Luận văn
Giải quyết các tranh chấp trong thương
mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Trang 1
MỞ ĐẦU
T rong kinh doanh, tranh chấp tồn tại như một tất yếu: có thể ở dạng tranh chấp
hiện tại, cần phải giải quyết hoặc tranh chấp tương lại. Các mối quan hệ càng
nhiều, càng phức tạp thì khả năng xảy ra tranh chấp càng lớn, bất chấp một khung pháp lý
có hoàn chỉnh đến đâu - bởi không phải lúc nào các bên cũng tuân thủ pháp luật một cách
nghiêm chỉnh. Đặc biệt trong thương mại Quốc tế, lĩnh vực mà các bên tham gia có
những đặc điểm về tập quán kinh doanh, ngôn ngữ và cả các đặc điểm văn hoá rất khác
nhau, thì tranh chấp lại càng lớn, cả về mặt quy mô và khả năng xảy ra tranh chấp. Chỉ
cần một sự sai lệnh nhỏ trong cách hiểu, xuất phát từ bất đồng ngôn ngữ là đã có thể dẫn
đến tranh chấp. Đây là chưa nói đến vấn đề phức tạm hơn là văn hoá và tập quán kinh
doanh. Chẳng hạn như hàng nhập khẩu vào Trung Quốc bắt buộc phải có mã số, mã
vạch, và điều này được coi là đương nhiên đối với các nhà nhập khẩu Trung Quốc và do
đó có thể gây thiệt hại cho nhà xuất khẩu nếu không chú ý đến điều đó trong thoả thuận
hợp đồng. Hay như quy định về điều kiện cơ sở giao hàng của Hoa Kỳ không hoàn toàn
giống với các điều kiện cơ sở giao hàng của Phòng Thương mại quốc tế (Incoterm) mà
nếu không nghiên cứu kỹ các bên có thể dẫn đến tranh chấp về các khoản chi phí giao
hàng,…
Trước khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không bao giờ muốn có tranh
chấp xảy ra. Tuy nhiên, nó vẫn có thể xảy ra do những nguyên nhân chủ quan và
khách quan. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng
xảy ra tranh chấp là điều luôn được quan tâm. Nhưng một khi tranh chấp đã xảy ra,
hoặc để đảm bảo lợi ích cho bản thân trong trường hợp xảy ra tranh chấp, thì vấn
đề lựa chọn một phương pháp giải quyết tranh chấp cũng cần được quan tâm thích
đáng, sao cho tranh chấp được giải quyết thoả đáng với chi phí về thời gian, công
sức và tiền bạc là ít nhất.
Một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp hay được áp dụng hiện
nay là thông qua trọng tài kinh tế. Có nhiều ưu điểm của phương pháp này so với
các phương pháp khác: như tính bảo mật, độ tin cậy cao…. khiến nó trở thành một
biện pháp giải quyết tranh chấp phổ biến nhất trên thế giới. Và vì vậy có thể nói
hoạt động của các trung tâm trong tài đã và đang từng bước góp phần vào việc
hoàn thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo cho việc kinh doanh được ổn đinh.
Trang 2
Được sự đồng ý của trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, của khoa Thương
mại và dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy Nguyễn Anh Tuấn, em đã về thực tập
tốt nghiệp tại TTTTQuốc tế bên cạnh phòng TM & CN Việt nam, để học hỏi
nghiên cứu và tìm hiểu sâu thêm về vấn đề "Giải quyết các tranh chấp trong
thương mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay". Sau đây là bản báo cáo tổng hợp về
TTTTQuốc tế: một số nét chính của Trung tâm, kết quả hoạt động trong thời gian
qua và phương hướng hoạt động sắp tới. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ nhiệt tình của các chú, các anh chị ở TTTTtrong thời gian em đến thực tập ở
Trung tâm và mong rằng em sẽ tiếp tục được các anh, chị hướng dẫn chỉ bảo trong
thời gian tới.
Trang 3
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THỦ TỤC
TRỌNG TÀI
1.1. TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1.1.1. Tranh chấp kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm
Ngay từ xa xưa, khi Nhà nước còn chưa hình thành thì mọi người đã tiến
hành các hoạt động sản xuất và trao đổi sản phẩm hàng hoá theo các phương thức
giản đơn khác nhau. Hay nói một cách khác, lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế
có từ rất lâu trước khi Nhà nước xuất hiện và đưa ra nx chế định để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế, xã hội cùng với sự ra đời và phát triển của các quan hệ kinh tế xã
hội, tranh chấp cũng phát sinh và đặt ra nhu cầu được giải quyết sao cho công bằng
và hợp lý nhất trong bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội đó.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu
thuẫn này có thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh
nên chúng được gọi theo ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lương giữa
người lao động và người sử dụng lao động được gọi là tranh chấp lao động. Tương
tự như vậy, tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai ... những tranh chấp rõ là có liên
quan đến lợi ích kinh tế của các bên. Do đó chúng có thể được gọi là tranh chấp
kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc trưng của các tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng
đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ này không nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận.
Trong phạm vi hẹp, quan hệ kinh tế là quan hệ giã các chủ thể kinh doanh
trong lĩnh vực kinh tế. Kể từ khi nước ta có pháp luật về hợp đồng kinh tế, những
tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng kinh tế gọi là tranh chấp kinh tế, đó là sự
bất đồng quan điểm của các bên về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ hợp đồng kinh tế. Song trong nền kinh tế thị trường mở cửa và nhiều
thành phần kinh tế hiện nay, tranh chấp kinh tế không chỉ đơn thuần là tranh chấp
Trang 4
hợp đồng kinh tế, mà còn nhiều loại tranh chấp khác, phát sinh trong quá trình sản
xuất - kinh doanh như: tranh chấp giã công ty và các thành viên công ty; giữa các
thành viên công ty với nhau, các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu,
trái phiếu...
Tóm lại: "tranh chấp kinh tế là tranh chấp trong quan hệ kinh doanh " Kinh
doanh như quy định tại Khoản 2 - Điều 3 - Luật doanh nghiệp "Là việc thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời" Chủ thể
của các hoạt động kinh doanh là các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, vì thế có thể
có một khái niệm về tranh chấp kinh tế như sau: "Tranh chấp kinh tế là những bất
đồng, xung đột, mâu thuẫn xảy ra ở các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế trong quá
trình thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể doanh nghiệp".
1.1.1.2. Phân loại tranh chấp kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường mở, nhiều thành phần các quan hệ kinh doanh
rất đa dạng và phức tạp. Tranh chấp kinh tế cũng vì vậy mà phức tạp không kém.
Việc phân loại tranh chấp kinh tế giúp chúng ta đơn giản hoá được chúng và có
cách xa phù hợp.
* Theo mối quan hệ giữa các chủ thể thì tranh chấp kinh tế có thể là:
- Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp
nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Tranh chấp giữa các công ty với các thành viên công ty hoặc giữa các
thành viên công ty liên quan đến việc thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể công
ty.
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật
* Tranh chấp trong hợp đồng kinh tế và tranh chấp ngoài hợp đồng kinh tế.
* Tranh chấp kinh tế trong nước và tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài.
* Theo lĩnh vực kinh doanh thì gồm: tranh chấp thương mại, tranh chấp về
tài chính, tranh chấp đầu tư, tranh chấp về bảo hiểm, tranh chấp về vận chuyển
hàng hoá...
Trang 5
* Theo thẩm quyền giải quyền thì gồm có tranh chấp do Toà án giải quyết và
tranh chấp do các tổ chức khác giải quyết.
* Theo số lượng đương sự trong tranh chấp gồm có tranh chấp liên quan đến
hai bên và tranh chấp liên quan đến nhiều bên.
1.1.2. Tranh chấp thương mại
1.1.2.1. Khái niệm
Một cách đơn giản có thể hiểu tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực thương mại. Điều 238 Luật thương mại Việt Nam nêu ra khái niệm
về tranh chấp thương mại "là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt đồng thương mại".
Tại Khoản 2 - Điều 5 cũng quy định "hoạt động thương mại là việc thực
hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại
nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội".
Tuy nhiên, hành vi thương mại gồm những hành vi nào là điều đáng quan
tâm hơn cả. Hiện nay trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về hành vi thương
mại:
Ở Việt Nam, Điều 45 Luật thương mại quy định các loại hành vi thương
mại gồm:
1. Mua bán hàng hoá
2. Đại diện cho thương nhân
3. Môi giới thương mại
4. Uỷ thác mua bán hàng hoá
5. Đại lý mua bán hàng hoá
6. Gia công trong thương mại
7. Đấu giá hàng hoá
8. Dịch vụ giao nhận hàng hoá
9. Đấu thầu hàng hoá
10. Dịch vụ giám định hàng hoá
11. Khuyến mại
Trang 6
12. Quảng cáo thương mại
13. Trưng bày giới thiệu hàng hoá
14. Hội chợ, triển lãm thương mại
Tuy vậy, ngoại diên của khái niệm hành vi thương mại ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển có phạm vi rộng hơn nhiều. Ở Anh nói riêng và cộng
đồng Anh ngữ nói chung thuật ngữ "Commerce" không đồng nhất với "trade", mà
nó bao gồm cả "trade", "bank", "insurrance" , "transport", ... hay nói một cách khác
thương mại bao gồm cả việc mua, bán, các sản phẩm vô hình có tính chất đặc thù
khác. Tác động thương mại là hoạt động "thường xuyên, độc lập và mưu cầu lợi
nhuận", và theo luật thương mại của Pháp, hoạt động thương mại bao gồm:
1. Mua bán động sản với mục đích bán lại để kiếm lời
2. Hoạt động trung gian trong việc mua bán động sản và bất động sản.
3. Cho thuê động sản và bất động sản.
4. Chế tạo và chuyên chở
5. Hoạt động đổi tiền và ngân hàng
6. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Và tranh chấp thương mại là tranh chấp trong các hoạt động trên. Trong giới
hạn của bài viết ở đây chỉ làm rõ tranh chấp trong hoạt động thương mại đã được
quy định tại luật thương mại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/1998.
1.1.2.2. Phân loại tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại cũng là một tranh chấp kinh tế, do đó tranh chấp
thương mại có thể là:
* Theo phạm vi lãnh thổ: Tranh chấp thương mại trong nước và tranh chấp
thương mại quốc tế.
* Tranh chấp hai bên và tranh chấp nhiều bên
* Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên
- Tranh chấp do người mua không thực hiện hay thực hiện không đúng theo
quy định của hợp đồng.
- Tranh chấp do người bán không thực hiện hay thực hiện không đúng theo
quy định hợp đồng.
Trang 7
* Tranh chấp hiện tại và tranh chấp tương lai. Tranh chấp hiện tại là tranh
chấp đã xảy ra đang cần được giải quyết. Tranh chấp tương lai được hiểu là tranh
chấp có thể xảy ra và việc giải quyết được dự liệu trong một điều khoản của hợp
đồng.
* Theo nghiệp vụ giao dịch
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến viêc thanh toán
* Theo tính pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý và hiệu lực của
hợp đồng)
- Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng
Vi phạm nguyên tắc ký kết
Căn cứ ký kết không hợp pháp
Chủ thể ký kết hợp đồng không hợp pháp, hợp lệ
- Tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp đồng
- Tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng
* Theo tiến trình thực hiện hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng
+ Do người bán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
của mình như đã thoả thuận trong hợp đồng (liên quan đến nghĩa vụ giao hàng,
cung cấp chứng từ hàng hoá, thông qua kiểm định...).
+ Do người mua không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
của mình trong hợp đồng (không mở L/C đúng hạn, thanh toán chậm hay không
thanh toán, không hoặc trì hoãn việc nhận hàng).
1.1.2.3. Tranh chấp thương mại.
* Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh từ những quan hệ có do
ngành luật thương mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trưng khác biệt so với
tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động.
Thứ nhất, tranh chấp thương mại thường là nguyên nhân phát sinh thiệt hại
về vật chất đối với các bên khi các bên có sự thoả thuận thông nhất một cách giải
Trang 8
quyết có lợi nhất cho cả hai bên. Khác với các tranh chấp khác, tranh chấp thương
mại thường có giá trị lớn được phát sinh trong việc đầu tư vốn, tài sản nhằm thu lợi
nhuận. Tranh chấp nảy sinh sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của không những
các đương sự mà còn ảnh hưởng đến các chủ thể kinh doanh khác.
Thứ hai, quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương
mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Hoạt động thương mại của
doanh nghiệp là hoạt động thiết lập một mạng lưới các hành vi thương mại, mà
mục tiêu của các bên khi tham gia vào các quan hệ này là lợi nhuận. Các bên tuy
hợp tác, song vẫn canh tranh nhau để thu về được lợi ích nhiều nhất. Chính vì thế
sẽ không tránh khỏi những mâu thuẫn bất đồng trong việc giải thích về quyền và
nghĩa vụ, cũng như quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ đó của các bên - đó
chính là những tranh chấp thương mại.
Thứ ba, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể được
Nhà nước thừa nhận quyền doanh nghiệp có chức năng kinh doanh đó là các doanh
nghiệp. Vì vậy không phải tranh chấp nào phát sinh từ hoạt động kinh doanh cũng
là tranh chấp thương mại. Là tranh chấp thương mại khi các đơn vị kinh tế có đăng
ký kinh doanh thuộc tất cả các thành phần kinh tế (các doanh nghiệp Nhà nước,
Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, hộ kinh doanh cá thể ).
Thứ tư, tranh chấp thương mại có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh chấp
này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của các quan
hệ kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Mặt
khác, mua bán trao đổi là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục, các chủ thể
cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế khiến cho những mối quan
hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan đến nhau khiến cho nếu tranh chấp
phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến tranh chấp trong mối quan hệ khác.
Chẳng hạn doanh nghiệp A vay tiền của ngân hàng để mua nguyên vật liệu của doanh
nghiệp B và bán sản phẩm cho doanh nghiệp C theo các hợp đồng đã ký. Nếu doanh
nghiệp B không cung cấp đúng nguyên vật liệu như đã thoả thuận thì doanh nghiệp A
cũng sẽ không giao được hàng cho bên C như trong hợp đồng và không thu hồi được
vốn đầu tư để trả cho ngân hàng. Tranh chấp phát sinh giữa doanh nghiệp A và
Trang 9
doanh nghiệp B; doanh nghiệp A và doanh nghiệp C; doanh nghiệp A và ngân
hàng.
1.1.2.4. Tính tất yếu tồn tại tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị
trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, sản phẩm được sản
xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường, mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều là đối
tượng tự do mua bán trên thị trường kể cả sản phẩm chất xám. Kinh tế thị trường là
nền kinh tế tiền tệ hoá rất cao, mục đích của các chủ thể khi tham gia vào kinh tế
thị trường là lợi nhuận, lợi nhuận càng cao càng tốt.
Trong cơ chế thị trường, các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ rất cao và họ có
toàn quyền quyết định việc thiết lập các quan hệ kinh tế - thương mại của mình
miễn là không trái với quy định của pháp luật. Chính vì vậy các quan hệ thương
mại trong nền kinh tế rất đa dạng và phức tạp. Tính phức tạp và chồng chéo đan
xen của các quan hệ thương mại ẩn chứa một nguy cơ cao phát sinh tranh chấp.
Chỉ một trục trặc nhỏ trong "mắt xích" sẽ làm kéo theo hàng loạt các trục trặc khác
và làm nảy sinh tranh chấp.
Các chủ thể kinh kế khi tham gia vào những quan hệ thương mại mà họ cho
là có lợi, có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất và khi mà mục đích có nguy cơ
không đạt được cũng sẽ làm phát sinh tranh chấp. Trong quan hệ thương mại,
quyền lợi của bên này cũng tương ứng với một nghĩa vụ của bên kia, điều đó khiến
cho xung đột lợi ích sẽ phát sinh nếu các bên không đi đến một thoả thuận thống
nhất dung hoà được quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Đảm bảo nguyền tắc cùng có lợi
trong quan hệ thương mại.
Đặc biệt trong thương mại quốc thế sự khác nhau về tập quán kinh doanh
cũng là một lý do quan trọng dẫn đến tranh chấp. Tập quán kinh doanh ở đây được
hiểu là toàn bộ các quyết định luật pháp, quy tắc thực hành, thông lệ... trong hoạt
động thương mại ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực kinh tế. Một hành vi được coi là
hợp pháp ở quốc gia này nhưng rất có thể là hành vi vi phạm pháp luật ở nước
khác. Chẳng hạn theo quy định nhập khẩu của Trung Quốc, hàng hoá nhập khẩu
vào Trung Quốc bắt buộc phải in mã số mã vạch trên bao bì, nhãn hiệu hàng hoá.
Các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc nếu không tìm hiểu rõ quy
Trang 10
định này và xuất hàng chưa đăng ký và in mã số, mã vạch thì sẽ không được thông
qua nhập khẩu và thế là tranh chấp phát sinh. Hay như quy định về hạn ngạch dệt
may của Mỹ khác với quy định của EU là ở loại hạn ngạch tính theo số lượng nhập
khẩu....
Các rủi ro khách quan như: sự thay đổi pháp luật, cấm vận, chiến tranh, bạo
loạt, đình công... ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng của các bên làm phát
sinh tranh chấp. Mặc dù đó có thể là những trường hợp bất khả kháng, song việc
giải quyết hậu quả, phân định mức thiệt hại cho mỗi bên cũng có thể phát sinh tranh
chấp. Tranh chấp còn phát sinh khi một bên cho rằng rủi ro không nằm trong các
trường hợp được miễn trách.
Trong nền kinh tế thị trường đạo đức kinh doanh không phải lúc nào cũng
được các bên tôn trong, đặc biệt là việc giữ chữ tín với bạn hàng. Vì lợi nhuận họ
sẵn sàng có những hành động cố tình vi phạm hợp đồng, hoặc lừa đào khách
hàng... làm thiệt hại cho đối tác. Bản thân mục tiêu lợi nhuận không mang tính đạo
đức nhưng cách thức để đạt được lợi nhuận thì có và tranh chấp phát sinh, trong
trường hợp này thuộc về lý do chủ quan. Rõ ràng trong nền kinh tế thị trường quan
hệ kinh tế trở lên sống động, đa dạng và phức tạp. Mục đích nhằm tối đa hoá lợi
nhuận trở thành động lực trực tiếp của các bên tham gia quan hệ kinh tế thương
mại. Trong điều kiện đó, tranh chấp là một vấn đề tất yếu, không thể tránh khỏi,
đòi hỏi phải có sự quan tâm giải quyết một cách thoả đáng. Điều này vừa là một
yêu cầu nghiêm ngặt của nguyên tắc pháp chế vừa là một đòi hỏi bức xúc của quan
hệ kinh tế nói chung và quan hệ thương mại nói riêng.
1.1.3. Giải quyết tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị trường
Cùng với sự phát triển của kinh tế, tính đa dạng và phức tạp trong quan hệ
thương mại làm cho tranh chấp thương mại cũng trở lên phức tạp về nội dung, gay
gắt về mức độ tranh chấp và phong phú hơn nhiều về chủng loại xuất phát từ lợi
nhuận của các bên và sự hấp dẫn của nền kinh tế, việc giải quyết tranh chấp là hết
sức quan trong và cần thiết.
Trang 11
1.1.3.1. ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả.
Khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp xảy
ra bởi tranh chấp đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ,
làm gián đoạn quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi phí và công sức để giải quyết
tranh chấp. Không những thế còn liên quan đến chủ thể khác có quan hệ với các
bên tranh chấp, uy tín của chủ thể trên thương trường có thể bị ảnh hưởng, cũng
như các yếu tố khác thuộc về bí mật kinh doanh có thể bị tiết lộ hoặc bị lợi dụng...
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn chế
đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở mức chi
phí thấp nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp
pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào kinh tế thương mại.
Giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ
kinh tế thương mại nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp luật, phải đảm bảo
bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra bằng cách đặt
ra các chế định và chế tài tạo thành một "sân chơi" lành mạnh và công bằng. Khi
tranh chấp xảy ra phải có các thủ tục, biện pháp để giải quyết, nếu không giải
quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và thiệt hại rất lớn. Điều đó không
những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền kinh tế mà còn gây nên một khuyết
điểm lớn của môi trường kinh doanh, các chủ thể sau tranh chấp có thể "quay
lưng" lại với nhau đố kỵ và không tin tưởng lẫn nhau. Một tâm lý yên tâm làm ăn
kinh tế, mạnh dạn đầu tư sẽ góp phần cải thiện nền kinh tế.
Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực kỳ quan trong
việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiập,
vừa góp phần tạo môi trường pháp lý có kỷ cương. Trong sản xuất kinh doanh tạo
niềm tin, thực hiện công bằng và bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước và
ngoài nước. Thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Tính hiệu quả được xét ở hai góc độ hiệu quả chuyên môn và hiệu quả kinh
tế. Muốn vậy trong khi tiến hành một hình thức giải quyết tranh chấp nào cũng
phải tuân thủ một số nguyên tắc.
Trang 12
1.1.3.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
Dựa trên cơ sở tự do và tự chủ trong kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật,
việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự định đoạt: Theo nguyên tắc này thể hiện trước hết là ở chỗ
các bên có quyền thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp có lợi nhật có thể
là tự thương lượng, hoặc thông qua trung gian hoà giải, hoặc thông qua một hình
thức tài phán. Sau đó các bên có thể không nhất thiết phải tham gia tố tụng mà có
thể uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng, có quyền nhờ luật sư hoặc người
khác bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cuối cùng khi đã đưa tranh chấp ra trọng
tài hoặc toà án các bên có quyền hoà giải hoặc thay đổi nội dung đơn kiện hoặc rút
đơn kiện.
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các bên không phân biệt thành phần kinh tế, số vốn, tài sản.
- Nguyên tắc hoà giải: Trước hết các bên phải tiến hành tự hoà giải, chỉ khi
nào không hoà giải được mới nhờ đến các cơ quan tài phán giải quyết. Khi thụ lý
vụ án các cơ quan tài phán cũng tiến hành các biện pháp hoà giải và công nhận hoà
giải trước khi xét xử. (Quy định tại Điều 35 pháp lệnh giải quyết vụ án tranh chấp
kinh tế, Điều 35 quy tắc tố tụng trọng tài trong nước và Điều 35 quy tắc tố tụng
của trung tâm trong tài quốc tế Việt Nam).
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, đảm bảo hạn
chế gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh được thực hiện
theo chu trình sản xuất khép kín, vì vậy ở bất kỳ một công đoạn nào xảy ra trục
trặc đều dẫn đến ảnh hưởng toàn bộ quá trình kinh doanh. Giải quyết tranh chấp
không được tiến hành một cách nhanh chóng kịp thời sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại
và phát triển vững mạnh của chủ thể kinh doanh. Nhanh chóng, kịp thời nhưng
phải dứt điểm, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các
bên.
Ngoài ra, xuất phát từ mức độ lợi ích của doanh nghiệp, việc giải quyết tranh
chấp phải quan tâm đến một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, là giải quyết đước tranh chấp với chi phí thấp nhất về tiền bạc và thời
gian chi phí để bỏ ra giải quyết tranh chấp cũng là chi phí kinh doanh, vì vậy khi phát
Trang 13
sinh tranh chấp là nảy sinh thêm chi phí. Đặt ra yêu cầu phải hạn chế ở mức thấp nhất
các chi phí không mang lại hiệu quả kinh doanh này. Các bên nên lựa chọn giải quyết
với chi phí thấp nhất, đồng thời các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng phải tính đến
yêu cầu này để đặt ra nhưng quy định phù hợp, tạo niềm tin cho người kinh doanh.
Thứ hai, phải bảo vệ được uy tín của các bên trong thương trường. Trong
quá trình giải quyết tranh chấp, không bên nào được đưa ra bất kỳ một thông tin
nào ngoài phạm vi giải quyết tranh chấp, nhằm hạ uy tín hay ảnh hưởng tiêu cực
đến hình ảnh của đối phương trên thương trường, trước công luận, hay trước tổ
chức giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp phải bảo đảm các yếu tố bí mật trong kinh
doanh trong hoạt động kinh doanh để có được thành công thì các chủ thể đều có
những bí quyết riêng của mình vì vậy họ không muốn đề người khác biết. Khi mà
quyền kinh doanh được coi là hợp pháp thì quyền giữ bí mật trong kinh doanh
cũng được pháp luật bảo hộ.
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp chỉ có thông qua toà án là xét
xử công khai nhưng ngay cả trong trường hợp các bên kiện ra toà, thì yêu cầu về
tính bảo mật và uy tín cũng được tôn trọng như quy định ở Điều 7 pháp lệnh về thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế: "Các vụ án kinh tế được xét xử công khai trừ
trường hợp cần giữ bí mật Nhà nước hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu
chính đáng của họ".
Trong nền kinh tế, có nhiều phương thức và loại hình giải quyết tranh chấp
khác nhau, tất cả đều nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất, quyền và lợi ích
của các bên đều được bảo đảm. Các khả năng, hình thức và biện pháp giải quyết
tranh chấp được quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia thích ứng với điều kiện
kinh tế xã hội của quốc gia đó. Đó là việc giải quyết tranh chấp thông qua một cơ
quan tài phán có đơn kiện, hoặc giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục đơn kiện.
1.1.3.3. Các biện pháp giải quyết tranh chấp.
a. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
Đây là biện pháp các bên áp dụng trước khi đi kiện khi pháp sinh tranh chấp.
Các bên sẽ đưa ra trao đổi bàn bạc các biện pháp để đi đến thống nhất chung cho
việc giải quyết tranh chấp. Các bên có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện gặp
Trang 14
nhau đàm phán để giải quyết những vấn đề phát sinh. Đại diện củ7a mỗi bên có thể
là giám đốc, là người được giám đốc uỷ quyền hoặc luật sư thay mặt doanh nghiệp
đó tham gia vào quá trình thương lượng. Việc thương lượng có thể tiến hành trực
tiếp hoặc thông qua các hình thức trao đổi thông tin.
Trong hình thức thương lượng, các bên có quyền tự do ý trí, bình đẳng, cùng
nhau xem xét vấn đề trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành. Nếu các
bên đạt được sự thoả thuận thì coi như tranh chấp được giải quyết.
Biện pháp thương lượng là biện pháp giải quyết đơn giản, tiết kiệm được
thời gian và chi phí đối với mỗi bên. Việc thương lượng còn thể hiện sự thiện chí
thương lượng của các bên trong việc giải quyết tranh chấp, sau khi đã thoả thuận
thống nhất các bên vẫn giữ được mối quan hệ tốt với nhau trong các thương vụ sau
này, cũng như giữ được uy tín và bảo vệ được bí mất kinh doanh.
Tuy vậy biện pháp này thường chỉ thành công khi các bên cùng có thiện chí
trong việc giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên tỏ ra quá nóng vội, khiêu
khích thì quá trình thương lượng coi như thất bại. Mặt khác, nếu mâu thuẫn quá
phức tạp các bên không giữ được cách đánh giá khách quan thì rất khó thoả hiệp.
Hoặc nếu tranh chấp liên quan đến nhiều bên, tranh chấp mà việc giải quyết nó
nằm ngoài khả năng của các bên thì phải có một bên thứ ba hoặc một cơ quan hoà
giải mới giải quyết được chứ thương lượng không giúp ích gì nhiều.
b. Giải quyết tranh chấp bằng trung gian hoà giải.
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên thông qua một
người thứ ba gọi là hoà giải viên. Hoà giải viên được các đương sự chọn có nghĩa
vụ "trung lập" tạo điều kiện giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được một giải pháp để
điều hoà lợi ích khắc phục mâu thuẫn bất đồng đã phát sinh.
Hoà giải viên sẽ tiến hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả
hai bên để tìm hiểu kỹ nội dung tranh chấp, đưa ra những lý giải, phân tích cho các
bên thấy rõ lợi ích của mình và của bên kia để cùng tìm ra một giải pháp thống
nhất giải quyết tranh chấp hợp tình hợp lý. Hoà giải viên không có quyền hạn gì để
ra quyết định hoặc áp đặt một giải pháp nào đối với các bên, cũng như không thể
đưa ra các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trang 15
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp mang tính chất tự nguyện, nó
mang đầy đủ những ưu điểm của thương lượng. Ngoài ra, hoà giải còn có những
ưu điểm khiến không giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn. Chẳng hạn hoà giải viên
thường là những chuyên gia am hiểu về vấn đề đang tranh chấp, họ lại có một đánh
giá sự việc khách quan hơn, hoà giải viên có thể đưa ra giải quyết cho cả hai bên
cùng tham khảo, họ thường có những phân tích chính xác, rõ ràng các vấn đề thực
tế trong tranh chấp, từng bước gỡ từng bước "mút" bất đồng.
Hoà giải cũng chỉ thành công khi hai bên có thiện chí giải quyết tranh chấp
và nhìn chung thể thức này không có giá trị bắt buộc trừ khi các bên đạt được sự
thoả thuận. Nếu các bên cứ khăng khăng bảo thủ thì tranh chấp cũng không giải
quyết được vì hoà giải viên không đưa ra những quyết định buộc các bên phải thi
hành.
Người trung gian hoà giải được chọn thông qua sự thống nhất thoả thuận của
các bên. Đó có thể là các tranh chấp trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Trong hoạt
động kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong thương mại quốc tế trung gian hoà giải có
thể là một tổ chức Chính phủ như đại sứ quán các trung tâm xúc tiến thương mại...
hoặc là các tổ chức phi Chính phủ .
Hai phương thức trên có giải quyết tranh chấp thành công hay không đều
phụ thuộc rất lớn vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên. Thiếu những yếu tố đó
việc giải quyết tranh chấp sẽ thất bại. Do đó cần giải quyết bằng những phương
thức khác, quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp phải được tuân thủ. Người
có quyền lợi bị vi phạm sau khi không thành công trong việc áp dụng của các biện
pháp trên (hoặc bỏ qua) có thể kiện ra toà án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền lợi của
mình.
c. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục toà án.
Điều 1 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã quy định về quyền yêu
cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như sau "cá nhân, pháp nhân, theo thủ
tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án kinh tếư để yêu cầu toàn án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình''.
Tranh chấp kinh tế nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng được kiện
đối và xét xử ở toà kinh tế. Toà án có thẩm quyền xét xử các tranh chấp pháp sinh
Trang 16
từ tất cả các mối quan hệ kinh tếư trong nước kể cả thủ tục giải quyết phá sản
doanh nghiệp.
Thẩm quyền giải quyết của toà án được phân cấp, theo lãnh thổ và theo sự
lựa chọn của nguyên đơn.
+ Thẩm quyền theo cấp:
Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp
hợp đồng kinh tế mà giá trị thấp dưới 50 triệu, trừ những tranh chấp có yếu tố nước
ngoài.
Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án kinh tếư
thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện.
Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm
các vụ án kinh tế.
Toà án phúc thẩm Toà án nhân dân tối cac xét xử phúc thẩm các bản án sơ
thẩm của toà án kinh tế Toà án nhân dân cấp huyện.
+ Thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ: Toà án cấp có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm là Toà án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú. Nếu vụ án chỉ liên quan đến bất
động sản thì toà án có nơi có bất động sản giải quyết.
+ Theo yêu cầu giải quyết của nguyên đơn: Nguyên đơn có quyền lựa chọn
Toà án để yêu cầu giải quyết trong các trường hợp sau: Toà án an có tài sản, nơi có
trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn hoặc chi nhánh của bị đơn.
Toà án nơi thực hiện hợp đồng kinh tế nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư
trú khác nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú hoặc có trụ sở của
một trong các bị đơn giải quyết vụ án.
Nếu vụ án có liên quan đến bất động sản thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà
án nơi có bất động sản hoặc nơi cư trú của bị đơn giải quyết, hoặc chọn một trong
các nơi nếu liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi.
Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài xảy ra ở Việt Nam, Toà án cũng có
thẩm quyền xét xử, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Trang 17
Muốn đưa tranh chấp ra kiện ở Toà án nguyên đơn phải có đơn và tài liệu
chứng minh cho yêu cầu của mình, đồng thời phải tạm ứng án phí. Trước khi xét
xử Toà sẽ tiến hành hoà giải. Nếu hoà giải thành thì thẩm phán lập biên bản hòa
giải thành và coi đây như là quyết định của Toà án, bằng không cũng lập biên bản hoà
giải không thành và tiếp tục xét xử. Việc xét xử gồm xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
(nếu có). Sau phiên sơ thẩm, nếu không nhất trí với quyết định của Toà thì các đương
sự vẫn có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, trong thời gian 10 ngày, lên Toà
án trên một cấp. Bản án phúc thẩm sau khi tuyên thì có hiệu lực pháp luật ngay và
không được quyền kháng cáo.
Trong một số trường hợp đặc biệt sau khi thi hành án, có thể có những phiên
giám đốc thẩm và tái thẩm.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại Toà án thường là giải pháp
cuối cùng của các bên bởi quyết định của Toà án có tính cưỡng chế rất cao vì được
đảm bảo bằng bộ máy thi hành và giám sát thi hành án của Nhà nước. Ngoài ra
trong quá trình thụ lý và xét xử , Toà án có thể đưa ra những "biện pháp khẩn cấp
tạm thời" như tạm giữ tài sản, phong toả tài khoản... để bảo vệ bằng chứng, bảo
đảm việc thi hành án.
Tuy nhiên, tranh chấp kinh tế trên thế giới thường ít được kiện ra Toà án vị
nhiều lý do. Trước hết đó là trong thủ tục Toà án, quyền tự quyết của các đương sự
ở mức thấp nhất so với các phương thức khác, pháp luật can thiệp trong toàn bộ
quá trình giải quyết tranh chấp. Các bên sẽ phải tuân thủ theo những thủ tục cứng
nhắc, bắt buộc, phức tạp và kéo dài, án phí lại thường cao. Thứ hai, một khi đã đưa
tranh chấp ra Toà thì những bí mật kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp
sẽ không được bảo toàn, cho dù doanh nghiệp là bên thắng kiện. Thứ ba, khi đã
kiện tụng trước Toàn thì quan hệ hợp tác giữa hai bên khó có thể duy trì, doanh
nghiệp sẽ mất một đối tác, một bạn hàng nghĩa là mất nguồn lợi do quan hệ kinh tế
đem lại.
d. Giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục trọng tài
Tranh chấp thương mại có thể được giải quyết thông qua trọng tài kinh tế.
Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thoả thuận lập ra
nhằm giải quyết dứt điểm các vụ tranh chấp. Trọng tài kinh tế tồn tại từ rất lâu và
Trang 18
phát triển mạnh mẽ trên thế giới như ngày nay vì tố tụng của nó đã mang lại những
lợi ích thiết thực cho các nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam trọng tài phi
Chính phủ vẫn còn chưa quen thuộc với đa số các nhà doanh nghiệp. Phần tiềp
theo, người viết sẽ tập trung vào phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài,
đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Trang 19
1.2. TRONG TÀI KINH TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG THỦ
TỤC TRONG TÀI.
1.2.1. Trọng tài.
1.2.1.1. Khái niệm.
Theo từ điển luật học của Black's "Trọng tài là cơ quan xét xử do các bên
đương sự thoả thuận thành lập để giải quyết tranh chấp giữa chính các bên đương
sự đó. Thành phần của trong tài do các bên đương sự thoả thuận giải quyết định "
Theo Điều 1, Nghị định 116/CP về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh
tế quy đinh: "Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty và các thành
viên công ty; giữa các thành viên của công ty với nhau; các tranh chấp liên quan
đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây còn có hệ thống trọng
tài kinh tế của Nhà nước, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ trưởng hoặc
Uỷ ban nhân dân cùng cấp và chịu sự chỉ đạo, giám sát của trọng tài kinh tế cấp
trên. Các cơ quan trọng tài này hoạt động như một cơ quan Nhà nước có chức năng
quản lý công tác hợp đồng kinh tế và xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế.
1.2.1.2. Các hình thức trọng tài kinh tế.
Đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp vốn đa dạng và phức tạp, tạo điều
kiện cho các bên tranh chấp thực hiện quyền lựa chọn của mình đối với các hình
thức trọng tài kinh tế trong nền kinh tế thị trường có thể được phần ra theo những
tiêu thức sau:
a. Căn cứ vào quy chế tổ chức gồm trọng tài vụ việc (trọng tài AD -HOC) và
trọng tài thường trực
Trọng tài AD-HOC: Là loại hình trọng tài không có cơ quan thường trực do
các bên tranh chấp lập ra để giải quyết vấn đề mà họ yêu cầu. Trọng tài AD - HOC
không có quy chế hoạt động riêng và chỉ giải quyết vấn đề xong thì giải tán.
Khi áp dụng hình thức trọng tài AD - HOC, các bên phải tự thoả thuận
và lập ra quy tắc tố tụng, lựa chọn trọng tài viên và địa điểm xét xử. Về cơ bản
các bên không bị ràng buộc bởi các quy định pháp lý về tố tụng khi mà họ vẫn
Trang 20
- Xem thêm -