GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ BẰNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76
Part B: Political Sciences, Economics and Law
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ BẰNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
Hà Công Anh Bảo1
1
ThS. Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 03/14
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
27/08/14
Ngày chấp nhận đăng: 06/15
Title:
Solving commercial service
contract disputes by
Commercial Arbitration in
Vietnam
Từ khóa:
Trọng tài thương mại, giải
quyết tranh chấp, hợp đồng
thương mại dịch vụ
Keywords:
Commercial arbitration,
dispute solution, commercial
service contract
ABSTRACT
Becoming a member of the WTO has brought a great deal of benefits to
Vietnamese companies as well as the development of commercial service.
However, going along with such advantages, there are some remarkable
drawbacks caused by the integration of the commercial service. Despite the
profitable contracts, the service providing companies have to face many disputes
derived from such contracts. In order to solve such disputes, some methods such
as Negotiation, Mediation, Arbitration or Litigation can be applied to solve
disputes. Each method has their own advantages and disadvantages, from which
each party can have a choice. In the scope of this article, the author refers to the
reality of resolving commercial service contract dispute by Commercial
Arbitration from 2 aspects: in laws and in reality of Vietnam companies
nowadays.
TÓM TẮT
Việt Nam trở thành thành viên của WTO đã mang lại nhiều thuận lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời ngành thương mại dịch vụ cũng càng ngày
phát triển. Tuy nhiên, cùng với những kết quả đó là những khó khăn và hậu quả
của quá trình hội nhập của ngành thương mại dịch vụ. Đối với các doanh nghiệp
tham gia cung cấp dịch vụ, ngoài những hợp đồng mang lại doanh thu, lợi nhuận
cao thì họ cũng phải đối mặt với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương
mại dịch vụ. Để giải quyết được những tranh chấp này thì tại Việt Nam các bên
có thể sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp được pháp luật thừa nhận
là: Thương lượng, Hòa giải, Tòa án hoặc Trọng tài. Mỗi phương thức đều có ưu
và nhược điểm của nó để cho các bên có sự lựa chọn. Trong phạm vi bài viết này
tác giả đề cập tới thực trạng việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại
dịch vụ thông qua Trọng tài thương mại dựa trên hai khía cạnh là luật pháp và
thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đang được các doanh nghiệp Việt
Nam sử dụng hiện nay.
luật nhằm xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền và
nghĩa vụ đối với nhau trong việc mua bán, cung
cấp, trao đổi dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi” (Hà
Công Anh Bảo, 2014).
1. HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ
TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG
MẠI DỊCH VỤ
Cho đến nay chưa có một khái niệm thống nhất
nào về hợp đồng thương mại dịch vụ (TMDV).
Dựa trên đối tượng hợp đồng là dịch vụ và tính
chất thương mại của loại hợp đồng này tác giả đã
đưa ra khái niệm về hợp đồng TMDV là “sự thỏa
thuận giữa các bên, căn cứ vào qui định của pháp
Tranh chấp về hợp đồng TMDV cũng chưa có
khái niệm thống nhất, từ việc nghiên cứu khái
niệm về tranh chấp, về hoạt động thương mại
được qui định trong luật thương mại (3.1 Luật
Thương mại, 2005) và khái niệm về hợp đồng
70
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76
Part B: Political Sciences, Economics and Law
TMDV ở trên thì có thể đưa ra khái niệm về tranh
chấp hợp đồng TMDV như sau: “là những mâu
thuẫn, những bất đồng, những xung đột về quyền
và lợi ích của các bên ký kết hợp đồng TMDV
liên quan đến cả quá trình từ khi ký kết cho đến
khi thực hiện hợp đồng TMDV”.
cuộc. Xét xử bằng Trọng tài sẽ làm giảm mức độ
xung đột căng thẳng của những bất đồng trên cơ
sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian
kín đáo nhẹ nhàng. Đó là những yếu tố tạo điều
kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan
hệ thiện chí đối với nhau. Và đặc biệt, sự tự
nguyện thi hành quyết định Trọng tài của một bên
sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong
quan hệ đối tác trong tương lai; (6) Với các tranh
chấp về hợp đồng TMDV có yếu tố quốc tế,
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
được các doanh nghiệp nước ngoài ưa chuộng hơn
so với Tòa án, một mặt vì Trọng tài là tổ chức phi
chính phủ, mặt khác vì việc cưỡng chế thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài đã trở nên dễ
dàng hơn nhờ có Công ước New York 1958 về
thừa nhận và thi hành phán quyết Trọng tài nước
ngoài, và Việt Nam đã gia nhập công ước này vào
năm 1995. Bên cạnh đó, đối với hợp đồng TMDV
là loại hợp đồng có đối tượng là dịch vụ, thường
là vô hình và tính chất phức tạp cao nên các bên
có thể lựa chọn được những Trọng tài viên có
kinh nghiệm và kiến thức về lĩnh vực tranh chấp
xảy ra, điều này là không thể đối với tòa án, các
bên không có quyền lựa chọn thẩm phán.
2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ BẰNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại
là phương thức giải quyết tranh chấp theo đó, vụ
việc tranh chấp sẽ do Trọng tài – cơ quan phi
chính phủ - đứng ra giải quyết theo thủ tục tố tụng
do pháp luật về Trọng tài thương mại qui định.
Với ý nghĩa là một phương thức giải quyết tranh
chấp mang tính tài phán, so với Tòa án, việc giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại có
những ưu điểm như: (1) Phán quyết của Trọng tài
là chung thẩm đối với bên đương sự: tức là phán
quyết Trọng tài có giá trị cuối cùng và Trọng tài
chỉ xét xử một lần duy nhất và các bên không có
quyền kháng cáo hoặc kháng nghị; (2) Quá trình
giải quyết tranh chấp không công khai: Hầu hết
pháp luật về Trọng tài của các nước đều thừa nhận
nguyên tắc Trọng tài xử kín (in camera) nếu các
bên không quy định khác. Đây là ưu điểm đối với
những doanh nghiệp không muốn các chi tiết
trong vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai,
tiết lộ trước công chúng; (3) Giải quyết tranh chấp
bằng Trọng tài có tính linh hoạt, mềm dẻo, năng
động và dễ thích ứng hơn so với tòa án: Tòa án,
khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và
nghiêm khắc (cứng nhắc) các quy định có tính
quy trình, thủ tục, trình tự… được quy định trước
đó. Điều này không phải là hoàn toàn phù hợp với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; (4) Tiết
kiệm thời gian: Tính liên tục, tốc độ của các hoạt
động kinh tế và kinh doanh, đặc biệt hoạt động
kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên không thể lãng
phí thời gian, điều mà các tòa án sẽ rất khó đáp
ứng được do luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp
cùng một lúc gây ra khả năng ách tắc hồ sơ; (5)
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
thân thiện giúp cho các bên duy trì được quan hệ
đối tác: việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài có
tính bí mật sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn
thương đến mối quan hệ hợp tác. Trong khi đó,
xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các
bên rơi vào tình thế đối địch nhau với kết cục là
một bên được thừa nhận như là người chiến thắng,
còn bên kia thấy mình thật sự như một kẻ thua
3. THỰC TRẠNG QUI ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI
- Khung pháp luật về Trọng tài ngày càng được
hoàn thiện: Năm 2003 Pháp lệnh Trọng tài
Thương mại ra đời đã tạo cơ sở pháp lý phù hợp
cho việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
Thương mại trong đó có giải quyết tranh chấp về
hợp đồng TMDV. Luật Trọng tài Thương mại
Việt Nam năm 2010 ra đời đã thay thế Pháp lệnh
Trọng tài Thương mại 2003 trên cơ sở kế thừa
những chế định tiến bộ, phù hợp với những quy
định mới, hoàn chỉnh hơn nhằm tạo dựng cơ sở
pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện chủ trương của
Nhà nước khuyến khích các bên sử dụng Trọng tài
trong giải quyết các tranh chấp thương mại nói
chung và tranh chấp về hợp đồng TMDV nói
riêng.
- Chính phủ đã ban hành Nghị định số
63/2011/NĐ-CP qui định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Trọng tài Thương mại
nhằm hoàn thiện pháp luật về Trọng tài Thương
mại: Phạm vi điều chỉnh của Nghị định chủ yếu
quy định về các trình tự, thủ tục hành chính liên
quan đến tổ chức Trọng tài, không hướng dẫn về
tố tụng Trọng tài vì vấn đề này đã được thảo luận
71
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76
Part B: Political Sciences, Economics and Law
rất kỹ khi soạn thảo Luật Trọng tài Thương mại
và cũng đã được quy định trong Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010.
những cách hiểu khác nhau, đặc biệt là các quy
định về việc phân định thẩm quyền của Trọng tài
và Tòa án, quy định về thỏa thuận Trọng tài, hủy
phán quyết Trọng tài... Do đó, để đảm bảo tính
khả thi cũng như hiệu quả thi hành của Luật
Trọng tài Thương mại 2010 thì năm 2012 Hội
đồng Thẩm phán đã tiến hành soạn thảo Nghị
quyết hướng dẫn theo đó dự thảo tập trung vào 6
nhóm vấn đề: Phân biệt thẩm quyền Trọng tài
Thương mại và thẩm quyền của Tòa án đối với
Trọng tài; Thỏa thuận Trọng tài vô hiệu và thỏa
thuận Trọng tài không thể thực hiện được; Thành
lập hội đồng Trọng tài vụ việc, thay đổi Trọng tài
viên.
- Luật Thi hành án dân sự 2008 là cơ sở để cho
các doanh nghiệp đặt niềm tin vào Trọng tài
Thương mại: về nguyên tắc thì sẽ có sự bình đẳng,
không có sự phân biệt hoặc ưu tiên nào trong việc
thi hành án, quyết định của Tòa án hoặc quyết
định của Trọng tài hay quyết định của Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh. Luật Thi hành án dân sự
cũng qui định hai cơ chế thi hành án, đó là chủ
động thi hành án và thi hành án theo đơn yêu cầu.
Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời của Trọng tài được thi hành theo thủ tục
chủ động thi hành án, tức là Thủ trưởng cơ quan
thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án và
tổ chức việc thi hành loại việc này sau khi nhận
được quyết định do Trọng tài chuyển giao. Đối
với phán quyết của Trọng tài về xử lý vụ việc
Trọng tài thì đây là việc thi hành án theo đơn yêu
cầu. Điều này cho thấy pháp luật về thi hành án
dân sự đã đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho từng
loại phán quyết của Trọng tài.
4. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Tại Việt Nam hiện có 7 Trung tâm Trọng tài
Thương mại (gồm Trung tâm Trọng tài Thương
mại Á Châu, VIAC, Trọng tài Thương mại TP.
HCM, Trọng tài Thương mại Cần Thơ, Trọng tài
Thương mại Quốc tế Thái Bình Dương; Trọng tài
Thương mại Tài chính Ngân hàng Việt Nam và
Trọng tài Thương mại Tài chính) trong đó VIAC
là Trung tâm Trọng tài có nhiều kinh nghiệm và
uy tín trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng
TMDV, còn các Trung tâm Trọng tài khác hoạt
động chưa hiệu quả và không có nhiều vụ việc
liên quan đến hợp đồng TMDV. Vì vậy, trong
phần này tác giả sẽ phân tích tình hình giải quyết
tranh chấp hợp đồng TMDV tại VIAC để làm
khái quát bức tranh về giải quyết tranh chấp hợp
đồng TMDV tại các Trung tâm Trọng tài thương
mại ở Việt Nam.
- Các Trung tâm Trọng tài Thương mại đã xây
dựng Quy tắc tố tụng riêng của mình nhằm hướng
dẫn các bên tranh chấp về thủ tục, tố tụng Trọng
tài: Để tạo thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp
tại Trọng tài thì tất cả các Trung tâm Trọng tài
Thương mại tại Việt Nam đã có quy tắc tố tụng
riêng của mình, được soạn theo hướng đơn giản
nhằm giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính.
- Việt Nam đã gia nhập Công ước New York năm
1958 về Công nhận và thi hành phán quyết Trọng
tài nước ngoài nhằm tạo điều kiện để phán quyết
của Trọng tài Thương mại Việt Nam được thi
hành thuận lợi ở nước ngoài: Công ước này áp
dụng đối với việc công nhận và thi hành các quyết
định Trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một
Quốc gia khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công
nhận và thi hành quyết định Trọng tài đó, xuất
phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp
nhân. Công ước còn được áp dụng cho những
quyết định trong nước tại Quốc gia nơi việc công
nhận và thi hành chúng được yêu cầu (Điều 3,
Công ước New York, 1958).
Nhìn từ Biểu đồ 1 dưới đây cho thấy tranh chấp
về mua bán hàng hóa chiếm 70%, tranh chấp về
dịch vụ chiếm 3%, về xây dựng chiếm 5%, về đại
lý chiếm 1%, về đầu tư chiếm 4%, về gia công
chiếm 5%, về tài chính ngân hàng chiếm 3% đây
là loại hình tranh chấp mới được xuất hiện tại
VIAC. Tuy nhiên, đây là cách phân loại của
VIAC. Còn theo quan điểm của tác giả, xây dựng,
đầu tư (mặc dù đầu tư có nhiều hình thức như hợp
tác kinh doanh, BOT, BTO, BT nhưng một phần
nào đó phản ánh được tính dịch vụ trong hoạt
đồng đầu tư), đại lý và tài chính ngân hàng cũng
là hoạt động dịch vụ, do đó có thể thấy tranh chấp
về hoạt động TMDV do VIAC giải quyết tranh
chấp từ năm 1993 đến năm 2012 là 21%. Trong
năm 2013, số lượng vụ tranh chấp về hợp đồng
TMDV tại VIAC cũng có xu hướng tăng lên về
- Chuẩn bị ban hành Nghị quyết của Hội đồng
Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định của Luật Trọng tài Thương mại
2010: Các quy định của Luật Trọng tài Thương
mại 2010 mặc dù đã được xây dựng đầy đủ và
toàn diện nhưng một số quy định của Luật còn có
72
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76
Part B: Political Sciences, Economics and Law
dịch vụ (13 vụ), xây dựng (9 vụ), thuê (10 vụ),
hợp tác kinh doanh (4 vụ), tài chính (1 vụ), bảo
hiểm (2 vụ) chiếm 36/99 tổng số vụ tranh chấp
trong năm 2013 (VIAC, báo cáo năm 2013).
trong xây dựng (ví dụ như dịch vụ giám sát công
trình xây dựng, dịch vụ nghiệm thu, đánh giá các
hạng mục xây dựng…), trong đào tạo vận hành
thiết bị từ hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong
lĩnh vực tín dụng, tài chính ngân hàng v.v… Số
liệu thống kê của VIAC cho thấy, từ năm 2005
đến năm 2013, trong tổng số các vụ tranh chấp do
VIAC thụ lý có: mua bán hàng hóa (495 vụ), gia
công (37 vụ), phân phối (8 vụ), thuê mua (6 vụ),
hợp tác kinh doanh (15 vụ), dịch vụ (22 vụ), xây
dựng (37 vụ), đại lý (15 vụ), hợp tác đầu tư (30
vụ), tài chính ngân hàng (22 vụ) và các tranh chấp
trong lĩnh vực khác (81 vụ) và như vậy, rõ ràng
tranh chấp về hợp đồng TMDV ngày càng gia
tăng về số lượng và phức tạp về tình tiết vụ việc.
Biểu đồ 1. Các loại hình tranh chấp được giải quyết tại
VIAC từ 1993-2013
Số vụ kiện có tính chất phức tạp ngày càng nhiều,
một số vụ phải trưng cầu giám định, kéo dài thời
gian. Tuy nhiên, nhờ sự mẫn cán nghiên cứu của
các hội đồng Trọng tài, nhờ trình độ chuyên sâu
về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết
bằng Trọng tài của các Trọng tài viên ngày càng
tốt hơn nên phần lớn số vụ đều được giải quyết
đạt chất lượng cao trong một thời gian ngắn, tiết
kiệm được thời gian, tiền bạc cho các bên tranh
chấp. Tính trung bình, thời gian giải quyết một vụ
kiện là 6 tháng, trong đó nhiều vụ được giải quyết
trong vòng 3 tháng.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của VIAC
Xét xử là hoạt động trọng tâm của VIAC. Theo
thống kê, số lượng vụ kiện giải quyết tại VIAC
ngày càng tăng theo các năm. Nếu như trước năm
2002, số lượng vụ kiện tại VIAC chỉ khoảng trên
dưới 10 vụ/năm, thì trong giai đoạn 2002 – 2013,
con số này đã tăng lên khoảng 37 vụ/năm. Riêng
năm 2013, số lượng vụ kiện tăng cao nhất, đạt 99
vụ, tiếp đó là năm 2011 đạt 83 vụ và 2012 đạt 64
vụ (Biểu đồ 2). Tuy nhiên trong đó thì chủ yếu là
giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán chiếm
đa số (67%), trong khi đó các vụ giải quyết tranh
chấp về Hợp đồng TMDV chỉ chiếm 21%. Điều
đó cho thấy, việc giải quyết tranh chấp về lĩnh vực
dịch vụ vẫn còn hạn chế.
Trong hoạt động Trọng tài, giới chuyên môn
thường coi Trọng nguyên tắc “một kết quả hòa
giải tồi còn hơn một phán quyết tốt”. Bởi vậy, một
trong những yếu tố thể hiện hiệu quả của hoạt
động giải quyết tranh chấp tại Trung tâm là số vụ
các bên đạt được hòa giải hoặc nguyên đơn rút
đơn kiện chiếm tỷ lệ cao (30%) (Vũ Ánh Dương,
2012)
Biểu đồ 2. Số vụ tranh chấp tại VIAC
Đơn vị: số vụ
5. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ BẤT CẬP NHƯ
SAU
- Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ít chọn Trọng
tài để giải quyết tranh chấp về hợp đồng TMDV
trong nước: nhất là hợp đồng có giá trị lớn hầu
như không lựa chọn Trọng tài tại Việt Nam để
giải quyết. Trong khi đó các tranh chấp ở Việt
Nam hiện nay vẫn chủ yếu được giải quyết thông
qua hệ thống tòa án hoặc Trọng tài nước ngoài.
Theo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế
Singapore (SIAC) thì hàng năm đều có từ 3-5 vụ
việc mà một bên là phía Việt Nam được giải quyết
tại SIAC vì vậy sẽ không ngạc nhiên khi tại
website của SIAC quy tắc tố tụng của tổ chức này
ngoài tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung còn thấy
cả định dạng của tiếng Việt.
Nguồn: Báo cáo VIAC, 2014
Nếu như trước đây, nội dung của các vụ tranh
chấp thường tập trung vào lĩnh vực mua bán hàng
hóa, thanh toán, vận tải, bảo hiểm thì nay đã xuất
hiện các loại tranh chấp mới hoặc trước đây ít gặp
như: Tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng liên
doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong đầu tư,
73
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76
Part B: Political Sciences, Economics and Law
do đó không đúng qui trình giải quyết tranh chấp,
mặc dù thông báo này nêu rõ thời gian và địa
điểm tổ chức phiên họp, được gửi hợp lệ đến các
bên tranh chấp. Một số phán quyết khác bị hủy
với những lý do không hợp lý. Chẳng hạn, theo
quy định tại Điều 81 Luật Trọng tài Thương mại
2010, đối với các thoả thuận Trọng tài ký trước
ngày luật có hiệu lực thì áp dụng pháp luật tại thời
điểm ký thoả thuận Trọng tài. Tuân thủ quy định
này, các Hội đồng Trọng tài đã áp dụng Pháp lệnh
TTTM 2003 đối với các vụ kiện có thoả thuận
Trọng tài ký trước ngày Luật Trọng tài có hiệu
lực. Tuy nhiên, Toà đã tuyên hủy các phán quyết
này với lý do Hội đồng Trọng tài không áp dụng
các quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010
vì phán quyết Trọng tài được tuyên tại thời điểm
Luật Trọng tài Thương mại 2010 đã có hiệu lực.
Cũng liên quan tới việc áp dụng luật, Hội đồng
Trọng tài không triệu tập người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan vì quá trình tố tụng Trọng tài
chỉ ràng buộc đối với các bên ký thoả thuận Trọng
tài. Trong tố tụng Trọng tài không có khái niệm
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan như
trong tố tụng Toà án. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài
không có thẩm quyền triệu tập người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Thế nhưng có những phán
quyết bị hủy chỉ với lý do Hội đồng Trọng tài đã
không triệu tập người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan. VIAC cho biết thực tế số phán quyết bị hủy
có thể nhiều hơn con số thống kê với một số phán
quyết bị hủy mà VIAC cũng không biết Toà án
không thông báo cho dù Luật Trọng tài Thương
mại năm 2010 quy định việc gửi Quyết định hủy
hoặc không hủy phán quyết Trọng tài phải được
gửi cho các Trung tâm Trọng tài sau 05 ngày Tòa
ra quyết định.
- Vẫn còn tình trạng thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng TMDV về thỏa thuận Trọng tài bị Tòa
án tuyên là vô hiệu: do sự không thống nhất giữa
bản hợp đồng bằng tiếng Anh và tiếng Việt, các
bên có những thỏa thuận Trọng tài không đúng
theo qui định hoặc thỏa thuận Trọng tài và Tòa án
theo nước đôi, điều này dẫn đến Trọng tài không
có đủ thẩm quyền giải quyết. Ví dụ trong năm
2010, VIAC đã phải giải quyết một vụ tranh chấp
liên quan đến hợp đồng TMDV, nguyên đơn là
một công ty Nhật, bị đơn là phía Việt Nam trong
đó thỏa thuận Trọng tài được quy định trong bản
hợp đồng bằng tiếng Anh là chọn VIAC là cơ
quan giải quyết tranh chấp, còn bản bằng tiếng
Việt thì lựa chọn Tòa án Kinh tế của Việt Nam là
cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều đáng tiếc là
trong hợp đồng này đều công nhận giá trị pháp lý
của 2 bản tiếng Anh và tiếng Việt là ngang nhau.
VIAC đã phải tiến hành phiên họp và cuối cùng ra
phán quyết là VIAC không có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp vì giữa hai bên không thống nhất
được với nhau về thẩm quyền của Trọng tài.
- Nhiều phán quyết của Trọng tài vẫn bị Tòa án
tuyên hủy do vi phạm tố tụng Trọng tài: mặc dù
phán quyết của Trọng tài là chung thẩm nhưng
trong một số trường hợp phán quyết này vẫn bị
hủy bởi Tòa án nếu thỏa mãn những điều kiện
được nêu ra ở điều 68 của Luật Trọng tài Thương
mại 2010. Chính vì pháp luật trao quyền cho Tòa
án trong việc hủy phán quyết Trọng tài cho nên
dẫn đến niềm tin vào Trọng tài bị giảm sút. Thống
kê sơ bộ của VIAC cho thấy từ năm 2006 đến
2011 chỉ có khoảng 3 phán quyết Trọng tài bị Toà
án tuyên huỷ. Thế nhưng từ khi Luật Trọng tài
Thương mại 2010 chính thức có hiệu lực từ
1/1/2011 thì tỷ lệ phán quyết Trọng tài bị hủy
bỗng nhiên tăng vọt với 5 phán quyết Trọng tài bị
tuyên hủy. Thậm chí, chỉ trong tháng 11 năm
2012, có tới 3 phán quyết Trọng tài bị huỷ, tỷ lệ
phán quyết Trọng tài bị hủy trong vòng 1 năm đã
bằng tổng số 8 năm về trước, gần đây nhất là
tháng 3 năm 2013 một phán quyết của Trung tâm
Trọng tài Thương mại quốc tế Cần Thơ cũng bị
hủy. Trên thực tế có nhiều phán quyết của Trọng
tài bị hủy chỉ dựa vào những cách hiểu khác nhau
về thủ tục qui trình tố tụng giữa Tòa án và Trọng
tài, khi Tòa án chủ yếu dựa vào các thủ tục trong
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 để áp dụng vào xem
xét các quyết định của Trọng tài. Trong năm
2012, Tòa án đã ra quyết định hủy phán quyết
Trọng tài chỉ vì đơn triệu tập lại được viết thành
“thư mời” nên các bên có thể đến hoặc không đến
- Bên thua kiện chưa tự nguyện tuân thủ thi hành
phán quyết của Trọng tài Thương mại: phán quyết
Trọng tài được thi hành dựa trên nguyên tắc tự
thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa xem Trọng
việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài vì đây
không phải cơ quan Nhà nước nên chưa có ý thực
tự giác.
Nguyên nhân của những bất cập:
Thực tế có thể cho thấy rằng có quá ít tranh chấp
thương mại được giải quyết tại Trọng tài. Lí giải
cho việc doanh nghiệp không mặn mà với Trung
tâm Trọng tài có một số nguyên nhân sau:
- Chi phí giải quyết tranh chấp cao khi so với Tòa
án: Hiện nay, pháp luật không quy định mức phí
74
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76
Part B: Political Sciences, Economics and Law
Trọng tài cụ thể mà phí Trọng tài do các Trung
tâm Trọng tài quyết định. So sánh biểu phí của
VIAC và mức án phí sơ thẩm đối với các vụ án về
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án thì
có thể nhận thấy nếu lựa chọn Trọng tài là cơ
quan giải quyết tranh chấp sẽ dẫn đến khả năng
các doanh nghiệp phải mất một khoản phí lớn
trong việc giải quyết tranh chấp gấp nhiều lần so
với lựa chọn Tòa án.
nên vẫn có thói quen hình thành từ xưa là lựa
chọn Tòa án. Trong các Trung tâm Trọng tài thì
chỉ VIAC là Trung tâm đẩy mạnh việc quảng bá
hình ảnh và tuyên truyền về Trọng tài, còn các
Trung tâm Trọng tài khác dường như không chú
tâm vào vấn đề này dẫn đến số lượng doanh
nghiệp biết về các Trung tâm Trọng tài còn lại là
không nhiều.
Ngoài ra, ngoại trừ VIAC được tổ chức khá chặt
chẽ và hoạt động tương đối bài bản, các Trung
tâm Trọng tài khác hoạt động manh mún. Nguyên
nhân có thể có nhiều, tuy nhiên, theo tác giả là do
các Trung tâm Trọng tài này mới được thành lập,
yếu về nhân sự, tổ chức, chưa được nhiều doanh
nghiệp Việt Nam và quốc tế biết đến do chưa có
kinh nghiệm cũng như chưa có thương hiệu. Cụ
thể là Trung tâm Trọng tài Quốc tế Châu Á Thái
Bình Dương và Trung tâm Trọng tài Viễn Đông
theo số liệu ở Bảng dưới đây từ khi thành lập đến
năm 2011 chưa giải quyết vụ tranh chấp nào. Kết
quả dẫn đến trong tháng 9/2013, 2 trong số 7
Trung tâm Trọng tài đã bị thu hồi giấy phép đó là
Trung tâm Trọng tài thương mại Hà Nội và Viễn
Đông.
- Sự phối hợp chưa chặt chẽ, thường xuyên và kịp
thời giữa Tòa án và Trọng tài trong việc thi hành
phán quyết Trọng tài. Theo quy định của Luật
Trọng tài Thương mại 2010, phán quyết Trọng tài
được thi hành theo quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự. Tòa án và cơ quan thi hành án là
cơ quan nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động
Trọng tài nhưng thực tế sự phối hợp giữa các cơ
quan này với Trọng tài còn lỏng lẻo, nhìn chung
chưa hiệu quả. Thực tiễn Trọng tài cho thấy có ít
phán quyết của Trọng tài Việt Nam được thi hành.
- Việc tuyên truyền về Trọng tài tại Việt Nam còn
hạn chế: các doanh nghiệp chưa được phổ biến
rộng rãi về vị trí, vai trò và tính ưu việt của việc
giải quyết tranh chấp bằng con đường Trọng tài,
Bảng 1. Số vụ tranh chấp tại các trung tâm Trọng tài ở Việt Nam
Trung tâm
2005
2006
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Trung tâm TTTM Á Châu
6
7
0
0
0
0
0
0
Trung tâm TT Quốc tế Việt Nam
17
31
58
48
63
83
64
99
Trung tâm TTTM TP.HCM
3
5
8
10
6
6
8
-
Trung tâm TTTM Hà Nội
9
3
0
0
0
0
0
0
Trung tâm TTTM Cần Thơ
0
0
0
0
1
3
-
-
Trung tâm TTTM Quốc tế Thái Bình Dương
0
0
0
0
0
0
0
-
Trung tâm Trọng tài Viễn Đông
0
0
0
0
0
0
0
0
Nguồn: Tác giả tổng hợp
và đưa ra các giải pháp khắc phục chúng. Trong
đó cần phải tìm hiểu Luật Trọng tài Thương mại
2010 để nắm bắt những quy định về tố tụng Trọng
tài trong đó thỏa thuận Trọng tài là vấn đề tiên
quyết để Trọng tài có thể quyết định thẩm quyền
xét xử của mình (Hà Công Anh Bảo, 2012). Đối
với các Trung tâm Trọng tài, để hoạt động ngày
càng phát triển và mở rộng, thì cần phải sâu sát
các Trọng tài viên trong việc hướng dẫn họ áp
dụng Luật Trọng tài Thương mại 2010, vì Trọng
tài viên là nòng cốt cơ bản của hội đồng Trọng tài,
là người nhân danh công lý đưa ra phán quyết cho
vụ kiện, nên việc áp dụng đúng Luật Trọng tài
Thương mại 2010 hay không sẽ là một nhân tố cơ
bản ảnh hưởng đến việc Luật Trọng tài Thương
mại 2010 được áp dụng vào đời sống và hạn chế
6. KẾT LUẬN
Như vậy qua việc phân tích các đặc điểm, nguyên
tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng TMDV bằng
Trọng tài thương mại có thể thấy đây là phương
pháp giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm và
được sử dụng nhiều trên thế giới và cần được
khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng, tuy
nhiên trên thực tế số lượng các vụ việc giải quyết
tranh chấp bằng hình thức này ở Việt Nam vẫn
còn ở mức độ thấp, chưa phổ biến. Điều này xuất
phát từ nhiều lý do như mạng lưới Trọng tài còn
thưa thớt, các doanh nghiệp chưa am hiểu và có
niềm tin về phương thức này. Chính vì vậy để áp
dụng phương pháp này trong thực tế các doanh
nghiệp cần tiếp tục tìm hiểu những nguyên nhân
75
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76
Part B: Political Sciences, Economics and Law
những trường hợp phán quyết của Trọng tài bị
hủy vì vi phạm các trình tự tố tụng như thời gian
qua. Tiếp theo, các Trung tâm Trọng tài nên sửa
đổi các quy tắc tố tụng của mình cho phù hợp với
Luật Trọng tài Thương mại 2010 dựa trên sự góp
ý của các Trọng tài viên của mình - những người
nhất thiết cần phải hiểu rõ Luật Trọng tài Thương
mại. Đồng thời, hoàn thiện hơn nữa đội ngũ
Trọng tài viên cả về số lượng và chất lượng: bằng
cách thường xuyên bổ sung Trọng tài viên mới là
người có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cao
đồng thời phải nắm vững được những kiến thức
về pháp luật dựa trên một qui trình tuyển chọn có
chọn lọc, cụ thể nhằm lựa chọn những người vừa
có trình độ vừa có đạo đức. Bên cạnh đó, các
Trung tâm Trọng tài cần phải cập nhật các thông
tin về hoạt động xét xử của mình trên Website để
các doanh nghiệp có thể tham khảo về tình hình
giải quyết tranh chấp tại các Trung tâm này như
thế nào, đây là cách làm mà các Trung tâm Trọng
tài trong khu vực đã làm từ lâu nay, nó cũng là
cách để Trọng tài quảng bá hình ảnh của mình đối
với cộng đồng doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hà Công Anh Bảo. (2012). Học thuyết Competence –
Competence về vấn đề thẩm quyền quyết định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài. Tạp chí
kinh tế đối ngoại, 54, 95-103.
Hà Công Anh Bảo. (2014). Hợp đồng thương mại dịch
vụ và các vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ ở Việt Nam. Tạp chí kinh tế đối ngoại,
61, 57-67
Nguyễn Thị Hải Chi. (2010). Trung tâm Trọng tài Quốc
tế Việt Nam: 17 năm – Một chặng đường phát triển,
Số Chuyên đề Pháp luật về trọng tài thương mại,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp.
Nguyễn Thị Mơ. (2013). Thực trạng giải quyết tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các
doanh nghiệp Việt Nam. Hội thảo Việt Nam gia
nhập Công ước Viên 1980.
Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
(2010). Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam 2010.
VIAC. (2014). Báo cáo thống kê hoạt động tố tụng năm
2013.
Vũ Ánh Dương. (2012). Thực tiễn thi hành Luật Trọng
tài Thương mại 2010 tại VIAC. Kỷ yếu hội thảo về
trọng tài 2012.
76
- Xem thêm -