Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giái pháp phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty chứng khoán vndi...

Tài liệu Giái pháp phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty chứng khoán vndirect

.DOC
77
26
88

Mô tả:

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Danh mục các chữ viết tắt _TTCK : thị trường chứng khoán _TTCKVN : thị trường chứng khoán Việt Nam _MGCK : môi giới chứng khoán _MG : môi giới _CTCK : công ty chứng khoán _NĐT : nhà đầu tư _CNTT : công nghệ thông tin _SGD : sở giao dịch _TTGDCK : trung tâm giao dịch chứng khoán Danh mục bảng biểu Sơ đồ 1 : Quy trình thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 1 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Bảng 2.1 : Số lượng tài khoản giao dịch tại VNDS Bảng 2.2 : Giá trị chứng khoán giao dịch tại VNDS Bảng 2.3 : Doanh thu hoạt động MGCK của VNDS các năm Bảng 2.4 : Tỷ trọng doanh thu môi giới so với tổng doanh thu tại VNDS Biểu đồ 1 : Số lượng tài khoản giao dịch tại VNDS Biểu đồ 2 : Thị phần giá trị chứng khoán giao dịch tại VNDS Biểu đồ 3 : Cơ cấu kênh nhận lệnh của VNDS LỜI MỞ ĐẦU Ra đời cách đây hàng trăm năm, đến nay thị trường chứng khoán đã được thiết lập ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường và có thể nói TTCK gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Không có một nước nào có nền kinh tế phát triển mà không có sự hoạt động của thị trường chứng khoán. Qua một quá trình phát triển lâu dài và bền vững, TTCK ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của nó. Một trong những đặc trưng của thị trường chứng khoán là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, các giao dịch trên thị trường Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 2 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp chứng khoán bắt buộc phải được thực hiện qua các công ty môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới chứng khoán. Do đặc thù của loại hình thị trường, hoạt động môi giới chứng khoán có vai trò rất quan trọng. Nghề môi giới chứng khoán vừa là sản phẩm tinh vi, phức tạp của một trình độ phát triển rất cao của thị trường, đồng thời lại là một hoạt động rất gần gũi với người dân bình thường. Đơn giản là vì họ chính là công chúng đầu tư - những đối tượng chủ yếu tiếp nhận các dịch vụ môi giới chứng khoán. Cùng với sự ra đời cách đây chưa lâu của thị trường chứng khoán ở Việt Nam, nghề môi giới chứng khoán cũng đã hình thành dưới dạng sơ khai và đang phát triển. Đây là kết quả của nỗ lực nhằm rút ngắn khoảng thời gian cần thiết để tạo lập kênh huy động vốn trung và dài hạn cho công cuộc tăng trưởng kinh tế của đất nước. Vì lý do đó, việc tìm hiểu những đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán là rất cần thiết, không chỉ cho những ai mong muốn làm giàu chính đáng thông qua việc tham gia cung cấp hay sử dụng loại hình dịch vụ này mà còn cho tất cả những người muốn khám phá một lĩnh vực mới mẻ và thú vị của cuộc sống. Mới ra đời cách đây hơn 2 năm nhưng công ty cổ phần chứng khoán Vndirect đã tạo được chỗ đứng cho riêng mình trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thành lập vào thời điểm thị trường không ổn định , Vndirect cũng gặp rất nhiều khó khăn như bao công ty chứng khoán khác. Một lượng lớn nhà đầu tư rời bỏ thị trường, các đợt IPO liên tục trì hoãn, thị trường thử thách các thành phần tham gia chưa biết đến khi nào kết thúc. Hiện nay các mảng khác gần khư không thu lợi được nhiều, mảng môi giới thì chỉ như “miếng bánh nhỏ chia cho nhiều người ăn”, cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán như là vấn đề sống còn. Vì vậy, vấn đề bức xúc hiện nay của các công ty chứng khoán nói riêng và công ty chứng khoán Vndirect nói riêng là làm thế nào để có thể tìm ra giải pháp phát triển hoạt động môi giới cho phù hợp với tình hình công ty nhằm cạnh tranh với các công ty khác. Chính vì lý do đó, Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 3 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp trong quá trình thực tập tại đây, tôi đã chọn đề tài “Giái pháp phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty chứng khoán Vndirect” làm đối tượng nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Vì khả năng và thời gian có hạn nên bài chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn bè để bài viết được hoàn thiện và thiết thực hơn. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo cùng ban lãnh đạo công ty và các anh chị trong phòng nghiệp vụ khách hàng công ty chứng khoán Vndirect đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài chuyên đề này. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN (MGCK) 1.1 Hoạt động môi giới chứng khoán 1.1.1. Tính tất yếu khách quan hình thành nghề môi giới chứng khoán Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 4 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, trong quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra trên quy mô ngày càng lớn, với chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, và phương thức trao đổi hàng hoá theo đó cũng ngày càng đa dạng. Đỉnh cao của nền kinh tế thị trường là sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Trên thị trường này, người ta mua bán những tài sản tài chính- một loại hàng hoá đặc biệt. Được gọi là những tài sản tài chính vì những hàng hoá này vừa đem lại khoản thu nhập thường xuyên cho người sở hữu lại vừa có thể tự tích luỹ giá trị, khi cần người sở hữu có thể bán tài sản này đi để thu lời. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của cả bên góp vốn và cung cấp vốn, thị trường chứng khoán đã sáng tạo ra những hàng hoá hết sức đa dạng, được ứng dụng vào nhiều mục tiêu và chiến lược đầu tư (và cả đầu cơ). Thị trường càng phát triển ở trình độ cao, sản phẩm và dịch vụ càng dồi dào về số lượng, đa dạng, phong phú về chủng loại, tinh tế và nhạy cảm trong vận hành chức năng. Theo đó, đòi hỏi việc cung cấp cho người đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư, những lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược, và giúp cho người đầu tư thực hiện các giao dịch theo cách có lợi nhất, đòi hỏi phải có hoạt động môi giới chứng khoán phát triển rmang tính chuyên nghiệp cao, hay nói cách khác trở thành một nghề. Với tư cách là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, một trong những đặc trưng của thị trường chứng khoán là nó hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, các giao dịch trên thị trường bắt buộc phải được thực hiện qua các công ty môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới chứng khoán. Thuật ngữ “nghề môi giới chứng khoán” ở đây được hiểu như là hoạt động của hai yếu tố này, trong sự tương quan chặt chẽ với nhau và với một đối tác chung là khách hàng - người đầu tư, để tác động tới sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán. Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 5 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trên thực tế, không chỉ trên thị trường chứng khoán mới có nghề môi giới. Với tư cách là khâu trung gian giúp thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá bằng cách rút ngắn khoảng thời gian tìm kiếm (và do đó giảm được chi phí) để gặp gỡ giữa người mua và người bán, nghề môi giới đã tồn tại từ lâu trong nền kinh tế hàng hoá, nhất là đối với những hàng hoá mà người mua và người bán không dễ gặp nhau. Song trên thị trường chứng khoán, nghề môi giới chứng khoán, không chỉ đơn thuần là khâu đưa sản phẩm, dịch vụ từ người bán đến người mua. Những đặc trưng riêng của một thị trường cao cấp, những sản phẩm và dịch vụ phức tạp và đa dạng ở đây đòi hỏi ở nghề môi giới chứng khoán, và cụ thể hơn là những công ty chứng khoán và những người môi giới chứng khoán, những đặc điểm về tổ chức và vận hành, những phẩm chất, kỹ năng chứng khoán được coi là sản phẩm của thị trường cao cấp trước hết là vì sản phẩm tài chính là những sản phẩm đặc biệt. Chúng không cho phép người mua trực tiếp thẩm định chất lượng bằng các giác quan của mình như hàng hoá trên tất cả những thị trường khác. Đầu tư vào chứng khoán có nghĩa là đầu tư vào giấy tờ có giá mà thu nhập do chúng mang lại được quyết định trước hết bởi khả năng thu lợi nhuận của công ty. Khả năng này, đến lượt nó, lại bị quy định bởi vô số yếu tố, những xu hướng của nền kinh tế thế giới và trong nước, đến những đặc điểm riêng của ngành và đến những điều kiện cụ thể của công ty. Hơn nữa, nguồn thu đó còn phụ thuộc đáng kể vào sự đánh giá của cộng đồng tài chính đối với công ty đã phát hành sản phẩm tài chính đó. Sự đánh giá này có thể phù hợp với thực tế hoạt động của công ty, có thể tốt hơn hoặc không tốt bằng. Trong từng trường hợp, rủi ro hàm chứa trong mỗi tài sản là khác nhau. Như vậy, để đánh giá được chất lượng sản phẩm tài chính, tức là khả năng đem lại nguồn lợi tài chính ổn định và gia tăng, cần có một hệ thống thu thập và xử lý thông tin cũng như những kỹ năng cần thiết để làm việc đó, điều mà các nhà đầu tư cá nhân không thể có được. Họ phải đến với các chuyên gia nhà nghề, những người được trang Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 6 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp bị đủ công cụ và kỹ năng để phân tích, đánh giá các sản phẩm tài chính, từ đó cung cấp những ý kiến tư vấn xác đáng cho khách hàng. Nếu ý kiến tư vấn của các nhà phân tích hay các nhà môi giới là rất khác nhau thì cộng đồng các nhà đầu tư cũng hết sức đa dạng. Có bao nhiêu nhà đầu tư thì cũng có bao nhiêu cách tổ hợp khác nhau giữa vô vàn mức độ của các yếu tố như năng lực tài chính, mục tiêu tài chính, khoảng thời gian đầu tư và mức độ chấp nhận rủi ro. Chẳng hạn, người giàu có mức độ chấp nhận rủi ro cao hơn nhiều so với người nghèo, mặt khác, giữa những người giàu và có thu nhập cao và ổn định với người người giàu nhờ một cơ hội duy nhất thì ngưỡng rủi ro cũng khác nhau. Nhưng tổ hợp rất khác biệt giữa các yếu tố như thế nào cho thấy người đầu tư có nhu cầu về nguồn tư vấn chuyên nghiệp, đáng tin cậy từ các nhà môi giới. Nói cách khác, nguyên tắc trung gian cho phép bảo vệ được người đầu tư, giúp họ lựa chọn các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng được những thông tin cá nhân đa dạng. Lý do thứ hai giải thích vì sao nghề môi giới chứng khoán được coi là sản phẩm của thị trường cao cấp xuất phát từ chỗ thị trường chứng khoán là sân chơi của tất cả các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Nó chỉ duy trì được chức năng huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển chừng nào còn giữ được lòng tin của các nhà đầu tư về một thị trường liên tục, công bằng, công khai, giá cả được hình thành bởi sự tương tác giữa các lực lượng cung cầu. Muốn vậy, thị trường phải được tổ chức một cách khoa học, trật tự. Một trong những biện pháp để duy trì tính trật tự, khoa học đó là việc tập trung các lệnh giao dịch vào các đầu mối lớn là những công ty môi giới, từ đó các cơ quan quản lý sẽ thuận lợi hơn trong việc kiểm soát, quản lý các đầu mối và xử lý khi xảy ra những vi phạm. Nguyên tắc trung gian nhằm nâng cao năng lực quản lý để duy trì sự hoạt động lành mạnh của một thị trường tự do nhất trong tất cả các thị trường. Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 7 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1.1.2. Khái niệm MGCK Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.Theo đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo. Khi thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán nhà môi giới chứng khoán chỉ đơn thuần làm trung gian để hưởng hoa hồng còn khách hàng là người yêu cầu thực hiện và hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. 1.1.3. Nội dung hoạt động môi giới chứng khoán. Thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, các công ty chứng khoán không chỉ đảm nhận vai trò là trung gian giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng mà còn là nhà tư vấn, hướng dẫn đầu tư, chăm sóc khách hàng bằng các dịch vụ tiện ích và đa dạng. Nội dung cụ thể của hoạt động môi giới chứng khoán có thể được mô tả như sau: 1.1.3.1. Tiếp cận và thu hút khách hàng Hoạt động môi giới chứng khoán bắt đầu từ việc nhân viên môi giới tìm kiếm và tiếp xúc với các khách hàng tiềm năng, sau đó bằng kỹ năng của mình sẽ thu hút và thuyết phục họ trở thành khách hàng của công ty. Trong bối cảnh số lượng các CTCK ngày càng lớn, tính cạnh tranh ngày càng cao thì Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 8 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp việc các nhân viên môi giới phải chủ động tìm kiếm khách hàng, phát triển cơ sở khách hàng cho công ty là nội dung có ý nghĩa quan trọng. Để làm được điều đó, các nhân viên MG hay sử dụng các hình thức như tổ chức các buổi thuyết trình hay hội thảo giới thiệu về công ty và các sản phẩm của công ty, gửi thư trực tiếp, gọi điện làm quen… Để quá trình tìm kiếm khách hàng đạt được hiệu quả cao, nhân viên môi giới phải tiếp cận khách hàng bằng chính sự hiểu biết, sự trung thực, tận tụy và có trách nhiệm. 1.1.3.2. Chăm sóc khách hàng. Không chỉ dừng lại ở việc thu hút khách hàng, các CTCK còn phải quan tâm tới việc chăm sóc khách hàng để duy trì mối quan hệ ngày càng mật thiết, giữ các khách hàng ở lại mà không chuyển sang các CTCK khác. Việc đầu tiên của hoạt động chăm sóc khách hàng phải kể đến đó là hoạt động cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng. Có thể nói TTCK là thị trường của thông tin, kinh doanh chứng khoán là kinh doanh thông tin. Ai có thông tin chính xác, cập nhật và khả năng phân tích tốt thì hoạt động đầu tư sẽ có hiệu quả và ngược lại, nếu nhà đầu tư thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch thì dễ bị tổn thất khi đầu tư. Hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán dù có minh bạch đến đâu thì nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân cũng khó nắm bắt được một cách đầy đủ, kịp thời. Hơn thế nữa, khả năng thẩm định và phân tích thông tin thì không phải nhà đầu tư nào cũng có. Nhờ lợi thế chuyên môn hóa, các công ty chứng khoán sở hữu nguồn thông tin phong phú và đáng tin cậy, đã được phân tích nhận định bởi các chuyên gia. Do đó, họ có thể thực hiện việc tư vấn cho nhà đầu tư, giúp việc ra quyết định trở nên đúng đắn hơn. Công ty không chỉ cung cấp thông tin, tư vấn cho khách hàng mà họ còn giúp khách hàng trong việc quản lý tài khoản, thực hiện các quyền và lợi ích liên quan đến chứng khoán. Cụ thể, công ty cũng sẽ đảm nhận các công việc liên quan tới việc nhận gửi - rút chứng khoán (tiền), thực hiện các quyền Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 9 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp liên quan tới cổ phiếu như: nhận cổ tức, quyền bỏ phiếu, mua chứng khoán mới phát hành… Ngoài ra CTCK còn cung cấp các dịch vụ cho khách hàng như: cầm cố chứng khoán, repo, ứng trước tiền bán, thanh toán nhanh nếu có yêu cầu. Trong một số trường hợp, CTCK còn đại diện cho khách hàng dự đại hội cổ đông, thực hiện các quyền theo sự ủy thác của khách hàng đối với các công ty niêm yết. Nhân viên môi giới còn thường xuyên giữ liên lạc với khách hàng, tiếp tục tìm hiểu các thông tin liên quan tới khách hàng. Khi đã trở nên thân thiết và tin cậy, nhân viên môi giới còn là người chia sẻ những lo âu, căng thẳng của khách hàng khi đầu tư, đưa ra những lời khuyên kịp thời khắc phục trạng thái sợ hãi hoặc tham lam thường gặp trong kinh doanh chứng khoán. Từ đó giúp khách hàng đưa ra những quyết định kịp thời, tỉnh táo và đúng đắn. 1.1.3.3. Thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng. Sau khi có quyết định đầu tư, khách hàng sẽ tiến hành đặt lệnh, lệnh đó sẽ được chuyển đến bộ phận môi giới giao dịch. Nhân viên môi giới có trách nhiệm giải thích và hướng dẫn cho khách hàng về các nguyên tắc, thủ tục khi đặt lệnh để tránh những sai sót dẫn đến thiệt hại không đáng có cho khách hàng. Khi nhận được lệnh của khách hàng, nhân viên môi giới sẽ kiểm tra tính chính xác của các thông tin trên lệnh cũng như tính hợp lệ của lệnh như: giá cả, số lượng, tên chứng khoán, tên khách hàng, mã số tài khoản, tiền và chứng khoán trên tài khoản của khách hàng… Sau đó nhân viên môi giới sẽ thực hiện nhập lệnh và truyền lệnh để giúp khách hàng thực hiện được giao dịch của mình. Cuối cùng nhân viên môi giới sẽ thông báo kết quả giao dịch cho khách hàng. Quá trình thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng được cụ thể hóa bởi quy trình sau: (2) Sơ đồ 1: Quy trình thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng (1) Khách hàng Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A (4) (5) Công ty chứng khoán 10 (3) - Sở giao dịch CK - OTC - Thị trường thứ 3 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Bước 1: Mở tài khoản cho khách hàng. Muốn giao dịch mua bán chứng khoán khách hàng phải mở tài khoản tại công ty chứng khoán. Mỗi khách hàng chỉ được phép mở một tài khoản tại một CTCK mà thôi. Tài khoản có chức năng như một bộ hồ sơ, trong đó công ty chứng khoán lưu lại các thông tin cần thiết về khách hàng. Các giao dịch mua bán của khách hàng cũng được thể hiện trên tài khoản. Mỗi một khách hàng có một mã số tài khoản riêng. Bước 2: Nhận lệnh. Nhân viên môi giới có nhiệm vụ nhận lệnh từ khách hàng. Nhờ công nghệ hiện đại, ngày nay các CTCK ngoài nhận lệnh trực tiếp bằng phiếu lệnh còn có thể nhận lệnh qua điện thoại, Internet, Fax… Khi nhận lệnh từ khách hàng nhân viên môi giới phải kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của lệnh như: số tài khoản, tên khách hàng, giá, số lượng chứng khoán… Đối với lệnh bán phải kiểm tra xem trong tài khoản có đủ chứng khoán ký quỹ không, đối với lệnh mua kiểm tra xem có đủ tiền ký quỹ không. Bước 3: CTCT chuyển lệnh đến TTGDCK để thực hiện. Lệnh của khách hàng sau khi đã kiểm tra tính hợp lệ sẽ được chuyển tới đại diện của công ty tại Sở giao dịch chứng khoán. Các nhân viên này có trách nhiệm nhập lệnh vào phiếu đăng ký theo mẫu của SGD và chuyển tới các nhà môi giới lập giá của sở hoặc nhập lệnh vào bằng máy tính của mình, từ đó truyền lệnh lên trung tâm khớp lệnh của sở. Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 11 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Bước 4: Xác nhận giao dịch khách hàng. Trung tâm khớp lệnh (gồm các nhà môi giới lập giá) tổng hợp các lệnh do các nhà môi giới gửi lên (bằng phiếu đăng ký giao dịch hay qua mạng vi tính) và tại từng thời điểm ấn định sẽ thông báo dừng tiếp nhận và thực hiện khớp lệnh. Việc khớp lệnh được thực hiện theo nguyên tắc đấu giá và được thực hiện theo từng chu kỳ do SGD quy định. Sau khi giao dịch được thực hiện, đại diện của công ty tại sở sẽ nhận được báo cáo về giao dịch có thực hiện được hay không. Khi đó họ phải so sánh giữa báo cáo giao dịch và lệnh của khách hàng để đảm bảo mọi việc được tiến hành một cách chính xác. Nếu xảy ra sai sót họ phải báo cáo ngay cho cấp quản lý để có phương án xử lý kịp thời. Bước 5: Thanh toán và giao hàng. Ngày thanh toán được thực hiện theo T+x, nghĩa là sau x ngày kể từ ngày giao dịch mới tiến hành thanh toán. Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao tiền qua ngân hàng chỉ định thanh toán và người bán sẽ chuyển giao chứng khoán qua hình thức chuyển khoản tại trung tâm lưu ký. Công ty sẽ thanh toán tiền và chứng khoán cho khách hàng thông qua tài khoản của họ. 1.1.4 Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động MGCK Hoạt động của các nhà môi giới chứng khoán đóng góp một phần quan trọng vào tính “sôi động của thị trường”. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể trở thành nhà môi giới chứng khoán và có những hoạt động môi giới chứng khoán thành công đem lại những khoản lợi nhuận lớn. Ngoài những kiến thức chuyên môn, một nhà môi giới chứng khoán chỉ có thể thực hiện thành công hoạt động môi giới của mình nếu biết và hình dung trước những rủi ro sẽ gặp phải cũng như có những biện pháp để quản lý rủi ro. Trong quá trình thực hiện hoạt động môi giới mua bán chứng khoán, công ty chứng khoán sẽ phải đối mặt cũng như phải tìm cách phòng tránh nhiều loại rủi ro. Để có thể hình dung rõ hơn về những khó khăn trong quá Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 12 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp trình kinh doanh môi giới, xin nói qua một số loại rủi ro và phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới chứng khoán. 1.1.4.1 Những loại rủi ro trong hoạt động môi giới chứng khoán * Rủi ro về luật pháp Một nhà đầu tư của Mỹ lý kết hợp đồng mua bán cổ phiếu với một Công ty chứng khoán AZC. Trong Hợp đồng có không ghi thời hạn thanh toán. Hợp đồng đã ký kết giữa các bên, công ty chứng khoán AZC đã giao cổ phiếu cho nhà đầu tư, nhưng nhà đầu tư kia đã không trả tiền, và viện cớ là hợp đồng chưa có quy định thời hạn thanh toán do đó chưa có cơ sở để nhà đầu tư trả tiền ngay. Công việc môi giới có liên quan đến khách hàng và các tổ chức liên quan như công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, ngân hàng chỉ định thanh toán... do vậy đòi hỏi sự chính xác trong việc tuân thủ luật pháp về chứng khoán, thị trường chứng khoán và các luật lệ liên quan khác. Những rủi ro này có thể phát sinh từ những văn bản như: Hợp đồng mua bán chứng khoán; Hồ sơ thanh toán tiền mua bán chứng khoán; Hồ sơ chuyển giao chứng khoán; Các giấy tờ cá nhân của khách hàng... * Rủi ro về đối tác kinh doanh Hai công ty chứng khoán của Anh là Kihas và Seca Lamas có hoạt động kinh doanh với nhau. Nhưng trong quá trình hoạt động kinh doanh khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên thì sẽ rất khó giải quyết bởi cả hai công ty không là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán, cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định của Sở giao dịch chứng khoán sẽ không được áp dụng. Do đó, hai bên sẽ phải nhờ đến toà án với những thủ tục rất rắc rối và phức tạp. Rủi ro về thanh toán giữa 2 nhà môi giới với nhau sẽ được giảm thiểu nếu họ đều là thành viên của Sở Giao dịch chứng khoán. Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 13 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Rủi ro về thanh toán giữa nhà môi giới và khách hàng cũng gần như bị loại trừ do quy định khách hàng khi muốn đặt lệnh mua bán phải ký quỹ trước 100% tiền hoặc chứng khoán. * Rủi ro thị trường Rủi ro về thị trường bao gồm rủi ro về giá cả lên xuống và rủi ro về tính thanh khoản trong giao dịch của chứng khoán. Rủi ro về giá cả lên xuống có thể phát sinh khi khách hàng tiến hành mua chứng khoán và giá chứng khoán đó bị giảm xuống. Đối với khách hàng cá nhân, do đã có quy định ký quỹ nên không ảnh hưởng tới công ty chứng khoán, nhưng nếu họ thua lỗ nhiều, uy tín công ty bị ảnh hưởng. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi khách hàng thế chấp chứng khoán để mua chứng khoán khác. Khách hàng có thể sẽ không bán được chứng khoán thế chấp trong thời gian quy định hoặc sẽ không chịu thanh toán tiền cho số chứng khoán đã mua. * Rủi ro về hoạt động Rủi ro về hoạt động là những sai sót trong quá trình tác nghiệp hàng ngày của công ty liên quan đến công việt mua bán như thực hiện lệnh thanh toán, ký quỹ. 1.1.4.2 Quản lý rủi ro Những nhà môi giới chứng khoán giỏi luôn lường trước những rủi ro để từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu hạn chế rủi ro. Chỉ có như vậy họ mới tránh phải mất những khoản tiền không đáng mất. * Quản lý rủi ro về luật pháp + Kiểm tra lại tính đúng đắn, hoàn chỉnh của các văn bản trước khi đem ra áp dụng. Việc này tốt nhất là thông qua một tổ chức tư vấn pháp luật có uy tín. + Các giấy tờ cá nhân của khách hàng phải được khách hàng xác nhận tính chính xác và đầy đủ. Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 14 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp +Hồ sơ phải chính xác và cập nhật thường xuyên. * Quản lý rủi ro đối tác kinh doanh + Tiến hành phân cấp xét duyệt hạn ngạch giao dịch một cách cụ thể. + Xây dựng quy trình rõ ràng, chặt chẽ cho các bước mở tài khoản giao dịch như kiểm tra hồ sơ, xin ý kiến cấp có trách nhiệm, đánh giá tình hình tài chính của khách hàng. + Theo dõi giám sát việc sử dụng hạn ngạch giao dịch đã được duyệt. + Hàng năm đánh giá và quy định lại hạn ngạch giao dịch. * Quản lý rủi ro thị trường + Có các quy định phù hợp về tổng số hạn ngạch giao dịch, hạn chế mức thua lỗ cụ thể. + Đặt mức an toàn cho mỗi loại cổ phiếu. + Quy định về phương pháp giám sát, đặt ra các quy định về ngưỡng rủi ro phải thông báo hoặc qua xét duyệt. * Quản lý rủi ro về hoạt động + Quy định về hệ thống tác nghiệp rõ ràng, trong đó nêu rõ những nghiệp vụ nào phải tuyệt đối tuân thủ theo các bước đã đề ra. + Thiết lập quy trình luân chuyển, giải quyết hồ sơ, tài liệu chứng từ một cách chặt chẽ, nhất là trong khâu thanh toán tiền và nhận chuyển giao chứng khoán. + Có hệ thống kiểm tra lại tính chính xác của việc truyền lệnh mua bán và hệ thống phân cấp thẩm quyền rõ ràng, hợp lý. + Có hệ thống báo cáo tốt. 1.1.5. Các loại môi giới chứng khoán Thị trường chứng khoán phát triển kéo theo đó là sự ra đời hàng loạt các công ty môi giới chứng khoán cùng với nhiều sản phẩm dịch vụ đa dạng. Có thể phân loại hoạt động môi giới chứng khoán thành các dạng như sau: Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 15 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1.1.5.1. Môi giới chứng khoán toàn phần, môi giới trọn gói ( Full – Service Broker). Môi giới toàn phần hay môi giới trọn gói là loại hình môi giới mà ngoài việc xử lý các lệnh mua, bán chứng khoán cho khách hàng, họ còn cung cấp hàng loạt các dịch vụ khác như: nghiên cứu đầu tư, xây dựng mục tiêu đầu tư trong ngắn hạn và dài hạn, quản lý danh mục đầu tư … với mục đích “bảo vệ” và tạo giá trị tăng thêm cho khoản tiền của khách hàng. Chính vì tính đa dạng của nó, nên loại hình môi giới này có phí dịch vụ khá cao. Khách hàng sử dụng loại hình môi giới này thường là những cá nhân, tổ chức có tiềm lực tài chính tương đối lớn, họ muốn tham gia thị trường để đầu tư chứ không phải đầu cơ, nhưng lại hạn chế về kiến thức chuyên ngành. Do vậy, họ tìm đến với môi giới toàn phần để nhờ cố vấn. 1.1.5.2. Môi giới chứng khoán bán phần – môi giới chiết khấu (Discount Broker) Môi giới bán phần hay môi giới chiết khấu là loại môi giới chỉ thực hiện các giao dịch mua bán cho khách hàng và thêm một số loại dịch vụ gia tăng hạn chế khác. Đối tượng khách hàng chủ yếu sử dụng loại hình môi giới này là những nhà đầu tư có kiến thức khá vững và muốn tự mình quyết định đầu tư và họ chỉ cần nhà môi giới với đúng nghĩa đen của từ “môi giới”. Họ sẽ không nhận được lời tư vấn từ nhà môi giới mà phải “tự lo” một mình tự chịu trách nhiệm dù kết quả đầu tư có ra sao. Chính vì vậy, trách nhiệm của môi giới bán phần sẽ không cao như môi giới toàn phần cho nên khoản tiền hoa hồng họ nhận được cũng thấp hơn nhiều so với môi giới toàn phần. Một đặc điểm nữa của môi giới bán phần đó là công cụ mà họ sử dụng chủ yếu đó là Internet. Họ tìm kiếm khách hàng quan hệ với khách hàng hay thực hiện giao dịch cho khách hàng, cũng đều thông qua Internet. Chính vì Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 16 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp vậy, sự phát triển của loại hình môi giới bán phần gắn liền với sự phát triển của Internet. 1.1.5.3. Môi giới độc lập hay “hai đô la” Môi giới hai đô la (two - dollar broker) hay còn gọi là các nhà môi giới độc lập (independent broker) chính là các nhà môi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng (thù lao) theo dịch vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại sở giao dịch (sàn giao dịch), giống như các công ty chứng khoán thành viên. Họ chuyển quyền thực thi các lệnh cho các công ty thành viên khác của sở giao dịch. Sở dĩ có điều này là vì tại các sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của một công ty chứng khoán gửi tới lắm khi quá nhiều, mà các nhân viên môi giới cơ hữu của các công ty này (các commission brokers) không thể làm xuể, hoặc vì lý do nào đó họ vắng mặt. Lúc đó các công ty chứng khoán sẽ “hợp đồng” với các nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình, và trả cho loại môi giới này một khoản tiền nhất định. Khởi thuỷ, các nhà môi giới độc lập được trả cứ hai đô la cho một lô tròn chứng khoản (100 cổ phần), nên người ta gọi quen thành “môi giới hai đô la”. Môi giới độc lập cũng được gọi chung là môi giới trên sàn (floor broker). Họ đóng vai trò không khác gì chức năng của một môi giới thừa hành, ngoại trừ tư cách độc lập của họ, có nghĩa họ không phải là nhân viên đại diện cho bất kỳ một công ty chứng khoán nào cả. 1.1.6. Chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán. Với tư cách là hoạt động nghiệp vụ trong sự tương tác giữa công ty môi giới - nơi cung cấp phương tiện vật chất tổ chức và pháp lý, và nhân viên bán hàng - người trực tiếp tiếp thị và giao dịch với khách hàng, nghề môi giới chứng khoán có hai chức năng chính: 1.1.6.1. Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng: Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 17 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Ngày nay, kinh tế ngày càng phát triển cùng với sự hiện đại của CNTT, vô vàn thông tin kinh tế - xã hội trong nước và nước ngoài được cập nhật liên tục thêm vào đó không phải NĐT nào cũng có sẵn thời gian, kiến thức để có thể tiếp nhận và sàng lọc tất cả các thông tin cùng một lúc. Chính vì thế, các NĐT lại càng cần tới vai trò của các nhà môi giới trên thị trường chứng khoán. Công ty môi giới chứng khoán thông qua các nhân viên bán hàng cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và những khuyến nghị đầu tư. Hàng tuần, bộ phận nghiên cứu của các công ty môi giới lớn cung cấp cho các nhà môi giới một khối lượng thông tin nghiên cứu khổng lồ là kết quả tổng hợp và phân tích của công ty cùng những thông tin đặt mua của các hãng khác nữa, kèm theo đó là những khuyến nghị cụ thể về loại chứng khoán cần mua, bán. Nhân viên bán hàng (người môi giới) sẽ sử dụng những thông tin này để cung cấp cho khách hàng của mình theo những yêu cầu cụ thể. Không chỉ đưa ra lời khuyên về cách thức phân bổ tài sản như thế nào để đáp ứng mục tiêu tài chính của khách hàng. Tuỳ từng lúc, người môi giới còn có thể trở thành người bạn tin cẩn, thậm chí là nhà trị liệu hay nhà tâm lý học, lắng nghe tất cả những câu hỏi liên quan tới tình trạng tài chính của khách hàng và, trong chừng mực có thể, đưa ra những giải pháp thích đáng. Đối với khách hàng, ngoài nhu cầu được tư vấn về tài chính, những nhu cầu tâm lý có liên quan tới các vấn đề tài chính chắc chắn cũng quan trọng không kém, đôi khi họ gọi điện cho người môi giới của mình không chỉ để tìm kiếm một giải pháp mà chỉ để chia sẻ và giải toả những căng thẳng tâm lý. Tìm được người môi giới giỏi nghề và tâm huyết cũng quan trọng và cần thiết như tìm một bác sĩ riêng, một luật sư hay một kế toán riêng. 1.1.6.2. Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ. Người môi giới nhận các đơn đặt hàng từ khách hàng và thực hiện giao dịch cho họ. Quá trình này bao gồm một loạt công việc: hướng dẫn khách Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 18 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp hàng mở tài khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng. Không chỉ có vậy, sau khi giao dịch đã được thực hiện, người môi giới còn phải tiếp tục chăm sóc tài khoản của khách hàng, tiếp tục đưa ra những khuyến cáo và cung cấp thông tin, theo dõi để nắm bắt những thay đổi trong đời sống, công việc.. mà có thể dẫn tới thay đổi trong tình trạng tài chính và thái độ chấp nhận rủi ro của khách hàng, từ đó đề xuất những giải pháp hay chiến lược mới thích hợp. Công ty môi giới là nơi bảo đảm những điều kiện vật chất - bao gồm địa điểm, hệ thống máy móc, thiết bị nối mạng với sở giao dịch - nhân lực (đội ngũ nhân viên tác nghiệp) và pháp lý để cho quá trình này được thực hiện nhanh chóng, chính xác và hiệu quả, đồng thời khi xảy ra tranh chấp thì có thể xử lý được một cách thoả đáng. Để làm được chức năng này, công ty được tổ chức theo những phòng ban chức năng phù hợp với những quy trình hoạt động chặt chẽ, khoa học. Thêm vào đó, ngày nay khi TTCK đã khá phát triển, các công ty chứng khoán còn cung cấp rất nhiều các sản phẩm, dịch vụ tài chính giúp cho việc giao dịch của nhà đầu tư trở nên dễ dàng và linh hoạt hơn như: cho vay, cầm cố chứng khoán - bào chứng, ký quỹ, cho vay ứng trước tiền bán…. 1.1.7. Vai trò của nghề môi giới chứng khoán Nghề môi giới chứng khoán không chỉ là kết quả của quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường mà đồng thời nó còn có vai trò ngược lại là thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh. Vai trò này của nghề môi giới chứng khoán được nhìn nhận trên những khía cạnh sau: 1.1.7.1. Giảm chi phí giao dịch. Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 19 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Cũng như trên tất các các thị trường khác, để tiến hành giao dịch thì người bán và người mua phải có cơ hội để gặp được nhau, thẩm định chất lượng hàng hoá và thoả thuận giá cả. Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán với tư cách là một thị trường của những sản phẩm và dịch vụ bậc cao, để thẩm định chất lượng và giá cả của hàng hoá, người ta cần một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo kỹ năng phân tích và tiến hành quy trình giao dịch trên một hệ thống thị trường đấu giá, tập trung. Những chi phí đó chỉ có các công ty chứng khoán hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải do được hưởng lợi ích kinh tế nhờ quy mô lớn. Mặt khác, sự hiện diện của một tổ chức trung gian và chuyên nghiệp như thế làm cầu nối cho các bên mua, bán gặp nhau sẽ làm giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp đồng. Như thế, vai trò của nghề môi giới chứng khoán là tiết kiệm được chi phí giao dịch cụ thể cũng như trên tổng thể thị trường, nhờ đó giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường. 1.1.7.2. Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường. Công ty môi giới chứng khoán và các nhân viên bán hàng của nó, khi thực hiện vai trò trung gian giữa người bán (nhà phát hành) và người mua (nhà đầu tư) có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Có thể nói hoạt động môi giới chính là một trong những nguồn cung cấp những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình đó, xét trong dài hạn, là cải thiện được tính đa dạng của sản phẩm và dịch vụ, nhờ đó đa dạng hoá được cơ cấu khách hàng, thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư tăng trưởng. Có thể nhận thấy kết quả này không chỉ trong những hàng hoá đơn lẻ như cổ phiếu, trái phiếu, hay bất kỳ một công cụ tài chính nào khác, mà còn trong cả những ý tưởng về danh mục đầu tư, về sự phối hợp các sản phẩm Nguyễn Đăng Đạt - TC 47A 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan