự.
- Đối với hồ sơ thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND Tỉnh, Chủ tịch
UBND Tỉnh xem xét báo cáo của Giám đốc Sở, nếu đảm bảo yêu cầu thì có
33
văn bản trả lời cho đương sự, nếu không đảm bảo yêu cầu giao Sở thẩm tra,
xác minh lại.
- Chủ tịch UBND Tỉnh ban hành Quyết định giải quyết đơn khiếu nại,
của công dân đối với vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch
UBND Tỉnh.
- Thanh Tra Sở lưu quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND Tỉnh gửi
cho Sở.
Cách thức thực hiện:
• Đơn thư khiếu nại, tranh chấp về lĩnh vực tài nguyên và môi trường
của tổ chức, cá nhân gửi đến Sở thông qua:
- Tổ chức, cá nhân nộp trực tiếp tại bộ phận văn thư của Sở;
- Chuyển qua đường bưu điện;
- Đơn của công dân do UBND Tỉnh chuyển đến Sở yêu cầu tổ chức
thẩm tra, xác minh, tham mưu UBND Tỉnh giải quyết.
• Thời hạn giải quyết :
- Thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 45 ngày, đối với vụ việc
khiếu nại phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá
60 ngày.
- Đối với những vụ việc thuộc vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì
thời hạn giải quyết không quá 60 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Đối với
vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn nhưng
không quá 70 ngày.
Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính :
• Cơ quan có thẩm quyền quyết định: UBND tỉnh.
• Cơ quan hoặc người có thẩm quyền được uỷ quyền hoặc phân cấp
thực hiện (nếu có):
• Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC: Sở Tài nguyên và Môi trường
34
• Cơ quan phối hợp (nếu có): Thanh tra tỉnh, phòng tiếp dân UBND
Tỉnh.
Kết quả thực hiện thủ tục hành chính:
Quyết định hành chính về giải quyết khiếu nại của công dân.
Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai :
Mẫu văn bản giải quyết khiếu nại (Quyết định số: 1131/2008/QĐ TTCP ngày 18 tháng 6 năm 2008 của Thanh tra Chính phủ V/v ban hành mẫu
văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo)
Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính :
- Luật Thanh tra ngày 15 tháng 6 năm 2004;
- Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005- Luật Đất đai, Luật số
13/2003/QH11 ngày 26/01/2003, có hiệu ngày 01/7/2004.
- Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2005 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra
- Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo và các Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo;
6. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết
tranh chấp môi trường:
_Luật bảo vệ môi trường 2005.
_Bộ luật hình sự 1999 sưa đổi bổ sung nam 2009
_Bộ luật dân sự 2005.
_Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
_Nghị định số 65/2006/NĐ-CP ngày 23/6/2006 về tổ chức và hoạt động
của ngành thanh tra tài nguyên và môi trường.
_Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
35
vực bảo vệ môi trường.
_Nghị định số 35/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra
tài nguyên môi trường.
_Quyết định số 168/QĐ-TNMT ngày 25/8/2006 về việc thành lập Đoàn
thanh tra việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường và xả nước thải tại 1 số
doanh ngiệp trên địa bàn tỉnh có biểu hiện tồn tại vi phạm.
_Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của thủ tướng chính
phủ về xử lý gây ô nhiễm môi trường.
III. THỰC TRẠNG TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG:
Trong thời gian qua, hàng loạt các vụ việc tranh chấp môi trường xảy ra
với mức độ nghiêm trọng ở nhiều tỉnh, thành khác nhau trong cả nước, thể
hiện tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ngày càng
gia tăng, diễn biến phức tạp. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền đã thể hiện
quyết tâm trong việc xử lý đối với các hành vi vi phạm. Tuy nhiên, bên cạnh
đó cũng xuất hiện nhiều vướng mắc và bất cập của pháp luật trong việc xử lý
đối với các vi phạm xảy ra.
1. Một số tồn tại trong các văn bản pháp luật về tranh chấp môi trường:
1.1 Xử lý hình sự vi phạm môi trường
Theo nghiên cứu của Trung tâm Con người và thiên nhiên Việt Nam,
thì luật pháp về môi trường của Việt Nam còn nhiều bất cập, một số quan
điểm về tội phạm môi trường còn chưa rõ ràng, gây không ít khó khăn cho
người thừa hành công vụ trong việc phát hiện, xử lý các vi phạm về môi
trường. Vedan là một trong số các ví dụ điển hình.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (sửa đổi) đã xác định: Bảo vệ môi
trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà
nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (Điều 4, Mục 2); và “Tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục,
36
bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật”
(Điều 4, Mục 5).
Đây chính là quan điểm nhất quán về quyền và trách nhiệm của các chủ
thể pháp luật đối với công tác Bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Điều 7 của
Luật này cũng quy định 15 hành vi vi phạm môi trường cụ thể bị nhà nước
nghiêm cấm.
Tuy nhiên, theo PanNature, đến nay, khái niệm về tội phạm môi trường
vẫn chưa được luật hóa, mà mới chỉ được định nghĩa trong một số công trình
nghiên cứu... Những vụ sai phạm rất điển hình như vụ Công ty Vedan Việt
Nam, vụ Công ty Hyundai - Vinashin, vụ Nhà máy Miwon ở Phú Thọ... đều
đã không bị xử lý hình sự.
Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với các trường hợp
này, trên thực tế đã bộc lộ những bất cập của chính sách hình sự hóa vi phạm
môi trường, cũng như sự yếu kém của bộ máy cơ quan nhà nước về quản lý
môi trường ở Trung ương và địa phương. Từ đó, dẫn đến những quan ngại
cùng những nghi ngờ rằng, các trường hợp phạm tội đã lọt lưới pháp luật.
Thực tế, trong số 10 tội danh về phạm tội môi trường , đến nay ở Việt
Nam chỉ có 2 tội danh bị khởi tố điều tra và đưa ra xét xử là hủy hoại rừng
(Điều 189 Bộ luật Hình sự 1999) và vi phạm các quy định về bảo vệ động vật
hoang dã, quý hiếm (Điều 190 Bộ luật Hình sự 1999).
Một số cơ quan chức năng phản ảnh rằng khái niệm mang yếu tố định
tội, định khung hình phạt như “làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng”,
“gây hậu quả nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”… trong Bộ luật Hình
sự (sửa đổi) chưa được giải thích cụ thể. Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005)
cũng có định nghĩa thế nào là nghiêm trọng, là đặc biệt nghiêm trọng ở Điều
92. Tuy nhiên chưa có quy định có thể áp dụng cách giải thích từ ngữ đó khi
tiến hành điều tra các tội phạm về môi trường không, quy định như vậy có
37
phù hợp với chính sách pháp luật hiện nay không? Điều này cũng cần có sự
giải thích hoặc làm rõ trong pháp luật hình sự.
Ngoài ra, còn một số điểm khác cần làm rõ. Ví dụ, xử lý hình sự hiện
nay chỉ áp dụng đối với cá nhân chứ không áp dụng đối với pháp nhân hay
một tổ chức. Vấn đề xác định chứng cứ phạm tội cũng phải hướng dẫn chi
tiết, cụ thể hơn…
Theo thống kê của Cục Cảnh sát môi trường, 6 tháng đầu năm 2008
Cục đã phát hiện 13 vụ với 16 đối tượng vi phạm nghiêm trọng pháp luật về
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên trong số này chỉ khởi tố được 2 vụ với 2 bị can,
còn chuyển xử lý hành chính 6 vụ, 5 đối tượng. Nhìn vào những con số khiêm
tốn này có thể nói việc xử lý hình sự chưa tương xứng với các hành vi vi
phạm đang diễn ra trên thực tế.
Lý giải vì sao tội phạm môi trường ít bị xử lý, ông Nguyễn Quốc Việt –
Vụ trưởng Vụ hành chính hình sự – Bộ Tư pháp cho rằng: nguyên nhân chính
là do bất cập trong yếu tố cấu thành. Cụ thể, cả mười tội thuộc chương này
đều quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi đã bị xử lý
hành chính mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng. Quy định này đã
hạn chế khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các loại tội phạm này.
Bởi, xác định hậu quả về môi trường là rất khó khăn, hơn nữa nhiều trường
hợp hậu quả lại không xảy ra ngay mà phải sau một thời gian dài, có thể vài
chục năm sau mới thấy được. Nhưng đợi đến khi đó, thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm này đã hết.
Chung nhận định với ông Việt, ông Nguyễn Xuân Lý – Cục trưởng Cục
Cảnh sát môi trường phân tích: có đến 8/10 Điều luật của Chương các tội
phạm về môi trường quy định “đã bị xử phạt hành chính” là yếu tố bắt buộc
để xử lý hình sự. Trong khi đó, theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính thì thời hạn có hiệu lực của quyết định hành chính chỉ trong vòng
38
1 năm. Sau một năm đó, cá nhân tổ chức vi phạm tiếp tục vi phạm thì cũng
không xử lý hình sự được.
Cũng về vấn đề này, bà Nguyễn Thị Phương Hoa- Vụ phó Vụ pháp
chế, Bộ Tài nguyên – môi trường bổ sung : thời gian qua nhiều vụ mua bán,
hoặc nhập khẩu rác thải lớn vào Việt Nam gây hậu quả rất lớn cho sức khoẻ,
tính mạng con người nhưng chúng ta chủ yếu xử lý hành chính. Vì sao vậy?
Một mặt bà Hoa cho rằng các hành vi này phần vì chưa có quy định để xử lý
hình sự, mặt khác việc vi phạm chủ yếu do các tổ chức gây ra, nhưng pháp
luật lại chưa có chế tài, do vậy cần phải quy định rõ trong trường hợp tổ chức
vi phạm thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm, nếu không chúng ta sẽ
không xử lý được ai .
Trước đây, quan điểm của Việt Nam trong vấn đề tội phạm môi trường
là hạn chế hình sự hóa, lấy giáo dục, phòng ngừa là chính. Điều này đã và
đang tạo nên những lỗ hổng lớn trong hệ thống quản lý và bảo vệ môi trường
cũng như bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, làm hạn chế tính răn đe và thực thi
của luật pháp.
Nhiều chuyên gia cho rằng, đã đến lúc cần phải có những cách tiếp cận
và nhận thức mới hơn để hoàn thiện cơ sở pháp luật về tội phạm môi trường
cũng như công tác giám sát thực thi pháp luật về Bảo vệ môi trường tại Việt
Nam.
1.2 Xử lí hành chính vi phạm môi trường:
Khác với các lĩnh vực dân sự,kinh tế hay lao động,trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường tranh chấp có thể được giải quyết theo thủ tục hành chính.
Sở dĩ có nhiều nước trong đó có Việt Nam thủ tục hành chính vẫn đang
được thừa nhận và áp dụng tương đối phổ biến trong quá trình giải quyết các
xung đột môi trường là vì họ quan niệm đối tượng của tranh chấp môi trường
luôn có quan hệ mật thiết đến những lợi ích công cộng mà nhà nước bảo
39
vệ.Ngoài ra họ còn cho rằng thủ tục hành chính thường đáp ứng được những
yêu cầu giải quyết nhanh chóng tranh chấp môi trường,ngăn chặn kịp thời
những hậu quả xấu có thể gây ra với môi trường
Ngày 31/12/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 117/2009/NĐ-CP
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, thay thế Nghị
định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/3/2010.Do Nghị định 117 mới được ban hành nên tại thời điểm này vẫn
chưa đủ cơ sở để đánh giá những ưu nhược điểm của nó trong thực tế áp
dụng,mặt khác dù sửa đổi nhưng Nghị định 117 vẫn trên tinh thần của Nghị
định 81.Vì vậy trong phạm vi nghiên cứu này chúng em chỉ xin nêu ra một số
thực trạng và hạn chế của Nghị định số 81/2006/NĐ-CP mà ở Nghị định
117/2009/ND-CP vẫn chưa sửa đổi được :
1.2.1 Định nghĩa về vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường trong Nghị định chưa đầy đủ, chưa thể hiện được đặc điểm của loại
vi phạm này
Định nghĩa vi phạm hành chính là một trong những nội dung quan
trọng không thể thiếu trong các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong
các lĩnh vực cụ thể. Việc định nghĩa đúng thể hiện đầy đủ các yếu tố pháp lý
của vi phạm hành chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc áp dụng pháp
luật.
Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
(sau đây viết tắt là Nghị định 81/2006/NĐ-CP) định nghĩa: “vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi phạm các quy
định quản lí nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường do cá nhân, tổ chức
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy
định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định này phải bị xử lý vi
40
phạm hành chính”.
Định nghĩa về vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
nêu trên được cấu trúc theo công thức tương tự như định nghĩa về vi phạm
hành chính tại Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt Vi Phạm Hành Chính do Hội đồng
Nhà nước ban hành ngày 30/11/1989 và có hiệu lực ngày 01/01/1990 (viết tắt
là Pháp lệnh 1989). Chỉ có sự thay đổi “xâm phạm các quy tắc quản lý nhà
nước” thành “vi phạm các quy định quản lý nhà nước” đồng thời nêu cụ thể
lĩnh vực quản lý nhà nước là lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, theo nhiều ý kiến thì định nghĩa vi phạm hành chính tại
Pháp lệnh 1989 vẫn còn một số hạn chế nhất định như: vẫn còn thiếu dấu hiệu
về năng lực trách nhiệm hành chính của chủ thể và không chính xác khi cho
rằng quy tắc quản lí nhà nước là khách thể của vi phạm; việc xác định khách
thể của vi phạm hành chính là các quy tắc quản lí nhà nước dẫn tới chỗ có thể
được hiểu đó là khách thể của cả vi phạm kỷ luật và không bao gồm được các
quan hệ xã hội liên quan tới sở hữu nhà nước, các quyền tự do và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Theo Giáo trình Luật hành chính Việt Nam của Đại học Quốc gia Hà
Nội thì định nghĩa trên vẫn cần phải được chính xác hóa thêm ở một số khía
cạnh:
Một là, yếu tố khách thể của vi phạm hành chính (những quan hệ xã hội
bị vi phạm hành chính xâm hại) không được thể hiện trong định nghĩa, tuy
rằng điều này rất quan trọng. Công thức “xâm phạm quy tắc quản lí nhà
nước” không phải chỉ khách thể vi phạm, mà là chỉ tính trái pháp luật của
hành vi, vì khách thể vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội, chứ không phải là
“quy tắc”, mà quy tắc chính là nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Hai là, công thức “mà không phải là tội phạm hình sự” rất dễ làm cho
chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hiểu lầm, dẫn đến chỗ tự cho mình có
41
quyền đánh giá hành vi nào là vi phạm hình sự, hành vi nào là vi phạm hành
chính, mà xem nhẹ việc dựa vào những quy định của Bộ luật Hình sự.
Chúng em hoàn toàn thống nhất với các quan điểm trên về định nghĩa
vi phạm hành chính. Vì khách thể vi phạm hành chính (những quan hệ xã hội
bị vi phạm hành chính xâm hại) là một yếu tố rất quan trọng, thể hiện tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm hành chính, nên cần phải thể
hiện trong định nghĩa về vi phạm hành chính. Năng lực chịu trách nhiệm hành
chính của chủ thể vi phạm là dấu hiệu bắt buộc của vi phạm pháp luật nói
chung và vi phạm hành chính nói riêng. Do đó, các dấu hiệu này cần phải
được khẳng định ngay trong định nghĩa về vi phạm hành chính. Ngoài ra, việc
thay công thức “mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính” thành “mà theo quy định của pháp
luật phải chịu trách nhiệm hành chính” vừa ngắn gọn, vừa đầy đủ ý nghĩa
hơn, thể hiện được sự phân biệt giữa vi phạm hành chính với tội phạm vì chỉ
có vi phạm hành chính mới chịu trách nhiệm hành chính còn tội phạm thì phải
chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời cụm từ “chịu trách nhiệm hành chính”
bao hàm được cả “phải bị xử phạt vi phạm hành chính” và bị áp dụng các biện
pháp khôi phục.
Vì thế, định nghĩa về vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường nêu tại Nghị định 81/2006/N-CP cũng có những hạn chế như định
nghĩa về vi phạm hành chính trong Pháp lệnh 1989.
Trên cơ sở nghiên cứu các dấu hiệu và yếu tố pháp lý của vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (chủ thể, khách thể, mặt chủ quan,
mặt khách quan) và những phân tích như trên, theo chúng tôi, vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có thể được định nghĩa như sau:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là hành vi (hành
động hoặc không hành động) vi phạm các quy định quản lí nhà nước trong
42
lĩnh vực bảo vệ môi trường, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực
trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm hại đến những
quan hệ pháp luật bảo vệ môi trường phát sinh trong quá trình khai thác, sử
dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường mà theo quy
định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính.
1.2.2 Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
chưa đủ để đáp ứng yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định 25 hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bao từ Điều 8 đến Điều 32 bao gồm các hành vi vi phạm các
quy định về cam kết bảo vệ môi trường; đánh giá tác động môi trường và
đánh giá môi trường chiến lược; về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản
xuất kinh doanh (ví dụ như: hành vi xả nước thải, khí thải, bụi vượt tiêu
chuẩn); về quản lý chất thải; về bảo tồn thiên nhiên; phòng, chống sự cố môi
trường; hoạt động quản lí nhà nước về bảo vệ môi trường..
Mặc dù khách thể của vi phạm hành chính là các quan hệ xã hội bị xâm
hại nhưng hành vi vi phạm trong các văn bản thường không nêu quan hệ xã
hội bị xâm hại mà được mô tả thông qua các quy định của pháp luật mà hành
vi đó xâm phạm (ví dụ: hành vi vi phạm các quy định về cam kết bảo vệ môi
trường). Đồng thời, thông thường các hành vi vi phạm được xác định dựa
theo hệ thống quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đó (mặc dù, về nguyên tắc
việc xác định này phải căn cứ vào yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm
pháp luật và thực tiễn vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đó).
Do đó, việc đánh giá mức độ đầy đủ của hành vi vi phạm hành chính
trong một lĩnh vực thường được đối chiếu giữa số hành vi vi phạm đã được
quy định với hệ thống các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đó. So với hệ
thống các quy phạm pháp luật trong lĩnh vệ bảo vệ môi trường thì 25 hành vi
được quy định nêu trên, theo chúng tôi, là chưa đầy đủ.
43
Vì vậy, để bảo đảm cho các quy định của pháp luật được thực hiện và
đáp ứng yêu cầu phòng chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường cần phải quy định bổ sung các hành vi vi phạm hành chính vào Nghị
định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. Điều này cũng giống như
hình sự hóa trong lĩnh vực hình sự, dĩ nhiên ở mức độ đơn giản hơn nhiều.
Bên cạnh đó, việc quy định hành vi nào, hình thức xử phạt ra sao đối với hành
vi đó cần phải có những đánh giá cụ thể mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi (ví dụ một số hành vi: vi phạm quy định về lập, thực hiện đề án bảo
vệ môi trường; vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường đối với cơ sở
thuộc danh mục các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; vi phạm các
quy định về bảo vệ môi trường đối với chất thải nguy hại như: các quy định
đối với chủ nguồn thải chất thải nguy hại; vận chuyển; xử lý, tiêu hủy, chôn
lấp; vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động chăn nuôi và
nuôi trồng thủy sản; vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường biển; vi
phạm các quy định về bảo vệ môi trường nơi công cộng; vi phạm về bảo vệ
môi trường đối với khu đô thị, khu dân cư tập trung...).
1.2.3 Một số hình thức xử lý và biện pháp khắc phục hậu quả quy
định chưa cụ thể
Hình thức “tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện
pháp bảo vệ môi trường cần thiết” và “cấm hoạt động, buộc di dời” không
được Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định cụ thể là hình thức phạt bổ sung
hay biện pháp khắc phục hậu quả. Nếu căn cứ vào khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh
Xử lý Vi Phạm Hành Chính năm 2002 và Điều 7 Nghị định 81/2006/NĐ-CP
thì cả hai hình thức nêu trên đều không được xem là hình thức phạt bổ sung,
vì các quy định này chỉ quy định hai hình thức phạt bổ sung là tước quyền sử
dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm.
Theo chúng tôi, hình thức “tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực
44
hiện xong biện pháp bảo vệ môi trường cần thiết”, xét về nội dung thì phải
được xem là biện pháp ngăn chặn. Bởi vì: thứ nhất, về thời gian, đây là biện
pháp tạm thời thực hiện trong thời hạn nhất định phải có lúc kết thúc. Thứ hai,
việc tạm thời đình chỉ hoạt động tức là tạm ngưng hoạt động của cơ sở sản
xuất vi phạm, bản thân của việc tạm ngưng này hoàn toàn không phát sinh
một sự phục hồi nào cho tình trạng hiện tại, mà chỉ là sự chấm dứt nguyên
nhân dẫn đến việc vi phạm và có ý nghĩa để đảm bảo cho việc thực hiện các
biện pháp khắc phục khác.
Thực tế, việc xử lý vi phạm hành chính Công ty Vedan (tại tỉnh Đồng
Nai) vào tháng 10/2008 vừa qua của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường
đã cho thấy những vướng mắc từ việc xác định không rõ ràng nêu trên. Khi
ban hành quyết định xử lý đối với Công ty Vedan, Thanh tra Bộ Tài nguyên
và Môi trường không áp dụng hình thức tạm đình chỉ hoạt động Công ty
Vedan mà có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành quyết
định tạm đình chỉ hoạt động Công ty Vedan. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai
thì cho rằng, tạm đình chỉ là hình thức phạt bổ sung nên không thể ban hành
quyết định vì Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành quyết định xử phạt
rồi mà nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính thì chỉ xử phạt một lần đối với
một hành vi vi phạm.
Vướng mắc này lẽ ra đã không xảy ra nếu như trong Nghị định
81/2006/NĐ-CP cụ thể hóa Điều 18 của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày
14/11/2003 về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý Vi
Phạm Hành Chính năm 2002:
“Khi phát hiện vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt phải
ra quyết định đình chỉ ngay hành vi vi phạm. Quyết định đình chỉ có thể là
quyết định bằng văn bản hoặc quyết định thể hiện bằng lời nói, còi, tín hiệu
hoặc các hình thức khác tuỳ từng trường hợp vi phạm cụ thể”. Điều này của
45
Nghị định là cụ thể hóa Điều 53 của Pháp lệnh. Thực chất, đây là biện pháp
ngăn chặn vi phạm hành chính.
Khi “tạm đình chỉ hoạt động” được xem là biện pháp ngăn chặn thì nó
được áp dụng theo thủ tục riêng độc lập với việc ban hành quyết định xử lý.
Lúc này thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai có quyền ban hành
quyết định tạm đình chỉ hoạt động đối với Công ty Vedan mà không phải lo
việc vi phạm nguyên tắc một hành vi vi phạm chỉ xử phạt một lần, vì quyết
định tạm đình chỉ hoạt động là quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn vi
phạm hành chính.
Riêng “cấm hoạt động, buộc di dời”, xét về nội dung, là hai hình thức
có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: “cấm hoạt động” mang ý nghĩa là hình thức
phạt bổ sung, mang tính xử phạt vì tước bỏ quyền vốn có của đương sự; còn
“buộc di dời” về tính chất rõ ràng là biện pháp khắc phục hậu quả. Việc phân
định cụ thể như vậy là rất có ý nghĩa trong thủ tục áp dụng.
Cũng cần nói thêm một hạn chế nữa là trong phần quy định về thẩm
quyền, thủ tục xử lý của Nghị định cũng không có quy định về biện pháp
“tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện pháp bảo vệ môi
trường cần thiết” và hình thức “cấm hoạt động, buộc di dời”.
Vì vậy, theo chúng tôi, cần quy định cụ thể, rõ hình thức “buộc đình chỉ
hoạt động trong một thời gian nhất định để thực hiện các biện pháp bảo vệ
môi trường theo quy định” là biện pháp “ngăn chặn vi phạm hành chính và
đảm bảo việc xử phạt”. Nội dung đình chỉ là chỉ đình chỉ đối với công đoạn
phát sinh ô nhiễm chứ không phải đình chỉ toàn bộ hoạt động của đơn vị.
Điều này sẽ khắc phục được những vướng mắc về thẩm quyền áp dụng, dẫn
đến tình trạng đùn đẩy như đã diễn ra đối với vi phạm của Công ty Vedan.
Đồng thời quy định rõ “cấm hoạt động” là hình thức phạt bổ sung và “buộc di
dời” là biện pháp khắc phục hậu quả. Kèm theo đó, cần quy định cả thủ tục áp
46
dụng cả ba biện pháp này.
1.2.4. Chưa quy định chi tiết các chỉ tiêu phân tích mẫu chất thải cho
từng loại ngành nghề cụ thể, có thể dẫn đến bỏ sót vi phạm
Nhiều vi phạm đòi hỏi phải có kết quả phân tích mẫu chất thải như các
hành vi xả nước thải, khí thải vượt tiêu chuẩn môi trường. Trong khi tiêu
chuẩn môi trường quy định cho từng loại thường có rất nhiều chỉ tiêu như tiêu
chuẩn nước thải công nghiệp (37 chỉ tiêu); tiêu chuẩn chất vô cơ trong khí
thải công nghiệp (19 chỉ tiêu); tiêu chuẩn chất hữu cơ trong khí thải công
nghiệp (109 chỉ tiêu). Vì vậy, về nguyên tắc, để xác định một trường hợp
nước thải hay khí thải cụ thể có vượt tiêu chuẩn cho phép không thì phải có
kết quả phân tích của tất cả các chỉ tiêu, mà việc phân tích này rất tốn kém
(mỗi chỉ tiêu phân tích có giá trung bình hiện nay khoảng 50.000 đồng đến
60.000 đồng) và thực tế là không cần thiết vì mỗi ngành sản xuất khác nhau
có những đặc điểm khác nhau về các chỉ tiêu đặc trưng. Do vậy, trong thực tế,
cơ quan kiểm tra, thanh tra thường căn cứ vào đặc điểm của từng ngành sản
xuất cụ thể để quyết định yêu cầu phân tích một số chỉ tiêu nhất định (ví dụ
như nước thải của ngành công nghiệp thực phẩm thì các chỉ tiêu được quan
tâm là BOD, COD, DO, pH, chất rắn lơ lửng và Ecolifom; ngành công nghiệp
điện, điện tử thì quan tâm các chỉ tiêu kim loại nặng (Hg, Pb, Cr(VI), Cr(III)
và một số hóa chất đặc trưng khác như chất phóng xạ; với công nghiệp dệt
nhuộm thì quan tâm các chỉ tiêu màu, pH, COD, tổng Clo hữu cơ và một số
hóa chất khác được sử dụng trong quá trình sản xuất…). Việc quyết định yêu
cầu phân tích chỉ tiêu nào hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cán bộ
kiểm tra, thanh tra (trình độ chuyên môn hoặc do cố ý của người cán bộ) nên
dễ dẫn đến yêu cầu phân tích chỉ tiêu không phù hợp với ngành đang kiểm tra,
hoặc đưa ra một kết quả phân tích nước thải, khí thải đạt yêu cầu cho phép
trong khi thực chất kết quả đó vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều này làm cho vi
47
phạm bị bỏ sót. Do vậy, đòi hỏi cần phải pháp lý hóa các yêu cầu về chỉ tiêu
các chất gây ô nhiễm cần quan tâm trong từng ngành cụ thể để tránh tình
trạng như đã nêu, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm
tra được thực hiện một cách thống nhất.
2.Tình trạng tranh chấp môi trường trong thực tế ở nước ta hiện nay:
a.Những ưu điểm trong việc giải quyết tranh chấp môi trường hiện
nay:
Tại Việt Nam,các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh
chấp môi trường bao gồm:
+Chính phủ:trực tiếp chỉ đạo,hướng dẫn giải quyết tranh chấp môi
trường.
+Bộ Tài nguyên và Môi trường,Bộ Khoa học-Công nghệ,Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn,Bộ Công an (Cục cảnh sát môi trường) và các
cơ quan thanh tra bảo vệ môi trường thuộc Bộ Tâi nguyên và Môi
trường,thanh tra bảo vệ môi trường cấp tỉnh:thanh tra,kiểm tra phát hiện các
vi phạm,thu thập thông tin,chứng cứ,lấy mẫu để xác minh sự việc…
+Ủy ban nhân dân các cấp:thanh tra,kiểm tra việc bảo vệ môi trường
của các cơ quan hành chính,đơn vị sự nghiệp,hộ gia đình cá nhân.
Một tín hiệu đáng mừng là hiện nay các cơ quan có thẩm quyền trong
việc giải quyết tranh chấp môi trường đã có cái nhìn đúng đắn về tầm quan
trọng của vấn đề này. Dù còn nhiều vướng mắc và bất cập nhưng thực tế các
cơ quan chức năng cũng đã làm việc hết mình,đặc biệt là lực lượng cảnh sát
môi trường.
Là một đơn vị mới được thành lập,nhưng thời gian qua cảnh sát môi
trường đã có những thành tích đáng ghi nhận trong hoạt động kiểm tra,phát
hiện các trường hợp vi phạm môi trường.Từ khi thành lập đến nay, cảnh sát
môi trường đã phát hiện, điều tra hơn 5.600 vụ vi phạm, xử lý trên 6.000 cá
48
nhân và tổ chức, chuyển cơ quan cảnh sát điều tra các cấp khởi tố gần 100 vụ,
chủ yếu là các vụ vi phạm về phá hoại rừng, bảo vệ động vật hoang dã. Lực
lượng cảnh sát môi trường phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường, tạo sự đồng bộ, nhất quán trong hoạt động giám
sát và xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Tính đến
nay, toàn lực lượng đã chủ trì 2796 lượt, tham gia 2538 lượt với các ngành
Tài nguyên môi trường, Y tế, Kiểm lâm, Hải quan, Quản lý thị trường... kiểm
tra việc chấp hành luật bảo vệ môi trường đối với 10.135 đối tượng, trong đó
có các đợt thanh kiểm tra theo chủ trương của Chính phủ và ngành chủ quản
như kiểm tra việc khắc phục hậu quả của Công ty Vedan; khảo sát lưu vực
sông Thị Vải; tham gia Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu và sông
Đồng Nai; sản xuất thuốc bảo vệ thực vật; chế biến thủy hải sản; tình hình
công tác bảo vệ rừng tại 8 tỉnh...
Riêng công tác tiếp nhận đơn thư, giải quyết khiếu nại, Cục Cảnh sát
môi trường đã tiếp nhận, xử lý 1.290 đơn thư, tin báo về tình hình hoạt động
của các cơ sở sản xuất, chế biến gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến cuộc
sống của nhân dân. Kết quả xác minh đã phát hiện 499 vụ, 462 đối tượng có
hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đã tổ chức xác minh và phối hợp
với các cơ quan chức năng giải quyết.
Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đang diễn ra theo
chiều hướng gia tăng cả về số vụ cũng như hậu quả mà xã hội phải gánh chịu.
Theo Cục cảnh sát môi trường (C36) Bộ Công an, số vụ vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường năm 2009 gấp 4 lần của những năm trước, và tình trạng
này vẫn đang tiếp tục phát triển trong năm 2010. (TN&MT) - Theo thống kê
ban đầu, năm 2009, lực lượng cảnh sát môi trường đã phát hiện 4545 vụ,
1.300 tổ chức, 3.128 cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.
Tăng gần 400% so với năm 2008.
49
Trong đó có 594 vụ gây ô nhiễm môi trường; 322 vụ vi phạm quy định
về quản lý, xử lý chất thải nguy hại; 21 vụ đưa chất thải vào lãnh thổ Việt
Nam; 226 vụ vi phạm quy định bảo vệ động vật hoang dã; 812 vụ xâm phạm,
hủy hoại tài nguyên thiên nhiên; 628 vụ vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm ;
435 vụ vi phạm về thủ tục hồ sơ công tác bảo vệ môi trường; 483 vụ vi phạm
quy định về quản lý, bảo vệ rừng, khu bảo tồn thiên nhiên… 3.401 vụ (1.057
tổ chức, 1.919 cá nhân) bị xử lý vi phạm hành chính với tổng số tiền (bao
gồm cả trực tiếp và phối hợp với các ngành chức năng) 28.755 triệu đồng;
đình chỉ hoạt động và buộc di dời 79 cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Có 79
vụ, 109 bị can chuyển sang cơ quan điều tra khởi tố.
Lực lượng Cảnh sát môi trường Hà Nội phát hiện nhiều vụ vi phạm
pháp luật môi trường nhất so với các địa bàn trong cả nước với 482 vụ, 493
đối tượng; Thành phố Hải Phòng đứng thứ 2 với 159 vụ và Thành phố Hồ Chí
Minh đứng thứ 3 với 132 vụ.
Hơn 1.000 tổ chức và gần 2.000 cá nhân đã bị xử lý vi phạm hành
chính với tổng số tiền hàng chục tỷ đồng. Một trong những vụ nổi đình đám
50
như vụ Vedan (Đồng Nai), vụ các công ty thành viên của Tập đoàn Điện lực
Việt Nam mua bán trái phép hàng trăm nghìn lít dầu biến thế tải và hàng trăm
tấn chất thải nguy hại...
Vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ngày càng nghiêm trọng bởi
nhiều nguyên nhân, kể cả khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân
quan trọng là việc xử phạt còn quá nhẹ, chưa đủ mức răn đe. Biết vi phạm vẫn
cứ làm, chấp nhận phạt để hoạt động. Đó là thực trạng đang diễn ra tại hầu hết
các đơn vị sản xuất hàng hóa ngang nhiên thải ra các chất độc hại. Đầu tư hệ
thống thiết bị xử lí chất thải cần nguồn vốn lớn, thậm chí lên đến nhiều tỷ
đồng đối với doanh nghiệp sản xuất có quy mô lớn, trong khi mức xử phạt
hành chính chỉ là mấy chục triệu, cao nhất cũng chỉ trên 100 triệu đồng. Mặt
khác, hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường xảy ra quanh năm (song
hành với quá trình sản xuất) còn việc xử phạt chỉ là hạn hữu, năm một vài lần
để gọi là có xử lí.
Đơn cử trường hợp vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại Công ty cổ
phần công nghiệp Tung Kuang (tại Hải Dương). Đầu quý II vừa rồi, các
phương tiện thông tin đại chúng loan báo vụ việc này nhưng thực ra hành vi
cố ý xả chất thải độc hại tại đây phát sinh từ 2007 đến nay. Cuối năm 2007,
đơn vị này đã từng bị Bộ Tài nguyên & Môi trường xử phạt hành chính hơn
100 triệu đồng. Tiếp đó, cuối 2009, Phòng cảnh sát môi trường thuộc Công an
Hải Dương xử phạt doanh nghiệp này 7,5 triệu đồng. Cách đây 3 năm đã bị
xử phạt, nay mỗi ngày công ty này xả gần 250 m3 nước thải chưa qua xử lí.
Được biết, nếu lắp đặt thiết bị xử lí ô nhiễm môi trường, với khối lượng nước
thải như vậy, mỗi ngày doanh nghiệp tốn thêm khoản kinh phí gần 100 triệu
đồng. Ngược lại, vì không đầu tư thiết bị xử lí ô nhiễm môi trường, cứ việc xả
chất thải vô tội vạ và chịu phạt ở mức thấp, doanh nghiệp này mỗi ngày “tiết
kiệm” được gần 100 triệu đồng. Khoản thu lợi của doanh nghiệp vì thế là quá
51
lớn so với số tiền bị phạt. Hành vi sai phạm tại công ty cổ phần công nghiệp
Tung Kuang mang tính cố ý, đây cũng là hiện trạng chung tại các đơn vị đang
là “thủ phạm” gây ô nhiễm môi trường.
Chi nhánh Công ty Cổ phần công nghiệp Tung Kuang tại Cẩm Giàng, Hải Dương đơn vị gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Báo Dân Trí ngày 29/10/2010 cho biết 8 doanh nghiệp bị phạt là: Nhà
máy sản xuất thuốc tân dược (Công ty Cổ phần PYMEPHARCO); Cơ sở nuôi
trồng hải sản tổng hợp (Công ty TNHH An Hải); Nhà máy sản xuất xỉ Ti tan
(thuộc Công ty Cổ phần Khoáng sản Kenee Việt Nam); Nhà máy cơ khí xây
dựng và giao thông (Công ty TNHH Xây dựng và Quảng cáo Phương Tuấn);
Xí nghiệp Inmenit Sông Cầu (Công ty Cổ phần Khoáng sản Phú Yên); Nhà
máy sản xuất chế biến lâm sản xuất khẩu (Công ty TNHH Phú Mỹ); Khu sản
xuất, chế biến vật liệu xây dựng đá dăm thông thường (Công ty Cổ phần đầu
tư và xây dựng 1.5) và Nhà máy Bia 50 (Công ty Cổ phần Bia Phú Minh).
Trong 8 doanh nghiệp trên, Nhà máy sản xuất thuốc tân dược (thuộc
Công ty cổ phần PYMEPHARCO) là đợn vị bị xử phạt nặng nhất với mức
23,5 triệu đồng và nhẹ nhất là mức phạt 1,5 triệu đồng đối với Nhà máy Bia
50 (thuộc Công ty cổ phần Bia Phú Minh). Ngoài xử phạt hành chính, cơ quan
52
chức năng còn yêu cầu các doanh nghiệp phải có biện pháp khắc phục và báo
cáo kết quả lên cơ quan chức năng trước ngày 20/11/2010.
Một trong những sự kiện đáng chú ý nữa trong thời gian qua đó là hàng
nghìn nông dân của các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ
Chí Minh cùng sự tiếp sức của các cơ quan chức năng và các luật sư đã thống
nhất đồng khởi kiện Công ty Vedan ra toà.Cho dù muộn vì thời hiệu khởi kiện
đã gần hết, nhưng muộn còn hơn không khi Vedan đã “bức tử” dòng sông thị
Vải hơn 14 năm trời, đẩy hàng nghìn hộ dân sống nhờ dòng sông này phải
điêu đứng, môi trường sinh thái kiệt quệ.Trong suốt hơn 14 năm hoạt động (từ
năm 1994 đến nay), trung bình mỗi tháng Công ty Vedan thải trên 105.600
mét khối thải độc hại ra sông Thị Vải.Chất lượng nước sông Thị Vải bị ô
nhiễm, từ khu đầu nguồn Thị Vải –Long Nho, Nhơn Trạch (Đồng Nai), cách
ống xả Vedan hơn 10km đường sông cho đến cửa sông khu vực đảo Long
Sơn và xã Tân Hòa, huyện Tân Thành (Bà Rịa – Vũng Tàu), đã gây ảnh
hưởng đến sinh kế của người nông dân, đặc biệt là hang ngàn hộ nuôi trồng
và đánh bắt thủy hải sản ở Đồng Nai, Bà Rịa –Vũng Tàu và huyện Cần Giờ
(TP .Hồ Chí Minh).
53
Hơn 2 năm kể từ khi bị bắt quả tang, đáng lẽ Vedan phải nhận ra hành
vi đáng hổ thẹn để quyết tâm sửa chữa bằng việc khẩn trương đầu tư hệ thống
xả thải, đền bù cho nông dân và khắc phục hậu quả. Đằng này, Vedan lại hành
xử lúc thì theo kiểu; bố thí, ban ơn, lúc thì thách thức pháp luật.. Nhưng cũng
còn cái đáng nói hơn đó là sự thiếu kiên quyết và nghiêm minh trong việc
thực thi pháp luật của một số cơ quan chức năng. Chúng ta sẽ cùng phân tích
vụ kiện Vedan của bà con nông dân để thấy được thực trạng thực thi pháp luật
trong vấn đề tranh chấp môi trường
Việc xử phạt hành chính: Công ty Vedan đã được tiến hành. Đến nay,
Vedan đã hoàn thành nộp tiền phạt vi phạm hành chính 267,5 triệu đồng (theo
54
quy định của Nghị định 81/2006/NĐ-CP về Xử phạt hành chính trong lĩnh
vực BVMT); nộp trên 93 tỷ đồng trong tổng số hơn 127 tỷ đồng tiền phí
BVMT đối với nước thải công nghiệp đáng lẽ phải nộp; đồng thời Công ty
Vedan đang làm thủ tục nộp nốt số tiền còn lại. Vedan cũng đã hoàn thành
việc lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường tự động, liên tục đối với nước thải
trước khi thải ra môi trường (các thông số pH, nhiệt độ, TSS, COD, lưu
lượng, độ màu)1.
Về trách nhiệm dân sự: Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định trách
nhiệm dân sự đối với các trường hợp gây ô nhiễm môi trường tại Điều 624,
theo đó: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường
hợp người gây ô nhiễm không có lỗi”. Do vậy, theo luật, với hành vi vi phạm
pháp luật môi trường (xả nước thải không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi
trường) Vedan phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
Và để khởi kiện đòi Công ty TNHH Vedan bồi thường, các nguyên đơn
(những người bị hại hoặc cá nhân, tổ chức đại diện cho họ) phải tuân theo quy
trình khởi kiện dân sự đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2005.
Trách nhiệm hình sự: Bộ Luật Hình sự Việt Nam quy định “cá thể hóa
trách nhiệm hình sự, chỉ được áp dụng với cá nhân mà không được áp dụng
đối với các pháp nhân (tổ chức)” và nếu "đã bị xử phạt hành chính trước đó"
mới đủ điều kiện truy tố (trong trường hợp này là Tội gây ô nhiễm nguồn
nước theo Điều 183). Với quy định trên, các cơ quan tố tụng Việt Nam không
thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Công ty TNHH Vedan, mặc dù
doanh nghiệp này có những vi phạm kéo dài và gây thiệt hại rõ ràng.
Dựa trên cơ sở pháp lý như hiện nay, ngoài xử phạt hành chính, chỉ có
việc quy trách nhiệm dân sự đối với Công ty Vedan là còn có nhiều khả năng
55
thực hiện. Tuy nhiên, yêu cầu bên gây ô nhiễm phải thực hiện trách nhiệm
này gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức về cả tính khả thi của pháp
luật, năng lực tham gia tố tụng của người dân (bị hại), vai trò tham dự của cơ
quan quản lý nhà nước về môi trường, chính quyền địa phương, và các tổ
chức xã hội.
Những vướng mắc liên quan đến quy trình khiếu kiện
Hạn chế về hiểu biết trong quy trình khiếu kiện : Trên thực tế, Việt Nam
chưa có tiền lệ tập hợp người dân bị hại khởi kiện doanh nghiệp xâm hại môi
trường, vì thế người dân chưa biết đến quy trình khiếu kiện. Đã có nhiều
trường hợp, nông dân gửi đơn kiện đòi bồi thường đến cơ quan công an và
đoàn kiểm tra trung ương, thậm chí gửi đến cả Công ty Vedan trong khi chỉ
có tòa án mới có thẩm quyền giải quyết việc này. Cụ thể hơn, ở tỉnh Đồng
Nai, các hộ dân bị thiệt hại có thể gửi đơn tới Tòa án Nhân dân huyện Long
Thành, nơi có trụ sở Công ty Vedan yêu cầu tòa giải quyết. Ngoài ra, mặc dù
là doanh nghiệp nước ngoài nhưng Vedan là do nhà nước Việt Nam cấp phép
thành lập nên vẫn là pháp nhân Việt Nam. Và vì vậy, hành vi vi phạm của họ
vẫn được giải quyết theo quy định của luật pháp Việt Nam đối với các pháp
nhân trong nước.
Khó khăn trong việc chứng minh thiệt hại: Một người bình thường cũng
có thể cảm nhận dễ dàng mối liên hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm môi
trường của Vedan và hậu quả thiệt hại vật chất về cây trồng, vật nuôi, cũng
như sự xuống cấp về chất lượng cuộc sống mà những người nông dân ở hai
bờ sông Thị Vải phải gánh chịu. Tuy nhiên, để buộc Vedan bồi thường thiệt
hại thì sự cảm nhận là chưa đủ, mà cần xác lập mỗi liên hệ nhân quả ấy bằng
các chứng cứ khách quan và có cơ sở khoa học. Hiện nay, thiệt hại thực tế của
người dân là chưa xác định được chính xác và quá trình này vẫn đang được
tiến hành. Một số chứng cứ của nông dân đưa ra là không hợp lệ như giấy
56
phép khai thác thủy sản đã quá thời hạn, ghe thuyền bỏ thời gian dài đã mục
nát, mô tả thiệt hại chưa đúng…
Để có các chứng cứ chứng minh thiệt hại sẽ cần tiến hành một loạt hoạt
động kỹ thuật phức tạp mà chỉ những tổ chức chuyên môn, có đủ thiết bị và
đội ngũ chuyên gia có trình độ, tay nghề, mới có thể đảm nhận. Công việc này
cũng đòi hỏi chi phí lớn, chắc chắn vượt quá khả năng chi trả của những
người nông dân nghèo. Đây chính là vấn đề mấu chốt chưa giải quyết được và
khiến cho vụ kiện Vedan có vẻ như đang rơi vào bế tắc.
Lỗ hổng trong hệ thống giám sát môi trường đang làm lợi cho bên gây
hại: Công ty Vedan cho rằng: "Muốn đánh giá việc công ty vi phạm BVMT
dẫn tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải dựa trên việc xem xét, đánh giá
mang tính khoa học, tính khách quan và tính tổng thể, đồng thời phải tuân thủ
quy phạm pháp luật của Nhà nước"4. Vedan thừa nhận hành vi sai phạm,
nhưng hành vi ấy có gây ra thiệt hại nặng nề như hiện nay hay không thì chưa
chứng minh được. Dọc sông Thị Vải, không chỉ có một mình Công ty Vedan
xả thải trực tiếp ra sông; nên việc “áp đặt” cho mỗi công ty này phải chịu
trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người dân trong trường hợp này
là không thể. Thậm chí, mới đây, Vedan còn đưa ra báo cáo phân tích các
nguyên nhân gây ô nhiễm sông Thị Vải, trong đó có nêu chi tiết 77 xí nghiệp
và khu công nghiệp mỗi ngày xả thải ra sông hơn 33.000 m3 với lượng thải
qua xử lý chỉ chiếm khoảng 15 - 16%. 5 Rõ ràng, với những chứng cứ này,
không thể quy hết trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho Vedan. Điều
này cũng thể hiện rõ quan điểm “không bồi thường thiệt hại” mà chỉ “hỗ trợ”
cho người dân của Công ty Vedan. Rõ ràng, tình trạng bất lợi nói trên thể hiện
sự yếu kém của các cơ quan quản lý môi trường địa phương và ngành dọc
trong việc xác lập hệ thống theo dõi, giám sát và đánh giá liên tục mức độ vi
phạm gây ô nhiễm của các doanh nghiệp tại địa bàn.
57
Phản ứng của cơ quan pháp luật địa phương : Theo Điều 35, Bộ luật tố
tụng dân sự quy định, thẩm quyền sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự của tòa
án sẽ phân theo lãnh thổ. Trong trường hợp này, các đơn khiếu nại, khiếu kiện
của nhân dân đòi Công ty Vedan bồi thường thiệt hại đều phải nộp tới Tòa án
Nhân dân huyện Long Thành, Đồng Nai – địa bàn trụ sở Công ty Vedan Việt
Nam.
Tuy nhiên, trên thực tế, Tòa án Nhân dân huyện Long Thành đã từ chối
thụ lý đơn kiện Vedan. Nguyên nhân mà tòa án địa phương này đưa ra là: thứ
nhất, các đơn kiện chưa rõ ràng “hầu hết đơn khởi kiện đều chỉ nêu chung
chung là yêu cầu Công ty Vedan bồi thường thiệt hại mà không nêu rõ các
khoản đòi bồi thường cụ thể gồm những gì và số tiền bồi thường là bao
nhiêu”, thứ hai, họ muốn Hội Nông dân tự thay mặt người bị hại để thương
lượng với Vedan; thứ ba, do họ chưa nhận được kết luận của Bộ TN-MT
khẳng định Vedan gây thiệt hại.
Về mặt nguyên tắc, nếu người đòi bồi thường thiệt hại chưa chứng
minh được đòi hỏi của mình là chính đáng, thì theo đúng các quy định trong
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2005, toà án có thể yêu cầu đương sự giao nộp, bổ
sung chứng cứ. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng
cứ mà có yêu cầu, tòa án được phép tiến hành các biện pháp hỗ trợ chứng
minh cần thiết do pháp luật quy định. Vì vậy, những lí lẽ mà Toà án Nhân dân
huyện Long Thành đưa ra để từ chối thụ lý đơn kiện là bất hợp lý.
Hơn nữa, theo quy định giải quyết vụ việc theo hai cấp, khi tòa án địa
phương thụ lý, xét xử vụ án và đưa ra phán quyết chưa thỏa đáng, các bên liên
quan mới có quyền khiếu kiện lên tòa án cấp cao hơn. Chính vì quy định này,
khi bị TAND huyện Long Thành từ chối đơn kiện, người nông dân không thể
đưa đơn kiện trực tiếp lên tòa án cấp cao hơn. Rõ ràng, việc phân quyền như
trên là hoàn toàn không thích hợp vì với trường hợp điển hình như Vedan, tòa
58
án cấp thấp nhất - cấp huyện, đã bị quá tải về khả năng, làm trì trệ quá trình
xử
lý.
Rào cản từ thời hiệu khởi kiện: Theo quy định, thời hiệu khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là hai năm, kể từ ngày quyền
và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Việc gây ô nhiễm môi trường của Vedan
diễn ra liên tục, trong một thời gian dài (hơn 14 năm), do vậy người dân cũng
sẽ gặp khó khăn khi phải chứng minh những thiệt hại thực tế phát sinh từ hai
năm trở lại đây để buộc Vedan bồi thường.
Đây chỉ là hai trong số hàng nghìn vụ vi phạm môi trường nghiêm
trọng đang ngày ngày diễn ra ở nước ta. Vấn đề đặt ra là trong các vụ việc vi
phạm pháp luật về môi trường, số vụ xử lí hành chính chiếm hơn 98%, tỷ lệ
xử lí hình sự dưới mức 2%. Không nên (nói đúng hơn là không được) hình sự
hóa các loại hành vi vi phạm, tuy nhiên thực trạng vi phạm nghiêm trọng về ô
nhiễm môi trường so với con số xử lí hình sự chưa đến 2% lại là vấn đề hoàn
toàn chưa thỏa đáng. Dư luận bức xúc bởi có nhiều vụ việc, cách đây nhiều
năm, ngành chức năng kết luận là gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
thậm chí là cực kì nghiêm trọng nhưng vẫn cứ tái phạm chỉ vì mức xử phạt
hành chính quá thấp. Thế nhưng khi cần xử lí hình sự (đối với những vụ vi
phạm nghiêm trọng) các ngành chức năng lại gặp khó khăn trong việc xác
định tội danh bởi pháp luật hiện hành còn thiếu những quy định cụ thể. Vụ
việc tại Công ty Vedan là điển hình của tình trạng này. Bà con nông dân, lãnh
đạo các địa phương cũng như các ngành chức năng của Việt Nam với Công ty
Vedan còn có khoảng cách quá xa trong việc xác định mức độ thiệt hại và
mức bồi thường. Vụ việc này đã được khởi kiện, sẽ xử lí theo pháp luật, tuy
nhiên việc tranh tụng tại tòa không hề đơn giản. Theo đề xuất của các ngành
chức năng, ngoài việc tăng mức phạt hành chính ở mức cao hơn, cần bổ sung
kịp thời các quy định pháp luật để xử lí hình sự đối với những vụ việc gây ô
59
nhiễm môi trường nghiêm trọng. Bộ Tài nguyên & Môi trường cho biết, tới
đây sẽ tăng cường kiểm tra, thanh tra các cơ sở gây ô nhiễm môi trường qua
đó thực hiện cưỡng chế hành chính, tạm đình chỉ và kể cả cấm hoạt động.
Biện pháp đó là rất cần thiết, tuy nhiên những vụ việc vi phạm nghiêm trọng
(nhất là tái phạm) xử phạt hành chính là chưa đủ mà còn phải nghiêm trị bằng
hình sự mới đủ mức răn đe.
IV/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI
TRƯỜNG:
Như vậy vấn đề giải quyết tranh chấp môi trường hiện nay còn nhiều
khuyết điểm,các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường vẫn chưa được
xử lý nghiêm minh,chưa đủ sức răn đe,cảnh báo;những xung đột, tranh chấp
về quyền và lợi ích trong lĩnh vực môi trường còn chưa được giải quyết thỏa
đáng do thiếu khung pháp lý cơ bản trong thủ tục giải quyết cũng như việc
quy định chế tài xử phạt, quy định mức bồi thường thiệt hại hợp lý. Bởi vậy
cần nhanh chóng hoàn thiện quá trình điều chỉnh pháp luật về môi trường;
giải quyết một cách hài hoà, đồng bộ về mối liên hệ bản chất phổ biến giữa
phát triển kinh tế, chế độ pháp lý, hợp tác quốc tế và các vấn đề xã hội; phát
huy sức mạnh của toàn xã hội trong vấn đề bảo vệ môi trường, xã hội hoá các
phương thức bảo vệ môi trường; giải quyết mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ môi
trường và các Luật chuyên ngành trong điều chỉnh pháp luật về môi trường,
phát huy đồng bộ sức mạnh của các biện pháp pháp luật hành chính, hình sự,
dân sự, kinh tế trong việc giải quyết tranh chấp môi trường cũng như xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đặc biệt là các biện pháp kinh tế
để đảm bảo sự hài hoà giữa quyền và lợi ích của mỗi người với yêu cầu bảo
vệ môi trường xung quanh.
Do đó nhóm chúng em xin đưa ra một số kiến nghị để đóng góp hoàn
thiện khung pháp lý hiện hành:
60
1. Nâng cao ý thức pháp luật cho người dân đồng thời xây dựng cụ thể
khung pháp lý riêng cho giải quyêt tranh chấp môi trường:
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường thì thương lượng
được xem là phương thức có tác dụng và hay được sử dụng nhất. Tuy nhiên
với hiểu biết về pháp luật hiện nay thì việc sử dụng những quy định của pháp
luật để đòi quyền và lợi ích của mình là rất khó khăn. Mặt khác thủ tục giải
quyết tranh chấp môi trường hiện nay cũng không được quy định rõ ràng mà
dựa theo thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự để thực hiện, trong khi bản chất
và quy mô của tranh chấp môi trường lại rất khác so với tranh chấp dân sự,
như vậy có nên quy định một khung pháp lý riêng đối với việc giải quyết
tranh chấp môi trường. Nhưng cho dù giải quyết trên cơ sở pháp lý nào thì
người dân cũng cần phải hiểu luật, phải biết áp dụng các quy định pháp luật
để giữ lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình, do đó cần nâng cao kiến thức
pháp luật cho mỗi người dân.Việc giáo dục có thể bắt đầu ngay khi mỗi công
dân còn ngồi trên ghế nhà trường. Thứ nhất, tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 32CT/TW, các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác phổ biến
giáo dục pháp luật (PBGDPL), nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của công tác PBGDPL trong toàn ngành. Cần xác định công tác
PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm
vụ thường xuyên của toàn ngành đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự chỉ
đạo trực tiếp của lãnh đạo cơ quan quản lý giáo dục và cơ sở giáo dục các cấp.
Mỗi cán bộ, nhà giáo, người lao động, người học trong ngành phải xác định rõ
việc học tập, nghiên cứu để hiểu biết pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật là trách nhiệm của mình.
Thứ hai, trong xu thế phát triển của xã hội, đòi hỏi mỗi người phải kịp thời
trang bị cho mình những kiến thức nhất định về pháp luật nhất là đối tượng
học sinh, sinh viên và những người làm công tác trồng người. Do đó, công tác
61
giáo dục pháp luật trong nhà trường cần được sự quan tâm của ngành giáo dục
và các ngành chức năng cao hơn nữa.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
giảng dạy môn giáo dục công dân; đưa các quy định của pháp luật kịp thời
đến với học sinh, sinh viên và đội ngũ những người làm công tác giảng dạy. Ý
thức chấp hành pháp luật của họ theo đó cũng được nâng lên. Hạn chế đến
mức thấp nhất hành vi vi phạm pháp luật của học sinh và những người làm
công tác giáo dục.
Thứ tư, chương trình sách giáo khoa “Giáo dục công dân” bậc phổ thông cần
phải có những thay đổi cho phù hợp hơn. Cần dạy học sinh những giá trị đạo
đức cơ bản của con người thay cho quá nhiều kiến thức triết học, hàn lâm,
thiếu vắng việc hình thành những thói quen đạo đức và kỹ năng sống đúng
đắn.
Thứ năm, các trường nên thành lập ban chỉ đạo tuyên truyền phổ biến pháp
luật với thành phần theo quy định và chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt động
giáo dục pháp luật trong năm học. Tổ chức các câu lạc bộ pháp luật, tuyên
truyền pháp luật bằng những hình thức hấp dẫn các em tham gia như thi đua
giải quyết các tình huống pháp luật có thưởng; trình bày tiểu phẩm về pháp
luật; phiên tòa giả định… Hàng năm nên mời các báo cáo viên đến trường để
thuyết trình về kiến thức pháp luật cho giáo viên. Chính từ các chuyên đề này
sẽ giúp ích cho cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường nắm vững kiến thức
pháp luật, có cơ sở để xây dựng kế hoạch giảng dạy, tổ chức hoạt động giáo
dục pháp luật cho học sinh.
Tóm lại, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường học sinh phải được rèn
luyện ý thức pháp luật.
Song song với giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho mỗi người dân là
lập và thực hiện các phương án bảo vệ môi trường áp dụng với các tổ chức
62
kinh tế; tập trung làm tốt công tác quy hoạch phát triển khu công nghiệp, cụm
công nghiệp gắn liền với quy hoạch phát triển của cả nước, bảo đảm tốt việc
xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt. Ðối với các KCN - KCX được quy hoạch
trong thời gian tới, cần quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây
dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép
hoạt động. Xây dựng các tiêu chí chặt chẽ về các phân khu chức năng của sản
xuất, của hạ tầng cơ sở đầu tư cho BVMT đối với các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp được quy hoạch, bảo đảm ngay từ đầu nguồn vốn và nhân lực kỹ
thuật cho nhiệm vụ BVMT, tránh hiện tượng tập trung thu hút đầu tư mà xem
nhẹ nhiệm vụ BVMT.
Vấn đề lồng ghép yếu tố môi trường vào trong các quy hoạch phát triển
cũng đã trở thành một yếu tố cấp bách. Cần nâng cao năng lực thẩm định, xây
dựng cơ chế kiểm tra, giám sát các dự án đầu tư và báo cáo đánh giá tác động
môi trường của các dự án đầu tư, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình lập và thẩm
định đánh giá tác động môi trường theo quy định của Luật BVMT. Ðầu tư và
vận hành các hệ thống thu gom tập trung, phân loại hợp lý chất thải rắn công
nghiệp, chất thải rắn nguy hại, phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung, hệ
thống xử lý khí thải đạt tiêu chuẩn môi trường quy định. Thực hiện công tác
quan trắc giám sát, đánh giá diễn biến chất lượng và trạng thái các thành phần
môi trường, dự báo diễn biến phục vụ thiết thực cho sản xuất canh tác và bảo
vệ môi trường cũng như khả năng ứng cứu sự cố môi trường một cách kịp
thời và có hiệu quả cao.
2.Thành lập tổ chức ứng phó đề phòng các vấn đề, sự cố môi trường:
63
Cuộc họp đánh giá về tiến độ thực hiện kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng trong Bộ Quốc phòng.
Theo Tổng Cục phó Tổng cục Môi trường Lê Kế Sơn, Việt Nam cần lường
trước một số nguy cơ sự cố về môi trường. Việc khai thác những công trình
lớn như khai thác boxit Tây Nguyên, sắp tới là xây nhà máy điện hạt nhân
Ninh Thuận… phải được tính toán kỹ lưỡng.
“Chúng ta mới chỉ có lực lượng cứu hộ, cứu nạn mà thôi, chưa có lực lượng
đặc nhiệm ứng phó sự cố môi trường. Chẳng lẽ khi nào xảy ra mới ứng
phó?”, ông Lê Kế Sơn đặt câu hỏi -Theo ông Sơn, rất cần thành lập một lực
lượng đặc nhiệm để ứng phó sự cố môi trường quốc gia. Phải là lực lượng
được tổ chức tốt, kỷ luật tốt, ứng phó nhanh, để đối đầu và xử lý kịp thời.
Chia sẻ ý kiến này, Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT Nghiêm Vũ Khải
nói, các Bộ TNMT và Bộ Quốc phòng có thể thảo luận sâu hơn vấn đề
này: “Nếu Bộ Quốc phòng trở thành lực lượng nòng cốt để vừa cứu hộ, cứu
nạn vừa ứng phó sự cố môi trường là tốt nhất”.- Theo ông Khải, ở một số
nước, ủy ban phòng chống cứu hộ cứu nạn môi trường do Tổng thống đứng
đầu và Bộ trưởng Quốc phòng làm thường trực.
64
“Bộ Quốc phòng hội đủ điều kiện và yếu tố để trở thành nòng cốt. Bộ Quốc
phòng phải đi đầu trong cả nước về bảo vệ môi trường cũng như sẽ thành lực
lượng nòng cốt để ngăn chặn sự cố môi trường”, ông Khải nêu ý kiến.
Nhiều thành viên trong đoàn giám sát cũng phân tích, lực lượng quân đội vẫn
được xem là chủ lực trong các hoạt động như cứu nạn, bảo vệ đê điều…
Nhưng, vai trò nòng cốt của lực lượng này cần phải được “luật hóa”. Và Quốc
hội sẽ kiến nghị Chính phủ tạo điều kiện xây dựng lực lượng này. Đặc biệt
việc thành lập đội đặc nhiệm ứng phó các sự cố bất ngờ về môi trường.
Theo Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, quân đội Việt Nam vẫn luôn tham gia
các hoạt động phòng chống cứu nạn giống các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, do điều kiện ở Việt Nam nên chưa thành lập lực lượng ứng phó
thảm họa môi trường. Trong khi đó, ở Nga, thậm chí đã có hẳn một bộ luật
cho các tình trạng khẩn cấp. Hầu hết các nước đều tính tới việc phòng ngừa
những thảm họa môi trường. Việt Nam tuy chưa có những bộ luật hay ủy ban
riêng về thảm họa môi trường, nhưng ông Hiệu khẳng định “quân đội vẫn
luôn đóng vai trò nòng cốt”.
3. Tăng cường hoạt động một cách có hiệu quả các cơ quan có chức năng
kiểm tra, giám sát:
Tăng cường hệ thống thanh tra môi trường. Cần tổ chức đào tạo chuyên sâu
về nghiệp vụ chuyên môn cũng như luật pháp đề đội ngũ này có khả năng
thực thi có hiệu quả công tác kiểm soát việc thực hiện các quy định pháp luật
về quản lý chất thải nguy hại.
Một ví dụ là việc xây dựng mô hình KCN sinh thái có hệ thống quan trắc tự
động. Tháng 10/2009, Vườn công nghiệp Bourbon An Hòa, mô hình KCN
thân thiện với môi trường đầu tiên đã được khởi công xây dựng tại Tây Ninh.
65
Các nhà máy trong Vườn công nghiệp sẽ phối hợp tái sinh, tái chế, tái sử
dụng các loại sản phẩm phụ của nhau. Nhà máy xử lý nước thải có công suất
dự kiến 40.000 m3/ngày. Nước thải sau khi được xử lý sẽ được dẫn vào các
dòng kênh nội bộ dùng để nuôi trồng các loại vi sinh vật. Các KCN sinh thái
là giải pháp lâu dài, bền vững cần hướng tới, tuy nhiên, trước mắt cần bắt
buộc các trạm xử lý nước thải tập trung của các KCN phải lắp đặt hệ thống
quan trắc tự động, giám sát chất lượng nước thải trước khi thải ra môi trường.
Theo Phó giám đốc Trung tâm quan trắc môi trường, Tổng cục Môi trường,
Hoàng Dương Tùng, nhiều doanh nghiệp xây dựng hệ thống xả thải rất tinh
vi, xây xong rồi che lấp nên rất khó phát hiện. Một trung tâm gồm hệ thống
quan trắc nước thải tự động sẽ "xử lý" được gian lận này. Theo đó, hàng ngày
doanh nghiệp phải báo cáo khối lượng nước thải, trong khi hệ thống quan trắc
tự động sẽ giúp cơ quan giám sát môi trường cập nhật trực tiếp các số liệu ô
nhiễm từ các khu công nghiệp 24/24 với các số liệu “online”. Sắp tới, Bình
Dương, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp lớn, sẽ có nhiều hệ thống quan
trắc tự động được xây dựng. Ngoài ra, một hệ thống đường dây nóng sẽ được
thiết lập để người dân cung cấp thông tin về các doanh nghiệp gây ô nhiễm tới
cơ quan quản lý.
Bên cạnh đó, các biện pháp xử lý triệt để cũng sẽ được áp dụng. Theo Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Phạm Khôi Nguyên, hiện đã có đủ
hành lang pháp lý để xử lý các vụ việc gây ô nhiễm môi trường. Nếu các
KCN, các doanh nghiệp không sớm chấm dứt việc xả thải gây ô nhiễm môi
trường sẽ phải đối mặt với những biện pháp xử lý nghiêm khắc của pháp luật.
4. Quy định rõ ràng hơn về mức bồi thường thiệt hại dân sự
Một trong những dấu hiệu đặc trưng của tranh chấp môi trường là
thường xảy ra với quy mô lớn,liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, các cộng
66
đồng dân cư,thậm chí đến nhiều quốc gia. Chính sự đa dạng về mặt chủ thể
tham gia tranh chấp cộng với trách nhiệm pháp lí phát sinh chủ yếu ngoài hợp
đồng khiến cho việc kiểm soát, giả quyết tranh chấp môi trường trở nên khó
khăn; tranh chấp môi trường thường liên quan đến nhiều loại lợi ích khác
nhau, nhiều chủ thể khác nhau như lợi ích của những người làm công tác bảo
tồn, các nhà sản xuất kinh doanh, các cấp chính quyền, các tổ chức phi chính
phủ ( NGOs), các cộng đồng dân cư…khiến cho tranh chấp môi trường khó
được định lượng về mặt hậu quả. Do vậy, khi xuất hiện vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường làm xâm phạm đến quyền và lợi ích của một bên thì rất
khó để xác định trách nhiệm dân sự đối với bên kia; hoặc một hành vi vi
phạm có thể gây hậu quả là thiệt hại cho rất nhiều chủ thể, những thiệt hại đó
chưa hẳn đã biểu hiện ngay mà thường gây ra những tác hại ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe con người và môi trường xung quanh trong thời
gian lâu dài. Ví dụ như việc khai thác bất hợp lí tài nguyên rừng, sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật phân bón hoá học bừa bãi, đánh bắt thủy hải sản quá
mức không có kế hoạch, đốt rừng làm nương rẫy, xả thải, chất thải công
nghiệp chưa qua xử lý hoặc xử lý không đúng cách,…
Việc khai thác bất hợp lí tài nguyên rừng về trước mắt làm giảm số
lượng nhiều loại động thực vật rừng qúy hiếm, chặt phá rừng bừa bãi gây lũ
lụt, xói mòn đất rừng, về lâu dài lượng cây ít đi làm khả năng quang hợp kém
CO2 tăng O2 sinh ra giảm, chức năng điều hoà không khí vốn có không tốt
làm lượng bụi trong không khí tăng cao, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe của
con người. Những thiệt hại về sức khỏe này xảy ra đối với cá cộng đồng dân
cư nhưng lại không có ai chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại này
cũng như không hề có luật nào quy định mức bồi thường thiệt hại đó. Tương
tự đối với trường hợp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phân bón hoá học bừa
bãi, đánh bắt thủy hải sản quá mức không có kế hoạch, đốt rừng làm nương
67
rẫy, xả thải, chất thải công nghiệp chưa qua xử lý hoặc xử lý không đúng
cách,…và còn rất nhiều hành vi gây ra nhiều hậu quả khôn lường nhưng lại
không có chủ thể nào đứng ra chịu trách nhiệm.
Bộ luật dân sự 2005, Điều 605.2 quy định một trong những nguyên tắc
bồi thường thiệt hại là “ người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của mình”. Như vậy nếu như mọi hành vi vô ý thức hiện nay đã
gây ô nhiễm môi trường trong thời gian dài và trong diện rộng cũng dựa trên
nguyên tắc này để xác định mức bồi thường thì mức bồi thường sẽ là quá ít để
khắc phục dù chỉ là một phần hậu quả đã gây ra.Các nhà làm luật cũng đã dự
tính được điều này nên đã xây dựng Thuế môi trường và Phí bảo vệ môi
trường,giấy phép chất thải (cota ô nhiễm), ký quỹ môi trường,… nhằm tác
động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo ra các
tác động tới hành vi ứng xử của nhà sản xuất có lợi cho môi trường.Nhưng
mức thuế và phí bảo vệ môi trường hiện nay còn thấp và đối tượng áp dụng
còn hạn chế, cần tăng mức thuế và phí đồng thời mở rộng đối tượng phải nộp
phí như kể cả các cá nhân,hộ gia đình, tổ chức có các hoạt động khai thác tài
nguyên môi trường, sản xuất gây ô nhiễm môi trường… mới tăng tính tự giác
bảo vệ môi trường cho người dân.
"Côta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải chất thải có thể chuyển
nhượng mà thông qua đó, nhà nước công nhận quyền các nhà máy, xí nghiệp,
v.v... được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường".
Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép
thải vào môi trường, sau đó phân bổ cho các nguồn thải bằng cách phát hành
những giấy phép thải gọi là côta gây ô nhiễm và chính thức công nhận quyền
được thải một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong một
giai đoạn xác định cho các nguồn thải. Khi có mức phân bổ côta gây ô nhiễm
68
ban đầu, người gây ô nhiễm có quyền mua và bán côta gây ô nhiễm. Họ có
thể linh hoạt chọn lựa giải pháp giảm thiểu mức phát thải chất gây ô nhiễm
với chi phí thấp nhất: Mua côta gây ô nhiễm để được phép thải chất gây ô
nhiễm vào môi trường hoặc đầu tư xử lý ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn cho phép.
Nghĩa là những người gây ô nhiễm mà chi phí xử lý ô nhiễm thấp hơn so với
việc mua côta gây ô nhiễm thì họ sẽ bán lại côta gây ô nhiễm cho những
người gây ô nhiễm có mức chi phí cho xử lý ô nhiễm cao hơn. Như vậy, sự
khác nhau về chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm sẽ thúc đẩy quá trình chuyển
nhượng côta gây ô nhiễm. Thông qua chuyển nhượng, cả người bán và người
mua côta gây ô nhiễm đều có thể giảm được chi phí đầu tư cho mục đích bảo
vệ môi trường, đảm bảo được chất lượng môi trường. Tuy nhiên,cũng như phí
bảo vệ môi trường,chi phí giảm phát thải ở nước ta vãn còn rất thấp,chưa
tương xứng với chi phí xử lý ô nhiễm thực tế phải bỏ ra,do đó cần tăng giá
với côta gây ô nhiễm nhằm tăng thêm trách nhiệm bảo vệ môi trường đối với
các doanh nghiệp sản xuất.
Một ví dụ nữa là về các quy định cho phép khai thác khoáng sản.
Thông tư số 155/2010/TT-BTC vừa được Bộ Tài chính ban hành có hiệu lực
thi hành từ ngày 25/11/2010, đã quy định lệ phí cấp giấy phép hoạt động
khoáng sản từ 1-100 triệu đồng/1 giấy phép.
Thông tư nêu rõ, tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài khi được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản và giấy
phép thăm dò khoáng sản phải nộp lệ phí.
Mức thu lệ phí cấp giấy phép hoạt động khoáng sản được quy định cụ
thể như sau:
Đối với hoạt động thăm dò, phụ thuộc vào diện tích thăm dò mà mức lệ
phí được quy định từ 4-15 triệu đồng/giấy phép. Cụ thể, diện tích thăm dò nhỏ
hơn 100 ha, mức thu là 4 triệu đồng/1 giấy phép; diện tích từ 100- 50.000 ha,
69
mức thu là 10 triệu đồng/1 giấy phép và diện tích trên 50.000 ha, mức thu là
15 triệu đồng/1 giấy phép.
Đối với hoạt động khai thác, Thông tư quy định cụ thể mức thu lệ phí
cấp giấy phép hoạt động khai thác đối với từng nhóm khoáng sản. Theo đó,
mức thu thấp nhất là 1 triệu đồng/1 giấy phép áp dụng đối với giấy phép khai
thác cát, sỏi lòng suối có công suất dưới 5.000 m3/năm. Mức thu cao nhất là
100 triệu đồng/1 giấy phép áp dụng đối với giấy phép khai thác khoáng sản
đặc biệt và độc hại.
Lệ phí cấp giấy phép khai thác khoáng sản làm nguyên liệu xi măng;
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường mà có sử dụng vật liệu nổ
công nghiệp; đá ốp lát và nước khoáng là 40 triệu đồng/1 giấy phép. Lệ phí
cấp giấy phép khai thác khoáng sản quí hiếm là 80 triệu đồng/1 giấy phép.
Đối với khai thác tận thu, lệ phí là 5 triệu đồng/1 giấy phép.
Thông tư cũng quy định, số tiền lệ phí độc quyền thăm dò khoáng sản
phải nộp đối với mỗi giấy phép tính theo diện tích và thời gian ghi trên giấy
phép (kể cả thời gian gia hạn của giấy phép). Cụ thể mức thu lệ phí như sau:
Năm thứ 1, mức thu là 50 nghìn đồng/ha/năm; năm thứ 2, 80 nghìn
đồng/ha/năm; năm thứ 3 và thứ 4, 100 nghìn đồng/ha/năm.
(Theo Chinhphu.vn, 25/10/2010)
Quy định mức bồi thường thiệt hại dân sự cho cả những trường hợp
thiệt hại chưa biểu hiện rõ ràng có thể định lượng được. Bởi vì ô nhiễm môi
trường có thể tác động đến sức khỏe con người gây tổn hại ngay lập tức
nhưng đa phần hiện nay hiện tượng ô nhiễm môi trường tác động xấu đến sức
khỏe con người mà phải một thời gian sau mới biểu hiện thành bệnh như ung
thư,viêm phổi,...Những trường hợp này khi biểu hiện thành bệnh thì người
dân cũng không biết đi đâu để đòi chi phí khám chữa bệnh cho mình vì có thể
70
người gây ra ô nhiễm đã ngừng hành vi đó từ lâu trong khi thời hiệu khởi kiện
chỉ là hai năm. Do vậy cần xây dựng một chế định riêng cho lĩnh vực này để
bảo vệ quyền và lợi ích cho mỗi người dân.
5. Tăng nặng chế tài xử phạt hành chính:
Sự ra đời của Nghị định số 81/2006/NĐ-CP mà sau đó được thay thế
bằng Nghị định số 117/2009/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thực sự đã giúp ích rất nhiều trong việc khắc
phục hậu quả do những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường gây ra.
Tuy nhiên, các chế tài đặt ra trong các quy định pháp luật này còn quá “nhẹ
nhàng” dẫn đến mục đích đặt ra là khắc phục hậu quả và răn đe các chủ thể
khác vẫn chưa đạt được; hay, quy định là một chuyện,thực thi như thế nào lại
là chuyện “còn đang bàn tiếp”, tức là các biện pháp cưỡng chế thi hành các
quy định xử phạt còn chưa mạnh, chưa quyết liệt nên chủ thế vi phạm còn
chưa biết “sợ”. Cũng cần phải nói thêm, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
2002 quy định thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính chỉ là
một năm và thời hiệu xử lý vi phạm hành chính đối với các vi phạm về môi
trường cũng chỉ có 2 năm ( Khoản 1 điều 11 và Khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính 2002). Tuy nhiên, thực tế các vi phạm về môi
trường thời gian qua cho thấy, các vi phạm về môi trường thường phải mất
một thời gian dài mới có thể bị phát hiện. Hậu quả của những vi phạm này
không thể đánh giá hết ngay được. Các tác động của nó ảnh hưởng lâu dài tới
cuộc sống người dân trong khu vực đó, đồng thời tác động xấu tới môi trường
trong suốt thời gian dài. Do vậy, để các biện pháp xử lý vi phạm hành chính
có tác dụng hơn trong thực tế cần: _ Tăng nặng mức xử phạt hành chính cho
các trường hợp vi phạm gây thiệt hại trên phạm vi lớn,ảnh hưởng rộng;
_ Quy định thời hạn xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi
trường dài hơn để tránh bỏ sót những trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm
71
trọng trong thời gian dài;
_ Nghiêm túc thực thi các biện pháp cưỡng chế nhằm thực hiện các quy
định của pháp luật một cách có hiệu quả nhất.
6. Thay đổi khung hình phạt cho các tội phạm về môi trường:
Vấn đề bảo vệ môi trường đã được nhà nước chú trọng từ rất lâu, đã
đưa ra rất nhiều các biện pháp, cách thức ngăn chặn, phòng chống, xử lý triệt
để các hành vi xâm phạm gây ô nhiễm môi trường, thậm chí các hành vi xâm
phạm môi trường đã được hình sự hóa thành một chế định trong bộ Luật hình
sự để nhằm đưa ra biện pháp nghiêm khắc nhất để tác động một cách hiệu quả
nhất vào ý thức của người dân trong việc bảo vệ, duy trì sự tồn tại và phát
triển bền vững môi trường. Thế nhưng, thực tế hoàn toàn đi ngược lại những
mong muốn, ước nguyện của Nhà nước và nhân dân về một đất nước “sạch”.
Tình hình vi phạm pháp luật môi trường đang tỉ lệ thuận với mức độ phát
triển kinh tế, ngày càng tăng dần lên với một tốc độ chóng mặt và để lại
những hậu quả khôn lường tới sức khoẻ, tính mạng, tài sản của nhân dân. Các
công cụ pháp lý của Nhà nước dường như không đạt được hiệu quả như mong
đợi.
Một số luật về môi trường dường như tỏ ra quá “hiền” không đủ sức
răn đe với các hành vi vi phạm, còn một số thì lại quá hình thức, chỉ tồn tại
trên giấy chứ không thể áp dụng vào thực tiễn. Các vi phạm pháp luật môi
trường ngày càng để lại vô vàn hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội
nhưng trách nhiệm hình sự áp dụng cho các hành vi đó lại quá ít. Từ thực tiễn
đáng lo ngại này, một vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam để trở thành một công cụ
pháp lý hiệu quả trong quá trình đấu tranh phòng ngừa tội phạm môi trường,
Bộ luật hình sự 1999 đã có hẳn một chương về tội phạm môi trường gồm 10
tội danh: Tội hủy hoại rừng ,tội gây ô nhiễm không khí - Điều 182; tội vi
72
phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm - Điều 190 ; tội gây
ô nhiễm nguồn nước - Điều 183; tội gây ô nhiễm đất - Điều 184; tội nhập
khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu
chuẩn bảo vệ môi trường - Điều 185; tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho
người - Điều 186; tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật
- Điều 187; tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản - Điều 188; tội vi phạm chế độ
bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên - Điều 191.
Nhìn chung Bộ luật hình sự 1999 đã hình sự hóa rất nhiều hành vi xâm
hại môi trường rất cụ thể và chi tiết ở từng biểu hiện của hành vi, từng quan
hệ xã hội bị hành vi xâm phạm, và từng mức hình phạt rất nghiêm khắc mang
tính giáo dục răn đe cao với từng hành vi và mức độ vi phạm, rất phù hợp với
thực tiễn tội phạm đang ngày càng gia tăng về sự đa dạng, biến đổi khôn
lường của hành vi, về tính nghiêm trọng của hậu quả do hành vi đó gây ra.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc xử lý tội phạm về môi trường còn rất nhiều bất
cập. Nhưng hầu hết quá trình xử lý tố tụng hình sự với các tội danh đó đều đi
vào ngõ cụt, việc áp dụng pháp luật hình sự dường như rất hạn chế. Chỉ mới
có 2 tội danh Điều 182 - Tội hủy hoại rừng và Điều 190 - Tội vi phạm các quy
định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm là bị xử lý và thi hành trên thực
tế. Nhưng cũng chiếm tỉ lệ quá ít ỏi so với thực trạng tội phạm ở Việt
Nam.Còn các tội danh còn lại chỉ là những quy định suông, không thể áp
dụng trên thực tế. Mặc dù có rất nhiều hành vi vi phạm pháp luật môi trường
có tính chất, mức độ rất nghiêm trọng nhưng cũng không thể xử lý hình sự
với những tội danh đó. Một điểm chung rất dễ nhận ra ở hầu hết các “Cấu
thành phạm tội” của chương “Các tội phạm môi trường” là mỗi tội trong
chương này đều đòi hỏi phải có dấu hiệu đã từng bị xử lý vi phạm hành chính
về hành vi vi phạm đó. Đây là một trong những vướng mắc, bất cập lớn của
pháp luật hình sự hiện nay khiến chúng ta không có cơ sở pháp lý để xử lý
73
hình sự đối với những vi phạm về môi trường.
Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng khung hình phạt cho các tội danh về
môi trường còn quá nhẹ,chưa đủ sức răn đe cảnh báo. Mức phạt tiền cao nhất
là năm trăm triệu đồng đối với tội quy định tại điều 185: “ Đưa chất thải vào
lãnh thổ Việt Nam”; còn với các tội khác thì mức phạt tiền cao nhất chỉ là một
trăm năm mươi triệu đồng. Mức phạt này là quá nhẹ so với thiệt hại mà những
hành vi đó gây ra. Các nhà làm luật nên tăng mức phạt tiền để có thể khắc
phục được hậu quả do các hành vi đó gây ra và tăng tính răn đe đối với các
chủ thể khác.
Một vấn đề khác nữa cũng rất đáng lưu ý đó là, biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính về môi trường lại chủ yếu được áp dụng, hay dành cho các
tổ chức, pháp nhân. Thực tế các cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính về
môi trường là không đáng kể. Trong khi đó, trách nhiệm hình sự (theo quy
định của Bộ luật hình sự 1999) lại chỉ được áp dụng với các cá nhân chứ
không thể áp dụng với pháp nhân. Luật hình sự Việt nam không thừa nhận
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Song thực tế, các vi phạm pháp luật
hình sự về môi trường lại chủ yếu do các pháp nhân gây ra.Có thể nói rằng Bộ
luật hình sự 1999 quy định các tội phạm môi trường còn nặng về hình thức, là
quy định khiến không xử lý vi phạm về môi trường được. Thực tế các vi
phạm pháp luật môi trường thời gian gần đây đã đặt ra nhu cầu cần thiết phải
sửa đổi các quy định trong “các quy định về tội phạm môi trường” . Thời gian
qua, chúng ta đã luôn đặt cao mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà không chú
trọng công tác bảo vệ môi trường. Thậm chí, để phát triển kinh tế chúng ta đã
phải đánh đổi bằng môi trường.
Qui định về hậu quả nghiêm trọng của tội phạm môi trường cũng là
một vấn đề gây rất nhiều trở ngại, khó khăn tới công tác định tội, quyết định
hình phạt của cơ quan tiến hành tố tụng. Thông thường, hậu quả do hành vi ô
74
nhiễm môi trường gây ra là khó nhận biết ngay, thường ở dạng nguy cơ tiềm
ẩn, nên việc xác định vi phạm sẽ rất khó khăn, tốn rất nhiều thời gian, ảnh
hưởng tới công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì thế ta cần dùng
phương pháp “sử dụng mức độ ô nhiễm tương đương với thiệt hại nghiêm
trọng” làm căn cứ để xác định tội phạm. Hiện nay chức năng quản lý môi
trường được giao cho nhiều bộ, ngành trong cơ quan nhà nước: như ủy ban
nhân dân các cấp, bộ, sở, phòng Tài nguyên môi trường,… nên mỗi cơ quan
sẽ có 1 mức độ quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật riêng để xác định về hậu quả ô
nhiễm môi trường gây ra. Vì vậy đi kèm với việc sửa đổi Bộ luật hình sự
1999 thì các bộ, ngành cần gấp rút ban hành thông tư liên ngành, hướng dẫn
cụ thể quy định về mức độ ô nhiễm để đảm bảo tốt hơn tính thực tiễn của
pháp luật hình sự .
Một số kiến nghị cụ thể về việc sửa đổi Bộ luật hình sự:
_ Quy định chủ thể của tội phạm trong một số trường hợp cụ thể có thể
là pháp nhân;
_ Quy định mức hình phạt nghiêm khắc mang tính giáo dục răn đe cao
với từng hành vi và mức độ vi phạm cho phù hợp
_ Với những tội phạm xâm hại nghiêm trọng đến môi trường cũng như
xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của các bên chủ thể trong lĩnh vực
môi trường có thể không cần có dấu hiệu “đã bị xử lý vi phạm hành chính”
trong cấu thành tội phạm để có thể xử phạt nhanh chóng kịp thời và phù hợp
với hành vi vi phạm.
75
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ Tài liệu lí luận:
1. Giáo trình Luật môi trường, khoa Luật, Đại học Kinh Tế Quốc Dân
2. Giáo trình Luật môi trường,Đại học Luật Hà Nội
II/Hệ thống các văn bản pháp luật
1. Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
2. Bộ luật Dân sự 2005
3. Luật Bảo vệ môi trường 2005
4. Luật tố tụng dân sự 2005
5. Pháp lệnh về xử phạt hành chính 2002
6. Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường
7. Nghị định số 35/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra
tài nguyên môi trường
8. Nghị định số 80/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường đã được sửa đổi bổ sung
bởi Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/02/2008
9. Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải nguy hiểm
10.III/Các trang web tham khảo:
11.www.nea.gov.vn
12.www.tuoitre.com.vn
13.www.dantri.com.vn
14.www.yeumoitruong.com
15.www.nld.com.vn
16. www.vnexpress.com.vn
76
- Xem thêm -