CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ NGOÀI
TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một sản phẩm độc đáo và có tầm quan trọng
đặc biệt của nền kinh tế thị trường.
Để đưa ra định nghĩa về NHTM, người ta thường dựa vào mục đích và tính chất
hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Bên cạnh đó, có những định nghĩa lại được
phát biểu căn cứ vào sự kết hợp của mục đích và tính chất với đối tượng hoạt động.
Trong đạo luật ngân hàng của Pháp (1941), định nghĩa về NHTM được trình bày
như sau: "NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức tiền gửi hay hình thức khác và họ dùng vào nghiệp vụ chiết
khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính." [1, tr.12]
Luật ngân hàng của Ấn Độ năm 1950, bổ sung vào năm 1959, đã nêu: "NHTM là
cơ sở xác nhận các khoản tiền gửi để cho vay, tài trợ và đầu tư." [1, tr.12]
Luật Ngân hàng của Đan Mạch (1930) định nghĩa: "Những nhà băng thiết yếu
gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và
các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ
chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm” [6, tr.15].
Nhà kinh tế học David Begg đưa ra định nghĩa: "Ngân hàng thương mại là trung
gian tài chính, có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở tài
khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi mà dựa vào đó để phát hành séc.” [6, tr.15]
Tại Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010, quy định:
"NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này." [8, điều 4, khoản 3],
trong đó: "Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh
toán qua tài khoản." [8, điều 4, khoản 12].
Từ các cách định nghĩa trên, có thể hiểu hoạt động của NHTM là kinh doanh tiền
tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng khác. NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tín dụng, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch
vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân.
1
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
NHTM đã thể hiện rõ nét được vai trò quan trọng trong nền kinh tế thông qua
việc thực hiện các chức năng của mình.
Thứ nhất, ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tín dụng, biểu hiện qua
sơ đồ luân chuyển vốn sau:
Sơ đồ 1.1. Chức năng trung gian tín dụng của NHTM
Gửi tiền
Người có vốn
Gửi tiền
NHTM
Ủy thác đầu tư
Cho vay
Người thiếu
vốn
Đầu tư
NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về
vốn. Thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng nhiều hình
thức, NHTM tiến hành cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khi thực hiện chức năng trung
gian tín dụng, NHTM đã biến vốn chưa tham gia hoạt động thành vốn hoạt động, thúc
đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn, góp phần tạo điều kiện phát triển sản xuất – kinh
doanh của mọi thành phần kinh tế - xã hội.
Với chức năng này, NHTM tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia (người dư thừa
vốn, người thiếu vốn, NHTM) và cho nền kinh tế.
Đối với người có vốn, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình
dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo
cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi. Đối
với người thiếu vốn, họ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh toán
mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn
tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp. NHTM sẽ kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở
để tồn tại và phát triển của NHTM.
Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực
hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
NHTM, phản ánh bản chất của NHTM là đi vay để cho vay. Nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của ngân hàng, đồng thời là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
2
Thang Long University Library
Thứ hai là chức năng trung gian thanh toán. NHTM làm trung gian thanh toán
khi thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền
gửi của khách hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập tiền thu bán hàng
và các khoản thu khác vào tài khoản tiền gửi theo lệnh của khách hàng. NHTM thực
hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín
dụng, vì tiền để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng chính là một phần tiền
gửi trước đó.
Việc các NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn
đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng cung cấp cho khách hàng
nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi. Nhờ đó, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được
rất nhiều chi phí, thời gian đi tới gặp chủ nợ, người phải thanh toán và lại đảm bảo
được việc thanh toán an toàn. Qua việc làm trung gian thanh toán, NHTM giúp thúc
đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó
góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời, việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân
hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông
tiền mặt như chi phí in ấn, kiểm đếm, bảo quản tiền...
Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng
thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay
của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Thứ ba, NHTM có chức năng “tạo tiền”, thực hiện trên cơ sở kết hợp giữa hai
chức năng trên. Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, NHTM có
khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tại NHTM. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử
dụng trong các giao dịch.
Ban đầu từ những khoản tiền dự trữ tăng lên, NHTM sử dụng để cho vay bằng
chuyển khoản, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại NHTM một phần khi
khách hàng gửi vào dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn. Quá trình này tiếp diễn trong hệ
thống ngân hàng và tạo nên một lượng tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự
trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi.
Hệ số này chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và
tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.
Với chức năng "tạo tiền", hệ thống NHTM đã làm tăng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Khái niệm về tiền
hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do ngân hàng trung ương phát hành ra mà còn
bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các NHTM tạo ra.
3
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Nhằm mục đích tạo lập nguồn vốn đảm bảo cho sự phát triển bền vững, các
NHTM tiến hành hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của NHTM được huy động từ nhiều nguồn: Từ
chủ sở hữu; từ cá nhân, hộ gia đình hoặc các tổ chức; từ các nguồn khác. Vốn được
ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau như huy động dưới hình thức tiền
gửi; đi vay; phát hành giấy tờ có giá.
Nguồn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ mang
tính chất đặc thù của mỗi quốc gia (như Quỹ đầu tư phát triển do Chính phủ cấp cho
một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam). Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm
tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, nhưng có tính ổn định cao, cho thấy thực lực và
quy mô của ngân hàng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác.
Bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu, các NHTM huy động nguồn tiền gửi với nhiều
sản phẩm tiền gửi khác nhau phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng trong việc
tiết kiệm và thực hiện thanh toán. Theo Luật các TCTD 2010: "Nhận tiền gửi là hoạt
động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình
thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi
tiền theo thỏa thuận." (8, điều 4, khoản 13)
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, trong những
trường hợp cần thiết các NHTM phải tiến hành đi vay thêm. Các nguồn mà NHTM có
thể vay là từ Ngân hàng Nhà nước (dưới hình thức chủ yếu là tái cấp vốn theo hạn
mức tín dụng hoặc tái chiết khấu thương phiếu); vay các TCTD khác…
Song song với hoạt động huy động vốn, các NHTM tiến hành sử dụng vốn.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng nguồn vốn huy động được của NHTM
vào các mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi
nhuận, tăng tài sản của NHTM. Nguồn vốn của các NHTM thường được sử dụng để
cấp tín dụng; mua các công cụ ngắn hạn, các chứng khoán có tính thanh khoản cao;
đầu tư chứng khoán;…
Trong các hoạt động sử dụng vốn, hoạt động cấp tín dụng đem lại nguồn thu
nhập chủ yếu cho các NHTM Việt Nam. Khái niệm cấp tín dụng được quy định trong
Luật các TCTD năm 2010: "Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc
có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác." (8, điều 4, khoản 14)
4
Thang Long University Library
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. (8, điều 4, khoản
16)
Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng
thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản
phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua,
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. (8, điều 4, khoản 17)
Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết
với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa
thuận. (8, điều 4, khoản 18)
Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công
cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh
toán. (8, điều 4, khoản 19)
Hoạt động cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở
hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các điều kiện sau đây:
Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển
quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên;
Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên
mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản
cho thuê tại thời điểm mua lại;
Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để
khấu hao tài sản cho thuê đó;
Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất
phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
(8, điều 113)
Trong tất cả các hình thức cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng mang
lại lợi nhuận lớn nhất cho các NHTM. Thông thường lợi nhuận từ hoạt động cho vay
chiếm tới 65- 70% tổng lợi nhuận của ngân hàng. Có nhiều cách phân loại hoạt động
cho vay của NHTM. Theo thời gian, có cho vay ngắn hạn; cho vay trung hạn và dài
hạn. Theo hình thức đảm bảo, có cho vay có đảm bảo và cho vay không có đảm bảo.
Theo mục đích, có cho vay bất động sản; cho vay thương mại; cho vay cá nhân; cho
vay nông nghiệp; cho vay thuê mua...
5
Bên cạnh việc cấp tín dụng, nguồn vốn của các NHTM còn được đầu tư vào hoạt
động dịch vụ ngoài tín dụng (dịch vụ phi tín dụng).
Các NHTM tận dụng lợi thế của mình như một trung gian tài chính trong nền
kinh tế để cung ứng một số dịch vụ đến khách hàng nhằm mục đích thu lợi nhuận, đa
dạng hóa hoạt động và phân tán rủi ro. Trong đó, ngân hàng cam kết thực hiện công
việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng
tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng. Mặt khác, hoạt
động này còn có tác dụng hỗ trợ các mặt hoạt động chính của NHTM. Đây cũng là lý
do các NHTM chỉ nhận cung ứng các dịch vụ có liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Một số dịch vụ ngoài tín dụng chủ yếu của các NHTM Việt Nam là:
Dịch vụ thanh toán trong nước;
Dịch vụ thanh toán quốc tế;
Dịch vụ kiều hối;
Dịch vụ thẻ;
Dịch vụ ngân hàng điện tử;
Dịch vụ hối đoái (dịch vụ kinh doanh ngoại tệ);
Dịch vụ ngân quỹ;
Một số dịch vụ khác.
1.1.4. Tác động của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Xu thế toàn cầu hóa đã khiến chính sách của các quốc gia thay đổi, đưa nền
kinh tế phát triển theo hướng tự do hóa, giảm sự can thiệp của nhà nước và thúc đẩy
quá trình tư nhân hóa. Khi đã mở cửa thương mại, các doanh nghiệp sẽ yêu cầu được
cung cấp dịch vụ tài chính tốt hơn. Do đó, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
có tầm quan trọng không nhỏ. Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng mở ra khả năng hội
nhập ở các lĩnh vực khác.
Đi cùng với xu thế toàn cầu hóa là môi trường cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường tài chính trong nước và sự
tham gia của các ngân hàng trong nước vào thị trường quốc tế tạo động lực và điều
kiện để chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia. Điều này mở ra nhiều cơ hội kinh
doanh, thuận lợi cho phát triển kinh tế. Khi các ngân hàng nước ngoài được hoạt động
tự do ở thị trường trong nước thì sự cạnh tranh ngày càng cao, thúc đẩy hiệu quả trong
hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng.
Ngoài ra, một yếu tố quan trọng tác động lên lĩnh vực ngân hàng đó là Việt Nam
chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO (11/01/2007). Điều này giúp
tăng uy tín, vị thế của các NHTM Việt Nam trên thị trường thế giới. NHTM trong
6
Thang Long University Library
nước có cơ hội tăng cường quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài, xây dựng
thương hiệu, mở rộng thị trường ra ngoài phạm vi quốc gia. Các NHTM có cơ hội huy
động vốn từ thị trường tài chính quốc tế, tiếp cận các khu vực thị trường và nhóm
khách hàng mới, học hỏi kinh nghiệm để nâng cao trình độ công nghệ và quản trị.
Bên cạnh các thuận lợi, khi hội nhập quốc tế, các NHTM Việt Nam cũng đối
mặt với không ít khó khăn. So với các ngân hàng trong khu vực và thế giới, các
NHTM Việt Nam có quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ
chậm tiến hơn. Sự gia tăng số lượng các NHTM nước ngoài tham gia vào thị trường
nội địa với hệ thống sản phẩm đa dạng, chất lượng cao sẽ gây áp lực lớn đối với các
NHTM trong nước. Các NHTM Việt Nam phải thực hiện nhiều nghĩa vụ và cam kết
quốc tế, đáp ứng các chuẩn mực về an toàn theo thông lệ quốc tế, đồng thời lại phải
chịu tác động của thị trường tài chính thế giới về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ. Ngoài
ra, hội nhập kéo theo tình trạng “chảy máu chất xám”, nên việc đưa ra chính sách nhân
sự hợp lý để lôi kéo và giữ chân nhân viên giỏi cũng là một thách thức với các NHTM
Việt Nam.
Tóm lại, hội nhập quốc tế có tác động lớn đến hướng phát triển của lĩnh vực
ngân hàng. Nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như môi trường có tính cạnh
tranh cao đòi hỏi các NHTM Việt Nam không chỉ tập trung vào mảng huy động vốn,
cấp tín dụng và các dịch vụ ngân hàng truyền thống. Mặt khác, ngân hàng cần phải chú
trọng phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ
thông tin, tăng thu nhập ngoài nguồn thu từ tín dụng vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hội
nhập quốc tế càng sâu rộng, đời sống càng cao thì khách hàng càng có nhu cầu sử
dụng các dịch vụ ngân hàng tiện ích, an toàn, tiết kiệm thời gian.
1.2. Dịch vụ ngân hàng
1.2.1. Khái niệm dịch vụ ngân hàng
Trên thế giới có nhiều cách phát biểu khác nhau về khái niệm dịch vụ nói chung
và dịch vụ trong nền kinh tế nói riêng.
Từ điển Bách khoa Việt Nam, trang 167 giải thích: “Dịch vụ là các hoạt động
phục vụ, nhằm thỏa mãn những nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt”.
Trên góc độ chung nhất về thống kê kinh tế, dịch vụ được coi là một lĩnh vực
kinh tế không bao gồm các ngành nông nghiệp và công nghiệp. [2, tr.24]
Theo Noel Capon (2009): "Dịch vụ là bất kỳ hành động hay sự thực hiện nào mà
một bên cung cấp cho bên khác tồn tại một cách vô hình và không nhất thiết đi đến
một quan hệ sở hữu."
7
Trong marketing, Philip Kotler định nghĩa: “Dịch vụ là mọi hành động và kết
quả mà một bên có thể cung cấp cho bên kia mà chủ yếu là vô hình và không dẫn đến
quyền sở hữu cái gì đó. Sản phẩm của nó có thể có hoặc không gắn liền với sản phẩm
vật chất.” [2, tr. 24]
Căn cứ vào ISO 8402: "Dịch vụ là kết quả tạo ra do các hoạt động tiếp xúc giữa
người cung ứng và khách hàng và các hoạt động nội bộ của người cung ứng để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng” [4, tr. 7].
Theo định nghĩa của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đưa ra trong Phụ lục
về dịch vụ tài chính của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) thì: “Dịch vụ
tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ
tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên
quan đến bảo hiểm, mọi
hiểm)” [3, tr.3]. Như vậy, theo WTO thì dịch vụ ngân hàng (DVNH) được đặt trong
nội hàm dịch vụ tài chính.
Tại Việt Nam, luật các TCTD chƣa đƣa ra một định nghĩa cụ thể hoặc giải
thích từ ngữ đối với khái niệm dịch vụ ngân hàng mà chỉ đề cập đến thuật ngữ
“hoạt động ngân hàng”.
:
[7, điều 20,
khoản 7 ].
NHTM.
Luật các TCTD năm 2010 quy định: "Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh,
cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi, cấp tín
dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản." [8, điều 4, khoản 12]
Như vậy, so với Luật các TCTD năm 1997 thì trong bộ luật hiện hành,
động kinh doanh tiền tệ và đâu là dịch vụ ngân hàng thì vẫn chưa có sự phân định rõ.
Đây là một trong những điểm bất cập của Luật các TCTD Việt Nam.
Từ những cách phát biểu trên, có thể thấy dịch vụ ngân hàng là toàn bộ hoạt động
tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Tóm
lại, có thể hiểu khái quát về dịch vụ ngân hàng như sau: “Dịch vụ ngân hàng bao gồm
tất cả các dịch vụ được ngân hàng cung cấp cho khách hàng”.
8
Thang Long University Library
1.2.2. Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng
Trước hết, dịch vụ ngân hàng có tính vô hình, vì cũng giống như các dịch vụ
khác, dịch vụ ngân hàng không có hình thái vật chất cụ thể. Khách hàng không nhìn
thấy hay nắm giữ được sản phẩm dịch vụ nên khó có thể đánh giá chất lượng sản phẩm
dịch vụ trước, trong và sau khi mua. Do đó để đảm bảo an toàn, khách hàng thường
tìm đến các NHTM có uy tín. Vì vậy mà các ngân hàng luôn cố gắng tạo dựng và củng
cố niềm tin đối với khách hàng về chất lượng dịch vụ, tìm cách phát triển các đặc tính
hữu hình của sản phẩm.
Không những không có hình thái vật chất cụ thể mà quá trình cung ứng và tiêu
thụ còn diễn ra đồng thời, dẫn đến tính không thể tách rời của sản phẩm dịch vụ ngân
hàng. Chính vì vậy, dịch vụ ngân hàng không có sản phẩm dở dang, dự trữ lưu kho,
xuất kho mà sản phẩm được cung ứng trực tiếp cho khách hàng khi họ có nhu cầu. Lý
do này đòi hỏi ngân hàng phải có hệ thống và phương pháp phục vụ nhanh với nhiều
quầy, địa điểm giao dịch.
Ngoài những đặc điểm trên, dịch vụ ngân hàng không đơn giản là sự mua sắm
một lần rồi kết thúc mà nó liên quan đến một chuỗi các giao dịch thường xuyên giữa
ngân hàng và khách hàng trong khoảng thời gian cụ thể. Sự xuất hiện của dòng thông
tin hai chiều đã cung cấp cho các ngân hàng những thông tin về khách hàng liên quan
đến sở thích, nhu cầu, yêu cầu… để từ đó có những điều chỉnh thích hợp trong việc
cung cấp dịch vụ tới khách hàng.
Cuối cùng, một đặc điểm quan trọng của dịch vụ ngân hàng đó là tính đa dạng,
phong phú và không ngừng phát triển. Trên thế giới, các ngân hàng đang cố gắng phát
triển theo hướng kinh doanh đa năng với rất nhiều loại dịch vụ khác nhau. Mỗi ngân
hàng đều chú trọng việc đa dạng hóa các hình thức cung cấp dịch vụ. Ngoài ra, nhiều
dịch vụ mới đã ra đời và phát triển với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin. Các
dịch vụ truyền thống cũng được cải tiến với hàm lượng công nghệ cao.
1.2.3. Phân loại dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng được phân loại theo nhiều cách khác nhau, tùy vào mục đích
nghiên cứu và góc độ nhìn nhận:
Theo quy mô giao dịch, dịch vụ ngân hàng gồm dịch vụ ngân hàng bán buôn
và dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Theo thời hạn cung ứng dịch vụ, dịch vụ ngân hàng gồm dịch vụ ngắn hạn và
dịch vụ trung và dài hạn.
Theo tính chất của nghiệp vụ NHTM, dịch vụ ngân hàng bao gồm huy động
vốn, tín dụng, thanh toán, ủy thác và dịch vụ khác.
9
Theo quá trình phát triển của NHTM, có dịch vụ ngân hàng truyền thống và
dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Phân loại theo tính chất nguồn thu nhập, dịch vụ ngân hàng chia thành dịch vụ
tín dụng và dịch vụ ngoài tín dụng.
1.3. Dịch vụ ngoài tín dụng của ngân hàng thƣơng mại
1.3.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau
giữa các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị
sang cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận được
phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Tín dụng có hình thái giá trị là tiền,
tài sản thực và uy tín. Tín dụng được cấu thành nên từ sự kết hợp của ba yếu tố chính
là: lòng tin; thời hạn quan hệ tín dụng; sự hứa hẹn hoàn trả. Cùng với sự phát triển của
nền sản xuất hàng hóa, quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển qua các hình thức
là tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là giao dịch giữa ngân hàng với các tổ chức, cá nhân trong
nền kinh tế. Trong đó, ngân hàng chuyển giao tài sản cho khách hàng sử dụng trong
một thời gian nhất định theo thoả thuận, và khách hàng có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện cho ngân hàng khi đến hạn, với giá trị lớn hơn ban đầu.
Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động ngân hàng là kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ nên tài sản giao dịch trong tín dụng ngân hàng chủ yếu là dưới hình thức tiền tệ. Tuy
nhiên trong một số hình thức cấp tín dụng khác, như cho thuê tài chính hoặc bảo lãnh
thì tài sản trong giao dịch tín dụng cũng có thể là các tài sản khác như tài sản cố định
hay uy tín của ngân hàng.
Quy định cụ thể của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 về hoạt động cấp tín
dụng của các NHTM Việt Nam đã được đề cập đến tại mục 1.1.3 của khóa luận. Theo
đó, hoạt động cấp tín dụng bao gồm cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, bao thanh toán, cho
thuê tài chính và một số hình thức cấp tín dụng khác.
1.3.2. Khái niệm dịch vụ ngoài tín dụng
Từ điển thuật ngữ ngân hàng của Nhà xuất bản giáo dục Barron, xuất bản năm
1997 của Thomas P. Fitch định nghĩa: "Dịch vụ phi tín dụng (non credit banking
services) là các dịch vụ ngân hàng dựa trên lệ phí không liên quan đến việc mở rộng
tín dụng mà ngân hàng cung cấp cho các ngân hàng đại lý hoặc khách hàng doanh
nghiệp. Thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng có thể là một nguồn thu đáng kể cho các
ngân hàng và các tổ chức tài chính.” [4, tr.21]
10
Thang Long University Library
Theo Tài liệu dự án “Khảo sát và đánh giá dịch vụ phi tín dụng ngân hàng Việt
Nam” của tổ chức Deloitte Touche Tohmatsu: "Dịch vụ phi tín dụng là bất cứ dịch vụ
hoặc sản phẩm nào cung cấp bởi ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính mà không phải
là những dịch vụ tín dụng. Dịch vụ phi tín dụng là dịch vụ được ngân hàng cung cấp
tới khách hàng đáp ứng nhu cầu về tài chính, tiền tệ của khách hàng nhằm trực tiếp
hoặc gián tiếp đem lại cho ngân hàng một khoản thu nhập nhất định, không bao gồm
dịch vụ tín dụng." [4, tr.21]
Tại Việt Nam, thuật ngữ "dịch vụ ngoài tín dụng" (DVNTD) hay "dịch vụ phi tín
dụng" được đề cập đến rất nhiều trên phương tiện truyền thông, trong các luận văn,
luận án, đề tài nghiên cứu khoa học, và các văn bản chỉ đạo hoạt động của các TCTD.
Tuy nhiên, cũng như khái niệm DVNH, khái niệm DVNTD lại chưa được quy định rõ
trong các văn bản quy phạm pháp luật, kể cả Luật các TCTD. Hoạt động DVNTD
được hiểu là các dịch vụ mà NHTM cung ứng cho khách hàng ngoài việc cấp tín dụng.
Từ các cách nhìn nhận khác nhau, có thể hiểu khái quát DVNTD là một bộ
phận cấu thành của dịch vụ ngân hàng. Vì vậy DVNTD cũng có đầy đủ các đặc
điểm của dịch vụ ngân hàng. Điểm khác biệt cơ bản so với dịch vụ tín dụng là khi thực
hiện các hoạt động DVNTD, không hình thành quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa
ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng trong các giao dịch về tài chính,
tiền tệ và thu các khoản phí từ dịch vụ do mình cung cấp. Khi đó, NHTM không sử
dụng đến tài sản nợ mà dựa trên khả năng công nghệ, phương tiện, nguồn nhân lực để
cung cấp dịch vụ cho khách hàng, nhằm tạo ra thu nhập cho ngân hàng bằng các khoản
phí xác định thu được từ khách hàng.
Về thu nhập, DVNTD mang lại nguồn thu cho ngân hàng ngoài nguồn thu từ
hoạt động cấp tín dụng, thể hiện qua các khoản thu từ dịch vụ tài khoản thanh toán,
dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ tư vấn, dịch vụ ủy thác, dịch vụ kinh doanh ngoại tệ…
1.3.3. Đặc trưng của dịch vụ ngoài tín dụng
Ngoại trừ nguồn vốn đầu tư ban đầu, DVNTD không đòi hỏi NHTM phải sử
dụng, hoặc sử dụng không nhiều nguồn vốn của mình để thực hiện nghĩa vụ ngay khi
giao kết hợp đồng. Vì chi phí ban đầu thường thấp, những dịch vụ này có khả năng
mang lại lợi nhuận cao. Do đó, DVNTD được xếp vào lĩnh vực kinh doanh tương đối
an toàn. Ngoài ra, các DVNTD của NHTM vô cùng đa dạng, phong phú, không ngừng
phát triển, đồng thời có tính hỗ trợ cao và liên kết chặt chẽ với nhau. Trong đó, nhiều
DVNTD có chứa hàm lượng công nghệ cao.
11
1.3.4. Vai trò của dịch vụ ngoài tín dụng trong hoạt động kinh doanh chung của
ngân hàng thương mại
Trong hoạt động DVNTD thì phần phí dịch vụ thu được lớn hơn so với khoản chi
phí bỏ ra, do đó đem lại thu nhập cao cho các NHTM. Việc này khác với dịch vụ tín
dụng, vì nguồn cho vay bắt nguồn từ vốn huy động của các đối tượng khách hàng nên
chi phí lãi là khá cao, chưa kể phần nguồn vốn chưa cho vay được hoặc không được
cho vay do phải duy trì tính thanh khoản.
Một điểm khác biệt nữa là với dịch vụ tín dụng, ngân hàng phải bỏ tiền ra từ ban
đầu sau đó thu lãi, thu nợ gốc nên có khả năng xảy ra rủi ro về lãi suất, rủi ro khi
khách hàng mất khả năng chi trả hoặc khi đồng tiền mất giá do lạm phát. Trong khi đó,
phí DVNTD thường được thu ngay hoặc trước khi cung cấp dịch vụ. Chính vì vậy mà
giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro.
Để có thể triển khai có hiệu quả hoạt động DVNTD thì các ngân hàng cần hợp
tác cùng phát triển. Điều này nhằm mục đích đảm bảo tính thuận tiện cho khách hàng
khi giao dịch với ngân hàng. Ví dụ đối với mảng dịch vụ thẻ, việc các ngân hàng khác
nhau tạo thành liên minh thẻ giúp khách hàng có thể gửi tiền một nơi - rút nhiều nơi.
Bên cạnh đó, DVNTD có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy các NHTM phát triển
công tác nhân sự cũng như quảng bá thương hiệu. Để đáp ứng nhu cầu về DVNTD
hiện đại ngày càng cao của khách hàng, NHTM cần tuyển dụng đội ngũ nhân viên mới
có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cũ. Mặt khác, mảng
DVNTD tương đối mới, đặc biệt là các sản phẩm DVNTD hiện đại nên các NHTM
cần gây dựng thương hiệu uy tín để khách hàng cảm thấy an tâm và tin cậy. Việc khảo
sát thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu thị trường cũng rất quan trọng, đảm bảo sự
gần gũi giữa thương hiệu và khách hàng.
1.3.5. Một số dịch vụ ngoài tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.3.5.1. Dịch vụ thanh toán trong nước
Các NHTM Việt Nam có mạng lưới rộng khắp cả nước với nhiều chi nhánh,
phòng giao dịch. Tận dụng lợi thế này, các NHTM thực hiện chức năng trung gian
thanh toán cho khách hàng trong nước thông qua tài khoản của khách hàng. Nhờ vậy,
việc thanh toán qua ngân hàng của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn
với chi phí thấp và ngân hàng tận dụng được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán
của khách hàng. Thông thường mức phí trên một giao dịch không cao nhưng do số
lượng giao dịch hàng ngày nhiều nên loại hình dịch vụ này đem lại thu nhập khá lớn
cho các NHTM.
12
Thang Long University Library
1.3.5.2. Dịch vụ thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, phát sinh trên cơ sở các
hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với các tổ chức
hay cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế, thường được
thông qua quan hệ giữa các Ngân hàng của các nước có liên quan. Các phương thức
thanh toán quốc tế phổ biến nhất hiện nay gồm có:
Một là phương thức chuyển tiền (Remittance). Khách hàng của ngân hàng (người
yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền nhất định cho người thụ
hưởng ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Có hai hình thức chuyển tiền là chuyển tiền bằng thư và chuyển tiền bằng điện. Phí
dịch vụ chuyển tiền bằng thư thấp hơn bằng điện, nhưng lại chậm hơn rất nhiều.
Hai là phương thức nhờ thu (Collection of payment). Bên xuất khẩu sau khi giao
hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho bên nhập khẩu sẽ ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền
dựa trên cơ sở chứng từ hoặc hối phiếu do bên xuất khẩu lập. Phương thức nhờ thu
được thực hiện dưới hai hình thức là nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
Phương thức nhờ thu trơn (Clean Collection): Bên xuất khẩu sau khi cung cấp
hàng hóa dịch vụ ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu tiền hộ dựa trên hối
phiếu đòi tiền. Bộ chứng từ hàng hóa được gửi trực tiếp cho bên nhập khẩu
làm cơ sở nhận hàng hóa, dịch vụ.
Phương thức nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection): Là phương
thức trong đó bên xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền từ bên nhập
khẩu, không những chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ
hàng hoá, gửi kèm theo với điều kiện là bên nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận
hối phiếu có kỳ hạn thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng hoá để đi nhận
hàng.
Căn cứ vào thời hạn trả tiền, phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ có
2 loại:
Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ - D/P: (Documents against payment): Bên
nhập khẩu phải thanh toán ngay khi nhận chứng từ
Nhờ thu chấp nhận trả tiền đổi chứng từ - D/A: (Documents against
acceptance): Phương thức này cho phép bên nhập khẩu không phải thanh
toán ngay nhưng phải ký chấp nhận thanh toán trên hối phiếu có kỳ hạn,
được ký phát bởi bên xuất khẩu. Thông thường hối phiếu đã chấp nhận sẽ
được giữ tại nơi an toàn của ngân hàng nhờ thu (ngân hàng người nhập
khẩu) cho đến ngày đáo hạn. Tới ngày này, bên nhập khẩu phải thực hiện
thanh toán như đã chấp nhận.
13
Ba là phương thức ghi sổ (Open account). Phương thức ghi sổ về cơ bản không
khác nhiều so với phương thức chuyển tiền, chỉ khác là người trả tiền sẽ mở một tài
khoản ghi nợ người thụ hưởng. Tới định kỳ tại một thời điểm nhất định hàng quý hoặc
hàng năm, người trả tiền sẽ trả tiền cho người thụ hưởng.
Bốn là phương thức tín dụng thư - LC (Letter of credit). Khi ngân hàng không
cho khách hàng vay để nhập khẩu mà chỉ thực hiện dịch vụ mở L/C phục vụ khách
hàng và thu phí. Khoản phí thông báo và phí dịch vụ mở L/C được tính vào thu nhập
từ hoạt động DVNTD của NHTM.
Thư tín dụng là một cam kết thanh toán có điều kiện bằng văn bản của ngân hàng
đối với người thụ hưởng (thông thường là người bán hàng hoặc người cung cấp dịch
vụ). Người thụ hưởng phải xuất trình bộ chứng từ phù hợp với tất cả các điều khoản
được quy định trong L/C, phù hợp với Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng
từ (UCP) được dẫn chiếu trong thư tín dụng và phù hợp với Tập quán ngân hàng tiêu
chuẩn quốc tế dùng để kiểm tra chứng từ trong phương thức tín dụng chứng từ (ISBP).
Ngân hàng phát hành một tín dụng thư yêu cầu thanh toán cho người thụ hưởng
số tiền nhất định khi người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ theo quy định của tín
dụng thư, chứng minh người thụ hưởng hoàn thành nghĩa vụ cung cấp hàng hóa hoặc
dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định (được quy định trong tín dụng thư). Sau
khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hóa hoặc dịch vụ, người thụ hưởng lập bộ chứng
từ, xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng chỉ định trong
khoảng thời gian quy định của tín dụng thư, để được thanh toán.
1.3.5.3. Dịch vụ kiều hối
Dịch vụ kiều hối là sản phẩm dịch vụ của ngành ngân hàng phát sinh trong quá
trình thực hiện các ủy nhiệm của người chuyển tiền ở nước ngoài để chuyển, trả tiền
tới người hưởng cá nhân trong nước với mục đích viện trợ, giúp đỡ và đầu tư. Để thực
hiện dịch vụ kiều hối, các NHTM thường liên kết với các tổ chức chuyên về dịch vụ
chuyển tiền cá nhân quốc tế như Western Union, Moneygram… Khi cung ứng dịch vụ
này, ngoài các khoản phí chuyển kiều hối mà ngân hàng thu được, các NHTM còn có
cơ hội thu lợi nhuận từ hoạt động chuyển đổi ngoại tệ trong các giao dịch.
1.3.5.4. Dịch vụ thẻ
Đây là một dịch vụ ngân hàng hiện đại hướng đến khách hàng cá nhân, cho phép
họ sử dụng tiền gửi thanh toán để chi trả tiền mua hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt
thông qua hệ thống máy của ngân hàng. Lúc đầu ngân hàng chỉ cung cấp thẻ rút tiền
mặt tại các máy ATM, đến nay đã được nâng cấp thành các thẻ ghi nợ, kết nối trực tiếp
vào tài khoản tiền gửi của khách hàng. Khách hàng cũng có thể rút vượt số dư trên tài
khoản sau khi đã thực hiện việc ký kết hợp đồng cấp hạn mức thấu chi với ngân hàng.
14
Thang Long University Library
Các ngân hàng đang thực hiện việc kết nối với nhau để phục vụ tốt nhất cho khách
hàng. Ngoài ra, các ngân hàng còn thực hiện phát hành, đại lý thanh toán thẻ quốc tế
như Visa, Mastercard, American Express …
1.3.5.5. Dịch vụ ngân hàng điện tử
Đây là sự kết hợp giữa dịch vụ ngân hàng với những tiến bộ trong lĩnh vực công
nghệ thông tin. Ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua các công cụ hỗ trợ
như Internet, điện thoại, máy tính, các dịch vụ mạng và đường truyền. Khách hàng có
thể giao dịch mọi lúc mọi nơi không cần đến trực tiếp xếp hàng tại ngân hàng. Các
dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam bao gồm:
Internet banking: Là dịch vụ cung cấp tự động các thông tin về sản phẩm dịch
vụ ngân hàng thông qua đường truyền Internet.
Home banking: Là dịch vụ cho phép khách hàng thực hiện hầu hết các giao
dịch chuyển khoản, thanh toán qua tài khoản tại ngân hàng thông qua mạng và
phần mềm chuyên dùng mà ngân hàng đã cài đặt cho khách hàng. Để sử dụng
dịch vụ này, khách hàng chỉ cần có máy tính (tại nhà hoặc trụ sở) kết nối với
hệ thống máy tính của ngân hàng thông qua modem - đường điện thoại quay
số. Chỉ số điện thoại được khách hàng đăng ký mới được kết nối với hệ thống
Home banking của ngân hàng.
Phone banking: Là hệ thống trả lời 24/24 của NHTM. Khách hàng có thể sử
dụng điện thoại để nghe những thông tin về sản phẩm dịch vụ ngân hàng và
thông tin về tài khoản cá nhân qua hệ thống trả lời thông tin tự động
Mobile banking: Là dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động. Khách hàng chỉ
cần dùng điện thoại di động nhắn tin theo mẫu do ngân hàng quy định gửi đến
số dịch vụ của ngân hàng sẽ được ngân hàng đáp ứng những yêu cầu.
SMS banking: Là dịch vụ cho phép người dùng thực hiện giao dịch tài chính,
tra cứu thông tin tài khoản và đăng ký nhận những thông tin mới nhất từ ngân
hàng qua điện thoại di động của mình
Call center: Khách hàng có tài khoản tại bất kỳ chi nhánh nào vẫn gọi về số
điện thoại cố định của trung tâm để được cung cấp mọi thông tin chung và cá
nhân. Trung tâm có người trực điện thoại 24/24 giờ.
1.3.5.6. Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ
Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ là các dịch vụ liên quan đến việc mua bán ngoại tệ.
Cung cấp dịch vụ kinh doanh ngoại tệ giúp các ngân hàng hưởng thu nhập từ khoản
chênh lệch tỷ giá từ hoạt động mua bán. Các ngân hàng kinh doanh ngoại tệ trên thị
trường liên ngân hàng và kinh doanh ngoại tệ với khách hàng là các doanh nghiệp
(thường là doanh nghiệp xuất nhập khẩu), tổ chức hoặc cá nhân.
15
Doanh nghiệp xuất khẩu thu được ngoại tệ từ khách hàng, hoặc cá nhân nhận
được các khoản thu nhập hoặc do thân nhân ở nước ngoài gửi về sẽ bán ngoại tệ lấy
Việt Nam đồng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong nước. Các doanh nghiệp nhập khẩu
mua ngoại tệ để thanh toán cho người bán. Cá nhân mua ngoại tệ để đáp ứng các nhu
cầu hợp lý như đi công tác nước ngoài, du học,...
Các dịch vụ kinh doanh ngoại tệ bao gồm:
Giao dịch ngoại tệ giao ngay: Là một thỏa thuận mua hoặc bán các loại ngoại
tệ mà ngày thực hiện sẽ là 2 ngày làm việc tiếp theo của ngày giao dịch.
Giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn: Là một thỏa thuận mua hoặc bán một lượng
ngoại tệ xác định, được thanh toán bằng bản tệ hoặc ngoại tệ khác vào một
ngày/giai đoạn cụ thể trong tương lai với một tỷ giá được thỏa thuận trước.
Đây là công cụ giúp khách hàng phòng chống rủi ro tỷ giá.
Giao dịch ngoại tệ tương lai: Là giao dịch mua/bán ngoại tệ theo tỉ giá được
xác định vào ngày giao dịch và việc thanh toán sẽ được thực hiện vào 1 thời
điểm trong tương lai theo thoả thuận.
Giao dịch hoán đổi ngoại tệ: Doanh nghiệp thực hiện đồng thời hai giao dịch,
một giao dịch giao ngay để mua (hoặc bán) một lượng ngoại tệ và một giao
dịch kì hạn để bán (hoặc mua) chính lượng ngoại tệ đó trong tương lai. Tỉ giá
giao dịch, lượng ngoại tệ giao dịch và kì hạn thanh toán được xác định tại thời
điểm kí kết hợp đồng.
Quyền chọn ngoại tệ: Là giao dịch giữa bên mua quyền (doanh nghiệp) và bên
bán quyền (ngân hàng), trong đó bên mua quyền có quyền nhưng không có
nghĩa vụ mua hoặc bán một lượng ngoại tệ nhất định ở một mức tỉ giá xác
định trong một khoảng thời gian thỏa thuận trước. Nếu bên mua quyền thực
hiện quyền chọn của mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc mua lượng
ngoại tệ trong hợp đồng theo tỉ giá đã thoả thuận.
1.3.5.7. Dịch vụ ngân quỹ
Ngân hàng cung cấp dịch vụ quản lý dịch vụ thu chi tiền mặt cho khách hàng.
Việc thu chi tiền mặt có thể được thực hiện tại quầy của ngân hàng hoặc tại địa điểm
mà khách hàng yêu cầu. Dịch vụ này giúp khách hàng không phải tốn nhiều thời gian
và công sức trong việc thu chi tiền, được ngân hàng đảm bảo tính an toàn và hưởng lãi.
Phía ngân hàng được hưởng lợi ích từ việc khách hàng duy trì số dư trên tài khoản.
1.3.5.8. Dịch vụ ngoài tín dụng khác
Ngoài các DVNTD trên, các NHTM còn cung cấp một số các DVNTD khác để
phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng. Đó là dịch vụ ủy thác và đại lý, dịch vụ
16
Thang Long University Library
giữ hộ, dịch vụ kinh doanh vàng, dịch vụ tư vấn thông tin cho khách hàng, dịch vụ
thẩm định và tái thẩm định dự án đầu tư, dịch vụ bảo lãnh .v.v.
1.4. Phát triển dịch vụ ngoài tín dụng của ngân hàng thƣơng mại
1.4.1. Khái niệm phát triển dịch vụ ngoài tín dụng của ngân hàng thương mại
Dưới góc nhìn của chủ nghĩa duy vật biện chứng, "phát triển" là quá trình tiến
lên từ thấp đến cao, không chỉ là tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng mà còn có
thể có sự biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Phát triển là khuynh hướng vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Hiểu một cách đơn giản nhất thì phát triển là sự tăng lên về số lượng và chất lượng.
Từ đó, phát triển DVNTD được hiểu là mở rộng DVNTD về quy mô đồng thời
gia tăng chất lượng dịch vụ.
1.4.2. Xu hướng phát triển dịch vụ ngoài tín dụng của ngân hàng thương mại
Những năm gần đây, các rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra tổn thất to lớn
cho các ngân hàng và nền kinh tế. Điều này khiến cho các ngân hàng ngày càng quan
tâm phát triển các dịch vụ khác với rủi ro thấp. Do đó, chú trọng phát triển mảng
DVNTD là phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn ngành ngân hàng. Sự phát
triển hoạt động DVNTD được phân tích dựa trên 2 xu hướng: Phát triển về chiều rộng
và phát triển về chiều sâu.
Xu hướng phát triển DVNTD theo chiều rộng đồng nghĩa với việc các NHTM
đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Đó là việc tăng quy mô, số lượng các DVNTD đã
có và phát triển thêm DVNTD mới. Bên cạnh các dịch vụ truyền thống như thanh
toán, ngân quỹ, chuyển tiền, NHTM phải kết hợp các dịch vụ hiện đại có hàm lượng
khoa học công nghệ cao, ví dụ như dịch vụ ngân hàng điện tử.
Xu hướng phát triển DVNTD theo chiều sâu đồng nghĩa với việc các NHTM
nâng cao chất lượng dịch vụ. Đó là công tác phát triển sản phẩm mới trên cơ sở những
sản phẩm hiện có bằng cách gia tăng tiện ích và nâng cao chất lượng các dịch vụ,
nhằm gia tăng mức độ hài lòng của khách hàng. Các NHTM cần tăng tính chính xác,
nhanh nhạy và tính tiện ích của các DVNTD cung ứng cho khách hàng.
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của dịch vụ ngoài tín dụng
Một là các chỉ tiêu định lƣợng phản ánh sự phát triển DVNTD về quy mô.
Thu nhập lãi ròng từ hoạt động tín dụng (A): Bao gồm các khoản thu nhập từ
lãi và có tính chất lãi (TK 70 + TK 712 trên Bảng cân đối kế toán), trừ chi phí
trả lãi đầu vào của vốn huy động tương ứng dùng cho vay và đầu tư (TK 80).
A = (TK 70 + TK 72) – TK 80
17
Thu nhập ròng từ hoạt động ngoài tín dụng (B) bao gồm:
Các khoản thu nhập từ hoạt động dịch vụ (TK 71 – TK 712) sau khi đã bù
đắp các khoản chi phí về hoạt động dịch vụ (TK 81):
a = (TK 71 – TK 712) – TK 81
Các khoản thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối, vàng bạc đá quý (TK 72)
sau khi đã bù đắp các chi phí đầu vào (TK 82).
b = TK 72 – TK 82
Các khoản thu từ kinh doanh chứng khoán và các hoạt động dịch vụ khác
(TK 74) trừ đi các khoản chi phí từ kinh doanh chứng khoán và hoạt động
dịch vụ khác (TK 84).
c = TK 74 – TK 84
Hiện nay, một số khoản thu, chi đang hạch toán trên các tài khoản theo
công thức trên nhưng không thuộc đối tượng thu, chi cho hoạt động dịch
vụ, do đó loại trừ không tính vào lợi nhuận ròng từ hoạt động DVNTD:
TK 742001 thu từ nghiệp vụ mua bán nợ,
TK 813 chi về vận chuyển, kiểm đếm, phân loại, đóng gói, bảo vệ, bảo
hiểm tiền,
TK 816002 chi phí hoa hồng cho vay,
TK 849001 chi phí liên quan đến nghiệp vụ mua bán nợ,
Đối với chi nhánh, các khoản thu, chi hộ Trụ sở chính (nếu có): hạch toán
thu trên TK 749002, hạch toán chi trên TK 849002.
B = (a + TK 813 + TK 816002) + (b) + (c – TK 742001 + TK 849001)
– TK 749002 + TK 849002
Tỷ lệ thu ngoài tín dụng được xác định bằng công thức:
B
t% =
x 100%
T
t% là tỷ lệ thu DVNTD
B là thu nhập ròng từ hoạt động DVNTD
T là tổng thu nhập ròng = A + B
Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động dịch vụ trong tổng thu nhập (%): Cho biết trong
một đồng thu nhập có bao nhiêu phần thu từ DVNTD.
18
Thang Long University Library
Một số chỉ tiêu định lượng khác như số món, số khách hàng… được tính toán
bằng phương pháp thống kê trên hệ thống tự động. Số lượng khách hàng hoặc
số lượng giao dịch càng cao nghĩa là ngân hàng càng tạo được lòng tin với
khách hàng, các sản phẩm càng được yêu thích.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu trên so với kết quả đạt được của năm trước là cơ
sở đánh giá mức độ phát triển đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tại từng
NHTM, tại từng chi nhánh ngân hàng.
Hai là các chỉ tiêu định tính phản ánh sự phát triển DVNTD về chất lƣợng.
Một là tính an toàn của sản phẩm. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh dựa
trên uy tín là chủ yếu. Do đó, tính an toàn càng cao thì ngân hàng càng được sự tin
tưởng của khách hàng. Tính an toàn thể hiện ở an toàn ngân quỹ, an toàn trong việc
ứng dụng các công nghệ hiện đại, an toàn trong việc bảo mật thông tin khách hàng.
Hai là mức độ đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chỉ tiêu này được đo lường bằng
mức độ hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm DVNTD của ngân hàng. Nếu
NHTM cung ứng những dịch vụ với mức giá phí hợp lý, có nhiều tiện ích thỏa mãn
nhu cầu của khách hàng, giảm đến mức thấp nhất các sai sót và rủi ro thì có nghĩa hoạt
động DVNTD của NHTM phát triển tốt.
Ba là tính tiện ích. Tính tiện ích của sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công
nghệ chính là nền tảng đánh giá sự phát triển của DVNTD. Ví dụ như dịch vụ ngân
hàng trực tuyến cho phép giao dịch trên toàn quốc với cùng một tài khoản; mô hình
giao dịch một cửa tiết kiệm thời gian cho khách hàng…
Bốn là danh tiếng và thương hiệu của ngân hàng. Đây là tài sản vô hình cần thiết
trong việc giới thiệu hình ảnh của ngân hàng đến khách hàng. Nếu các yếu tố khác là
giống nhau như sản phẩm, giá phí, chất lượng phục vụ…, ngân hàng nào có thương
hiệu mạnh và danh tiếng tốt sẽ dành được ưu thế trong việc thu hút khách hàng sử
dụng dịch vụ.
Năm là sự phong phú của danh mục sản phẩm dịch vụ. Hoạt động DVNTD chỉ
được coi là phát triển khi có thể cung cấp cho khách hàng nhiều sự lựa chọn với các
sản phẩm đa dạng để thu hút ngày càng nhiều đối tượng khách hàng. Danh mục sản
phẩm dịch vụ phong phú sẽ đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của khách hàng, tạo
điều kiện để nhiều khách hàng được tiếp xúc với các sản phẩm dịch vụ của NHTM.
1.4.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ ngoài tín dụng
Nhóm thứ nhất là nhân tố khách quan gồm những yếu tố từ bên ngoài ngân
hàng. Các NHTM không thể kiểm soát các yếu tố này nhưng cần nắm bắt thông tin để
có những điều chỉnh kịp thời phù hợp.
19
Trước hết, luật pháp là nền tảng để hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động
DVNTD nói riêng được thực hiện một cách an toàn và bền vững. Nếu luật pháp không
kiểm soát được những hành vi gian lận thì rủi ro sẽ xảy đến cho các NHTM. Mặt khác,
bất kì sự thay đổi nào trong chính sách sẽ có tác động đến hoạt động của ngân hàng và
danh mục các sản phẩm dịch vụ của họ.
Môi trường kinh tế xã hội cũng tác động không nhỏ đến DVNTD của NHTM.
Thông thường, những nơi tập trung nhiều người có địa vị, trình độ, thu nhập cao thì
nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng càng cao. Ở quốc gia có nền kinh tế phát triển, nhu
cầu và yêu cầu đối với DVNTD cao hơn ở các quốc gia kinh tế chậm phát triển.
Bên cạnh đó, hoạt động ngân hàng cũng rất nhạy cảm với tình hình chính trị và
trật tự an toàn xã hội. Nếu chính trị bất ổn thì sẽ gây tác động xấu đến tâm lý khách
hàng làm giảm nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, một quốc gia được
đánh giá là có nền chính trị ổn định sẽ kéo theo nhu cầu về dịch vụ ngân hàng tăng lên.
Ở những nước kinh tế phát triển thì mức độ hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh
tranh trong nội bộ ngành cao. Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng đồng nghĩa với giảm
dần và tới xóa bỏ sự can thiệp của nhà nước. Điều này làm mất đi những lợi thế vốn có
của các NHTM trong nước về khách hàng truyền thống và mạng lưới hoạt động.
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, các NHTM muốn phát triển tốt DVNTD
thì tìm hiểu thông tin về đối thủ cạnh tranh là hết sức quan trọng, hỗ trợ cho việc ra
quyết định liên quan đến phát triển sản phẩm của NHTM. Theo dõi sát sao chiến lược
sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh là cơ sở để NHTM phát kiến các sản phẩm mới có
tính cạnh tranh cao.
Cuối cùng và là nhân tố khách quan quan trọng nhất tác động trực tiếp đến hoạt
động DVNTD của NHTM chính là nhu cầu của khách hàng, vì khách hàng là trung
tâm của hoạt động DVNTD. Các quyết định liên quan đến phát triển dịch vụ đều phải
dựa trên xu hướng tiêu dùng của khách hàng. Việc hiểu được khách hàng muốn gì để
có các biện pháp thỏa mãn nhu cầu khách hàng là mục tiêu chiến lược của các NHTM.
Nhóm thứ hai là nhân tố chủ quan gồm những yếu tố xuất phát từ bên trong
ngân hàng (nguồn lực sẵn có, chiến lược, phương hướng hoạt động của NHTM). Nhà
quản trị NHTM cần xem xét đánh giá các yếu tố này, có biện pháp phát huy mặt được
và cải thiện mặt chưa được để hoạt động DVNTD đạt hiệu quả tốt nhất.
Yếu tố đầu tiên và then chốt trong phát triển DVNTD là năng lực tài chính của
NHTM. Vốn được dùng vào hoạt động nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm
mới, các chiến dịch quảng cáo và khuyến mãi. NHTM có quy mô vốn lớn sẽ dễ dàng
tạo dựng niềm tin đối với khách hàng, với các đối tác trong và ngoài nước. Ngoài ra,
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -