Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp phát triển nhượng quyền thương mại có hiệu quả cho các doanh nghiệp vi...

Tài liệu Giải pháp phát triển nhượng quyền thương mại có hiệu quả cho các doanh nghiệp việt nam

.DOC
85
77
88

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 PHẦN MỞ ĐẦU Thế giới ngày nay đang đứng trước xu hướng mang tính quy luật là các nền kinh tế của các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau, hợp tác chặt che ở phạm vi khu vực cũng như toàn cầu, biểu hiện rõ nét của xu thế này chính là việc ra đời của các liên kết khu vực và quốc tế như ASEAN, EU,WTO...mục tiêu là thúc đẩy tự do hoá thương mại quốc tế, giảm dần và tiến tới xoá bo các hàng rào bảo hộ do các quốc gia áp đặt nhằm cản trở tự do hoá thương mại. Có thể nói điều đó đem lại cho Việt Nam ta những cơ hội và cũng đặt ra nhiều thách thức. Với việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, các ngân hàng nước ngoài se mở rộng mạng lưới hoạt động tại Việt Nam và cũng được thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân hàng. Với các thế mạnh về vốn, kinh nghiệm, kỹ thuật các ngân hàng nước ngoài se là những đối thủ cạnh tranh lớn của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong đó có Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô. Do vậy, để tồn tại, đứng vững và phát triển Ngân hàng phải tìm được các giải pháp tốt nhất để tăng cường năng lực cạnh tranh của đơn vị mình trên cả thị truờng trong và ngoài nước. Trước tình hình đó, Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô đặt ra mục tiêu là phải đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị truờng. Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng, được tiếp xúc trực tiếp và làm việc với các anh chị cán bộ Ngân hàng, nhất là trong thời gian làm việc tại Phòng kinh doanh, được nắm rõ hơn về tình hình hoạt động và nhận thức được rõ hơn các khó khăn, hạn chế trong quá trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của đơn vị. Nhằm vận dụng những kiến thức đã tìm hiểu được và góp một vài ý kiến trong quá trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng, em đã lựa chọn đề tài: ‘’ Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô’’. 1 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại NHTM. Chương II: Tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô. Chương III: Gíải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô. Trong quá trình viết chuyên đề tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn của thầy giáo TS. Phạm Văn Hùng về kiến thức và định hướng, cùng sự giúp đỡ tận tình của các anh, chị trong phòng Kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Phạm Văn Hùng và những người đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập và nghiên cứu. 2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI NHTM I. Một số vấn đề chung về đầu tư 1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển 1.1 Khái niệm đầu tư: Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bo ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Ví dụ chủ đầu tư bo ra tiền, của cải vật chất,...để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn trong tương lai so với chi phí đã bo ra ban đầu như thu về được số tiền lớn hơn số tiền đã bo ra, có thêm nhà máy, trường học, bệnh viện, máy móc thiết bị, sản phẩm được sản xuất ra, ...tăng thêm sức lao động bao gồm cả số lượng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sức khoẻ. Đó là đầu tư. 1.2 Khái niệm về đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chỉ dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất( nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ ( tri thức, kĩ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Một ví dụ về đầu tư phát triển là công ty xe bus Hà Nội vừa đầu tư mua sắm thêm một số lượng khá lớn ô tô bus để mở rộng hoạt động phục vụ giao thông công cộng của công ty. Tài sản cố định của công ty được tăng thêm 3 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 đồng thời cơ sở vật chất kinh tế phục vụ giao thông công cộng của thành phố Hà Nội cũng được tăng thêm. 2. Đặc điểm của đầu tư phát triển 2.1 Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau đây: 2.1.1 Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Qui mô vốn đầu tư lớn đòi hoi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt che tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm. Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. 2.1.2 Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt che tiến độ kế hoạch đầu tư, khắcphục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. 2.1.3 Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đầo thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn. 2.1.4 Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. 4 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 2.1.5 Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do qui mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó, có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt công suất thiết kế… II. Ngân hàng- Ngân hàng thương mại 1. Khái niệm chung về ngân hàng Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những người cần tiền. Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, se huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại, và rất hiếm khi có tình trạng cùng một lúc tất cả chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng, đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Căn cứ vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng thương mại và ngân hàng Nhà nước. 2. Khái niệm về ngân hàng thương mại Theo Luật Các tổ chức tín dụng của các nước CHXHCN Việt Nam: ‘’ Ngân hàng thương mại là trung gian kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Căn cứ trên phương diện những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp thì ‘’Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ với nội dung cơ bản là nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán’’. 5 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội. 3. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại. 3.1 Hoạt động huy động vốn Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi để huy động được tiền của các tổ chức, các doanh nghiệp và dân cư. Ngân hàng có rất nhiều các hình thức huy động khác nhau để có thể tăng lượng tiền gửi của ngân hàng mình như: tiền gửi có kì hạn của các tổ chức xã hội, tiền gủi tiết kiệm của dân cư, nguồn tiền gửi thanh toán. Ngoài ra, ngân hàng có thể phát hành trái phiếu hoặc đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng để đảm bảo khả năng thanh khoản, đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng khi cần thiết. Hoạt động huy động vốn đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng huy động được lượng vốn lớn với chi phí thấp và cho các doanh nghiệp, cá nhân vay lại với lãi suất cao hơn. 3.2 Hoạt động trung gian thanh toán Ngân hàng chính là trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các nước. Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá, dịch vụ thay cho khách hàng. Để việc thanh toán trở nên nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí đối với khách hàng, ngân hàng đưa cho khách hàng nhiều hình thức thanh 6 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần.Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 3.3 Hoạt động cho vay Hoạt động cho vay là hoạt động sinh lời, đem lại thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng, quyết định sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Các NHTM hiện nay đã đưa ra nhiều hình thức cho vay khác nhau để đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng bao gồm: cho vay tiêu dùng, cho vay kinh doanh, cho vay xây dựng nhà cửa, cho vay du học… Nhưng nhìn chung đối tượng mà các NHTM cho vay là các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. 3.4 Hoạt động bảo lãnh Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Thông qua hoạt động bảo lãnh ngân hàng thu được khoản phí bảo lãnh của khách hàng, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân hàng với mức lãi suất rất thấp. Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán… 3.5 Thuê mua Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê (thời hạn khoáng 80-90% đời sống kinh tế của tài sản). Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay. 7 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 3.6 Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… . Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. 3.7 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, chính phủ buộc NHTM mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền mà ngân hàng huy động được. - Bảo quản tài sản hộ - Bảo lãnh - Cho thuê thiết bị trung và dài hạn - Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn như uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư... - Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán - Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Bên cạnh đó các Ngân hàng lớn thường cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ... III. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của NHTM 1. Khái niệm về cạnh tranh, các loại hình cạnh tranh Cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá thể có chung một môi trường sống đối với điều kiện nào đó mà các cá thể cùng quan tâm. Trong hoạt động kinh tế, đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, người tiêu dùng) nhằm giành lấy những vị thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất 8 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 cho mình.Trong nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh là một quy luật khách quan, là một yếu tố trong cơ chế vận động của thị trường. Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng (Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp cạn tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá...) hoặc phi giá cả (quảng cáo...). Dễ thấy, cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá bởi thực chất nó xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất hàng hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất, sự phân công lao động XH tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển... nhằm giảm mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động XH cần thiết để thu được nhiều lãi. Khi còn sản xuất hàng hoá, còn phân công lao động thì còn có cạnh trạnh. Các loại hình cạnh tranh Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phân ra thành nhiều loại. * Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường Cạnh tranh được chia thành 3 loại. 9 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn bán hàng hoá của mình với gái cao nhát, còn người mua muốn muc với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữ hai bên. - Cạnh tranh giứa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào quan hệ cùng cầu trên thị trường. Khi cung nho hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ se tăng lê, người mua phải chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá hoá mà họ cần. - Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào to ra đuối sức, không chịu được sức ép se phải rút lui khoi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn. * Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế Cạnh tranh được phân thành hai loại. - Cạnh tranh trong nội bộ nghành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển. - Cạnh tranh giữa các nghành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giưã các nghành, kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. * Căn cứ vào tính chất cạnh tranh Cạnh tranh được phân thành 3 loại. 10 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Cometition): Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên thị trờng trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức là không khác nhua về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh - Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition) Là hình thức cạnh tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành đựơc ưu thế trong cạnh tranh, người bán phảo sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay. - Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ có nột hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường se do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu. * Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh Cạnh tranh được chia thành. - Cạnh tranh lành mạnh. Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực xã hội và đợc xã hội thừa nhận, nó thướng diễn ra sòng phẳng, công bằng và công khai. - Cạnh tranh không lành mạnh. Là cạnh tranh dựa bào ke hổ của luật pháp, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( như trốn thuế buôn lậu, móc ngoặc, khủng bố vv...) 11 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Vai trò của cạnh tranh Đối với các doanh nghiệp: Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh me nhất thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ, kém phát triển. Đối với người tiêu dùng: Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn...để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Do đó, cạnh tranh giúp họ thoả mãn nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao cùng với mức giá cả ngày càng phù hợp với khả năng của họ. Đối với nền kinh tế quốc dân: Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế. Cạnh tranh tạo điều kiện để xoá bo độc quyền bất hợp lý, xoá bo bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính năng động, sự sáng tạo trong các doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đời sống xã hội, phát triển nền văn minh nhân loại. Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa mạnh me giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều 12 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng thời cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi người và cho cộng đồng, xã hội. 2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của NHTM 2.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Theo WEF (1997) báo cáo về khả năng cạnh tranh toàn cầu thì năng lực cạnh tranh đựơc hiểu là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hoi tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời đạt được được những mục tiêu của doanh nghiệp đặt ra. Năng lực cạnh tranh có thể chia làm 3 cấp: - Năng lực cạnh tranh quốc gia: là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và ngòai nước. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận và thị phần mà doanh nghiệp đó có đựơc. - Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ: được đo bằng thị phần của sản phẩm dịch vụ thể hiện trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của nó. Nó dựa vào chất lượng, tính độc đáo của sản phẩm, dịch vụ, yếu tố công nghệ chứa trong sản phẩm dịch vụ đó. 2.2 Khái niệm cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và những đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. 13 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Cũng giống như mọi doanh nghiệp, NHTM cũng là một doanh nghiệp và là một doanh nghiệp đặc biệt, vì thế NHTM cũng tồn tại vì mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Vì thế, các NHTM cũng tìm đủ mọi biện pháp để cung cấp sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao với nhiều lợi ích cho khách hàng, với mức giá và chi phí cạnh tranh nhất, bên cạnh sự đảm bảo về tính chính xác, độ tin cậy và sự tiện lợi nhất nhằm thu hút khách hàng, mở rộng thị phần để đạt được lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Do vậy, cạnh tranh trong NHTM là cũng là sự tranh đua, giành dựt khách hàng dựa trên tất cả những khả năng mà ngân hàng có được để đáp ứng nhu cầu của khách hàng về việc cung cấp những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, có sự đặc trưng riêng của mình so với các NHTM khác trên thị trường, tạo ra lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận ngân hàng, tạo được uy tín, thương hiệu và vị thế trên thương trường. Với những đặc điểm chuyên biệt của mình, sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cũng có những đặc thù nhất định: - Lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng có liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, các mặt của đời sống kinh tế -xã hội. Do đó: NHTM cần có hệ thống sản phẩm đa dạng, mạng lưới chi nhánh rộng và liên thông với nhau để phục vụ mọi đối tượng khách hàng và ở bất kỳ vị trí địa lý nào. NHTM phải xây dựng được uy tín, tạo được sự tin tưởng đối với khách hàng vì bất kỳ một sự khó khăn nào của NHTM cũng có thể dẫn đến sự suy sụp của nhiều chủ thể có liên quan. - Lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ có liên quan đến tiền tệ. Đây là một lĩnh vực nhạy cảm nên: Năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng là yếu tố quan trọng nhất thể hiện chất lượng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Yêu cầu đối với đội ngũ nhân viên ngân hàng là phải tạo được sự tin tưởng với khách hàng bằng kiến thức, phong cách chuyên nghiệp, sự am hiểu nghiệp vụ, khả năng tư vấn và đôi khi cả yếu tố hình thể. 14 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Dịch vụ của ngân hàng phải nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, bảo mật và đặc biệt quan trọng là có tính an toàn cao đòi hoi ngân hàng phải có cơ sở hạ tầng vững chắc, hệ thống công nghệ hiện đại. Hơn nữa, số lượng thông tin, dữ liệu của khách hàng là cực kỳ lớn nên yêu cầu NHTM phải có hệ thống lưu trữ, quản lý toàn bộ các thông tin này một cách đầy đủ mà vẫn có khả năng truy xuất một cách dễ dàng. Ngòai ra, do dịch vụ tiền tệ ngân hàng có tính nhạy cảm nên để tạo được sự tin tưởng của khách hàng chọn lựa sử dụng dịch vụ của mình, ngân hàng phải xây dựng được uy tín và gia tăng giá trị thương hiệu theo thời gian. - Để thực hiện kinh doanh tiền tệ, NHTM phải đóng vai trò tổ chức Trung gian huy động vốn trong xã hội. Nguồn vốn để kinh doanh của ngân hàng chủ yếu từ vốn huy động được và chỉ một phần nho từ vốn tự có của ngân hàng. Do đó yêu cầu ngân hàng phải có trình độ quản lý chuyên nghiệp, năng lực tài chính vững mạnh cũng như có khả năng kiểm soát và phòng ngừa rủi ro hữu hiệu để đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả. - Chất liệu kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà tiền tệ là một Công cụ được Nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Do đó, chất liệu này được Nhà nước kiểm soát chặt che. Hoạt động kinh doanh của NHTM ngòai tuân thủ các quy định chung của pháp luật còn chịu sự chi phối bởi hệ thống luật pháp riêng cho NHTM và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. 3. Các công cụ cạnh tranh của NHTM 3.1 Cạnh tranh bằng chất lượng Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi cho sự lựa chọn của người tiêu dùng và đặt nhà sản xuất trước các áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt và để chiến thắng trong cạnh tranh thì buộc các nhà sản xuất phải nghiên cứu vận dụng nhiều phương thức và công cụ cạnh tranh 15 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 khác nhau. Một công cụ quan trọng hay được vận dụng hiện nay là nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp. Nhưng đối với một số ngành, thì “chất lượng” lại có tính chất định tính hơn là định lượng và nó được xác định chủ yếu thông qua sự kiểm định đánh giá của chính khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ đó. Vì thế, việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải từng bước thoả mãn cao nhất những yêu cầu, đòi hoi từ phía khách hàng. Đối với các NHTM để cạnh tranh bằng chất lượng phải xây dựng thật tốt chiến lược bằng công nghệ và chiến lược nguồn nhân lực bên cạnh với việc kết hợp chiến lược thị trường, chiến lược kinh doanh phù hợp. Chỉ có như vậy, các sản phẩm dịch vụ mà NHTM cung ứng mới đáp ứng đúng và đầy đủ, kịp thời nhu cầu từ phía khách hàng. 3.2 Cạnh tranh bằng giá cả Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm, giá cả có vai trò quan trọng đối với quyết định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và mức phí áp dụng cho các DV cung ứng cho các KH của mình. Trong việc xác định mức lãi suất và phí, các NHTM luôn phải đối mặt với những mâu thuẫn: Nếu như NHTM quan tâm tới khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần, thì cần phải đưa ra các mức lãi suất và phí ưu đãi cho các KH của mình, tuy nhiên, điều này se làm giảm thu nhập của NHTM, thậm chí có thể khiến NH bị lỗ. Nhưng nếu NHTM chỉ chú trọng đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí sao cho đáp ứng được mục tiêu tăng thu nhập, tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến NH se bị mất dẫn KH, giảm thị phần trong KD, bởi suy cho cùng thì KH luôn quan tâm tới mục tiêu tối thượng trong KD trên thương trường làm tối đa hoá lợi nhuận, mà để đạt được điều đó thì cần tiết giảm các chi phí đầu vào. Điều này có nghĩa là cạnh tranh bằng giá cả đang trở thành một biện pháp nghèo nàn nhất, vì nó làm giảm bớt lợi nhuận tiêu thu được của các NHTM. Xuất phát từ mâu thuẫn trên, việc định giá theo đúng ngang giá 16 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 trị thị trường se cho phép các NHTM giữ được khách hàng, duy trì và phát triển thị trường. Trên thực tế, việc vận dụng nhân tố giá để cạnh tranh chỉ phù hợp khi xâm nhập thị trường mới và để vận dụng tốt công cụ này, các NHTM thường đưa ra mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ nhằm lôi kéo khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Lãi suất và phí là tín hiệu phản ánh tình hình biến động của thị trường, là thông số qua đó các NHTM có thể nắm bắt được khả năng thanh toán của KH cũng như khả năng cạnh tranh của các đối thủ trên thương trường. Do vậy, việc xác định lãi suất trên thị trường là quan trọng, song theo dõi thông tin phản hồi từ khách hàng là rất cần thiết để NHTM đưa ra mức lãi suất và phí có tính cạnh tranh Đôi khi lãi suất và phí mà các NHTM xác định chỉ thu được lợi nhuận nho, hoà vốn thậm chí chịu thua lỗ tạm thời. Khi thực sự chiếm lĩnh thị trường, cũng là lúc NHTM lấy lại những gì đã chi phí trong cạnh tranh 3.3 Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm chính là hình thức cạnh tranh phi giá cả và gây ra sự chú ý và thu hút khách hàng. Sản phẩm DV của NH có một trong những đặc tính là nhanh tàn lụi, không thể lưu trữ, nên việc xây dựng các kênh phân phối (mạng lưới bán hàng) trở thành một vấn đề hết sức trọng yếu trong kinh doanh ở các NH. Kênh phân phối là phương tiện trực tiếp đưa sản phẩm DV của NH đến KH, đồng thời giúp NH nắm bắt chính xác và kịp thời nhu cầu của KH, qua đó, NH chủ động trong việc cải tiến, hoàn thiện sản phẩm DV, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản phẩm DV cho KH. Để mở rộng thị phần bán lẻ, các NH phát triển các hình thức phân phối cùng nhiều tiện ích: * Kênh phân phối truyền thống. Bao gồm: (1) Hệ thống các Chi nhánh; (2) NH Đại lý (Thường được áp dụng đối với các NHTM chưa có chi nhánh). 17 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 * Kênh phân phối hiện đại. Trước năm 1950, các NH thường phát triển mạnh me mạng lưới chi nhánh để mở rộng thị phần và gây sức ép lên các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, từ năm 1980 trở lại đây, các kênh phân phối hiện đại với ưu thế về nhiều mặt đang dần trở thành xu hướng chung. Bao gồm: (1) Các chi nhánh tự động hoá hoàn toàn. Đặc điểm của kênh phân phối này là hoàn toàn do máy móc thực hiện, dưới sự điều khiển của các thiết bị điện tử. Nó có những ưu thế to lớn về chi phí giao dịch và tốc độ thực hiện nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của KH. (2) Chi nhánh ít nhân viên. Chi nhánh ít nhân viên có vị trí quan trọng trong hệ thống NH, nhất là các chi nhánh lưu động. Ưu điểm của chúng là chi phí thấp, hoạt động linh hoạt. (3) NH điện tử (E Banking). Phương thức phân phối này thông qua đường điện thoại hoặc máy vi tính. Nó cung cấp cho KH rất nhiều tiện ích, tiết kiệm chi phí và thời gian, hoạt động được ở mọi lúc, mọi nơi. Các giao dịch được thực hiện thông qua các phương tiện giao dịch điện tử bao gồm: (i) Máy TT tại điểm bán hàng (EFTPOS), cho phép KH thực hiện TT bằng thẻ một cách nhanh gọn ngay tại nơi mua hàng; (ii) Máy rút tiền tự động (ATM), hoạt động 24/24 giờ, cung cấp cho KH các DV như rút tiền mặt, chuyển khoản, vấn tin số dư và nhiều DV khác; (iii) NH qua điện thoại (Tel Banking), thông qua các nhân viên trực máy hoặc hộp thư thoại, KH có thể thực hiện giao dịch dễ dàng với NH. (4) NH qua mạng. Được chia làm 2 loại: (i) NH qua mạng nội bộ (mạng LAN). Hệ thống này hoạt động dựa trên cơ sở KH có tài khoản tại NH, có máy tính cá nhân nối mạng với NH và đăng ký thuê bao với NH để được cấp mã số truy nhập và mật khẩu. KH có thể dùng máy tính của mình truy nhập vào máy chủ của NH để thực hiện các giao dịch, tìm kiếm thông tin; (ii) NH qua mạng internet. Đây là loại hình NH ở cấp cao hơn. KH chỉ cần có 18 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 máy tính cá nhân nối mạng internet là có thể giao dịch được với NH mà không cần phải đến NH. Ngoài chức năng kiểm tra tài khoản, KH có thể sử dụng hàng loạt DV trực tuyến khác như vay, mua hợp đồng bảo hiểm, đầu tư chứng khoán, chuyển ngân, mở L/C, mở thư bảo lãnh,… Ngoài công cụ cạnh tranh bằng chất lượng, bằng giá và tổ chức hợp lý mạng lưới phân phối SPDV, các NHTM còn áp dụng các công cụ phi giá để tăng năng lực cạnh tranh thông qua việc đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ bán hàng (quảng cáo, khuyến mãi... ). Đây là hình thức nhằm gây sự chú ý và thu hút khách hàng. 4. Các nhân tố tác động đến cạnh tranh của các NHTM 4.1 Nhóm nhân tố khách quan. Có 4 lực lượng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một NHTM, đây là những nhân tố khách quan 4.1.1 Tác nhân từ phía NHTM mới tham gia thị trường. Các NHTM mới tham gia thị trường với những lợi thế quan trọng như: Mở ra những tiềm năng mới; Có động cơ và ước vọng giành được thị phần; Đã tham khảo kinh nghiệm từ những NHTM đang hoạt động; Có được những thống kê đầy đủ và dự báo về thị trường… Như vậy, bất kể thực lực của NHTM mới là thế nào, thì các NHTM hiện tại đã thấy một mối đe dọa về khả năng thị phần bị chia sẻ; ngoài ra, các NHTM mới có những kế sách và sức mạnh mà các NHTM hiện tại chưa thể có thông tin và chiến lược ứng phó. 4.1.2 Tác nhân là các đối thủ NHTM hiện tại. Đây là những mối lo thường trực của các NHTM trong KD. Đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược hoạt động KD của NHTM trong tương lai. Ngoài ra, sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh thúc đẩy ngân hàng (NH) phải thường xuyên quan tâm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các DV cung ứng để chiến thắng trong cạnh tranh 19 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 4.1.3 Sức ép từ phía KH. Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành NH là tất cả các cá nhân, tổ chức KD sản xuất hay tiêu dùng, thậm chí là các NH khác cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm (SP) DVNH, vừa là người bán SPDV cho NH. Những người bán SP thông qua các hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho vay đều có mong muốn là nhận được một lãi suất cao hơn; trong khi đó, những người mua SP (vay vốn) lại muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nho hơn thực tế. Như vậy, NH se phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và giữ chân được KH cũng như có được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể. Điều này đặt ra cho NH nhiều khó khăn trong định hướng cũng như phương thức hoạt động trong tương lai. 4.1.4 Sự xuất hiện các DV mới. Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung gian đe dọa lợi thế của các NHTM khi cung cấp các DV tài chính mới cũng như các DV truyền thống vốn vẫn do các NHTM đảm nhiệm. Các trung gian này cung cấp cho KH những SP mang tính khác biệt và tạo cho người mua SP có cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường NH mở rộng hơn. Điều này tất yếu se tác động làm giảm đi tốc độ phát triển của các NHTM, thị phần suy giảm. Ngày nay, người ta cho rằng, khi các NHTM mạnh lên nhờ sự rèn luyện trong cạnh tranh thì hệ thống NHTM se mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau các cú sốc của nền kinh tế. 4.2 Nhóm nhân tố chủ quan. Bên cạnh các nhân tố khách quan tác động đến năng lực cạnh tranh của các NHTM, trên thực tế, nhóm các nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống NHTM cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các NH này. Chúng bao gồm: (i) Năng lực điều hành của ban lãnh đạo NH; (ii) Quy mô vốn và tình hình tài chính của NHTM; (iii) Công nghệ cung ứng DV NH; (iv) Chất lượng nhân viên NH; (v) Cấu trúc tổ chức; (vi) Danh tiếng và uy tín của NHTM. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan