CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN NGẮN HẠN TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về tài sản
Trước khi tìm hiểu khái niệm về TSNH, ta phải hiểu thế nào là tài sản. Theo Bộ
luật Dân sự năm 2005, theo quy định tại Điều 163, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá (như trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu...) và các quyền tài sản (như quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được
nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong
doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng...
Theo chuẩn mực số 1: Chuẩn mực chung trong “Chuẩn mực Kế toán Việt
Nam” được ban hành và công bố theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31
tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Tài chính đã đưa ra định nghĩa về tài sản như
sau:“Tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế
trong tương lai”. Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là tiềm năng làm tăng
nguồn tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm bớt các
khoản tiền mà doanh nghiệp phải chi ra.
1.1.2. Khái niệm về tài sản ngắn hạn
Để đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải có tư liệu sản xuất
mà nó bao gồm hai bộ phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động, nếu như tư liệu
lao động tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất không thay đổi từ chu
kỳ đầu tiên cho tới khi bị sa thải khỏi quá trình sản xuất thì đối tượng lao động lại
khác, nó chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử
dụng các đối tượng lao động khác.
Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực
thể của sản phẩm như bông thành sợi, cát thành thuỷ tinh, một số khác bị mất đi như
các loại nhiên liệu. Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có các đối
tượng lao động. Lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về các đối tượng lao động
gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có các TSNH, lượng
tiền cung ứng trước để thoả mãn nhu cầu về TSNH. TSNH thường được luân chuyển
trong quá trình sản xuất kinh doanh, bao gồm tài sản bằng tiền, các chứng khoán có
tính thanh khoản cao, các khoản phải thuvà dự trữ tồn kho. Như vậy tài sản ngắn ngắn
1
hạn được định nghĩa sau: TSNH là biểu hiện bằng tiền giá trị những tài sản thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp mà trên thời gian sử dụng thu hồi luân chuyển thường
là một năm hoặc là một chu kỳ kinh doanh
1.1.3. Đặc điểm của tài sản ngắn hạn
Đối với doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thì giá trị các loại TSNH chiếm tỷ
trọng lớn, thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng. Việc quản lý
và sử dụng hợp lý các loại TSNH có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành
các nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải biết rõ số lượng, giá trị mỗi loại
TSNH là bao nhiêu cho hợp lý và đạt hiệu quả sử dụng cao. TSNH được phân bố đủ
trong tất cả các khâu, các công đoạn nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh
được diễn ra liên tục, ổn định tránh lãng phí và tổn thất vốn do ngừng sản xuất, không
làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và đảm bảo khả năng sinh lời của tài sản. Do
đó, TSNH trong doanh nghiệp có các đặc điểm sau:
− TSNH có tính thanh khoản cao nên đáp ứng khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
− TSNH là một bộ phận của vốn sản xuất nên nó vận động và luân chuyển không
ngừng trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh.
− TSNH có thể dễ dàng chuyển hóa từ dạng vật chất sang tiền tệ nên cũng vận
động rất phức tạp và khó quản lý.
1.1.4. Phân loại tài sản ngắn hạn
Trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói
chung và quản lý tài chính nói riêng, tuỳ theo yêu cầu quản lý và dựa trên tính chất vận
động của TSNH, người ta có thể phân loại TSNH như sau:
1.1.4.1. Phân loại theo quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn
Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, TSNH được chia thành:
TSNH dự trữ: là toàn bộ TSNH tồn tại trong khâu dự trữ của doanh nghiệp mà
không tính đến hình thái biểu hiện của chúng, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân
hàng, tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên nhiên vật liệu tồn kho, công
cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước cho người bán.
TSNH sản xuất: là toàn bộ TSNH tồn tại trong khâu sản xuất của doanh nghiệp,
bao gồm: giá trị bán thành phẩm, các chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, chi phí trả
2
Thang Long University Library
trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản chi phí khác phục vụ cho quá trình sản
xuất…
TSNH lưu thông: là toàn bộ TSNH tồn tại trong khâu lưu thông của doanh
nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, các khoản nợ phải thu của khách
hàng.
Theo cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xác định được
các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình luân chuyển của TSNH để đưa ra biện pháp quản
lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chúng một cách cao nhất.
1.1.4.2. Phân loại theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán
Căn cứ vào các khoản mục trong bảng cân đối kế toán TSNH bao gồm: tiền, các
khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và TSNH khác.
Tiền mặt
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh
nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản
cố định, trả tiền thuế, trả nợ.
Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do vậy trong quản lý tiền mặt thì
việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất.
Các khoản đầu tư ngắn hạn
Mục tiêu của các doanh nghiệp là việc sử dụng các loại tài sản sao cho hiệu quả
nhất. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền
mặt vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả
năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt
một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí. Do đó trong quản trị tài chính người ta sử
dụng chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong
muốn.
Ta thấy tiền mặt là một hàng hóa nhưng đây là hàng hóa đặc biệt-một tài sản có
tính lỏng nhất. Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần một lượng tiền mặt và phải dùng
nó để trả cho các hóa đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền mặt này hết, doanh nghiệp
phải bán các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để có lượng tiền như ban đầu.
Ta có thể thấy điều này qua sơ đồ luân chuyển sau:
3
Sơ đồ 1.1 Sơ đồ luân chuyển các khoản đầu tư ngắn hạn
Các chứng khoán thanh
khoản cao
Đầu tư tạm thời bằng
cách mua chứng
khoán có tính thanh
khoản cao
Dòng thu tiền
mặt
Bán những chứng
khoán thanh khoản
cao để bổ sung cho
tiền mặt.
Tiền mặt
Dòng chi tiền
mặt
[1]
Các khoản phải thu
Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là một việc không thể thiếu. Các
doanh nghiệp bán hàng song có thể không nhận được ngay tiền hàng lúc bán mà nhận
sau một thời gian xác định mà hai bên thoả thuận hình thành nên các khoản phải thu
của doanh nghiệp.
Việc cho các doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín dụng thương
mại. Với hình thức này có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở
nên giàu có nhưng cũng không tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Khoản phải thu giữ một vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý không cân đối
giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn thâm chí dễ dẫn
đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
Hàng tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất, kinh doanh
thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm cần thiết cho quá
trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
4
Thang Long University Library
Hàng hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất,
kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp không thể tiến hành
sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ.
Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra LN nhưng nó có vai trò rất lớn để cho
quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bình thường. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp
dự trữ quá nhiều sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn thậm chí nếu sản phẩm khó bảo quản có
thể bị hư hỏng, ngược lại nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị
gián đoạn, các khâu tiếp theo sẽ không thể tiếp tục được nữa đồng thời với việc không
hoàn thành được kế hoạch sản xuất.
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm tại từng công đoạn
của dây truyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được
chia thành nhiều công đoạn, giữa những công đoạn này bao giờ cũng tồn tại những bán
thành phẩm. Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục. Nếu dây
truyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công đoạn thì tồn kho trong quá trình sản
xuất sẽ càng lớn.
Khi tiến hành sản xuất xong hầu hết các doanh nghiệp chưa thể tiêu thụ hết sản
phẩm. Phần thì do có “độ trễ” nhất định giữa các sản xuất và tiêu dùng, phần phải có
đủ lô hàng mới xuất được... Những doanh nghiệp mà sản xuất mang tính thời vụ và có
quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì dự trữ, tồn kho sản phẩm sẽ lớn.
Do đó để đảm bảo cho sự ổn định sản xuất, doanh nghiệp phải duy trì một lượng
hàng tồn kho dự trữ an toàn và tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà mức dự trữ an
toàn khác nhau.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay thì việc nâng cao hiệu quả sử
dụng TSNH có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh
nghiệp. Thực tiễn nhiều năm trở lại đây cho thấy TSNH ở một số doanh nghiệp được
sử dụng còn tùy tiện, kém hiệu quả đặc biệt là ở các doanh nghiệp nhà nước. Do đó,
việc sử dụng hiệu quả TSNH hiện nay luôn là yêu cầu mang tính cấp thiết đối với sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm,
quản trị kinh doanh sản xuất có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại trên thị
trường. Để đạt được hiệu quả đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có nhiều cố gắng và có
những chiến lược sách lược hợp lý từ khâu sản xuất cho đến khi sản phẩm được đến
5
tay người tiêu dùng. Mục đích cuối cùng của họ bao giờ cũng là đạt được những mục
tiêu mà họ đề ra. Chính vì vậy quan niệm hiệu quả của mỗi doanh nghiệp là khác nhau.
Tuy nhiên để đi đến mục đích cuối cùng thì vấn đề chung mà các doanh nghiệp đều
phải quan tâm chú trọng đến đó chính là hiệu quả sử dụng vốn và tài sản trong doanh
nghiệp.
Hiệu quả kinh tế (hiệu quả kinh doanh) là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp hoặc xã hội để đạt được
kết quả kinh doanh cao nhất với chi phí thấp nhất, hay nói cách khác: hiệu quả kinh tế
đó là sự so sánh giữa kết quả đầu ra với yếu tố đầu vào hoặc giữa kết quả với chi phí
gắn liền với hoạt động kinh doanh nào đó
Hiệu quả kinh doanh = Kết quả/Chi phí
Hoặc :
Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu vào/Yếu tố đầu vào
Cách đánh giá này được hầu hết các nhà kinh tế công nhận và được sử dụng rộng
rãi trong thực tê. Nó cho phép đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, đồng thời còn so sánh được hiệu quả của các năm hoặc giữa các doanh
nghiệp với nhau.
Về mặt lượng, hiệu quả kinh tế biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được
và chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao
so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả kinh tế càng cao
Về mặt chất, việc đạt hiệu quả cao phản ánh năng lực và trình độ quản lý đồng
thời cũng đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được những mục tiêu kinh tế và đạt được
những mục tiêu xã hội. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng, nó là điều kiệc cơ bản để doanh nghiệp có
thể tồn tại và phát triển
1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả sử dụng TSNH là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều mặt tác động khác
nhau. Vì vậy, khi phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng TSNH ta cần xem xét trên
nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.
1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài sản ngắn hạn tổng quát
Chỉ tiêu khả năng sinh lời
Các chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ của LN sau thuế với doanh thu của Công
ty tạo ra. Các chỉ tiêu sinh lời cho biết mỗi đồng doanh thu thu được trong kì sẽ đem
6
Thang Long University Library
về được bao nhiêu đồng LN hay LN bằng bao nhiêu phần trăm doanh thu trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
− Tỷ suất sinh lời trên doanh thu
LN sau thuế
ROS
=
Doanh thu
Tỷ số này cho biết LN chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Tỷ số này
mang giá trị dương nghĩa là Công ty kinh doanh có lãi; tỷ số càng lớn nghĩa là lãi càng
lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là Công ty kinh doanh thua lỗ.
Tuy nhiên, tỷ số này phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng ngành. Vì thế,
khi theo dõi tình hình sinh lợi của Công ty, người ta so sánh tỷ số này của Công ty với
tỷ số bình quân của toàn ngành mà Công ty đó tham gia. Mặt khác, tỷ số này và
số vòng quay tài sản có xu hướng ngược nhau. Do đó, khi đánh giá tỷ số này, người
phân tích tài chính thường tìm hiểu nó trong sự kết hợp với số vòng quay tài sản.
− Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
LN sau thuế
ROE
=
Vốn chủ sở hữu
Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo
ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với
các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu
của Công ty nào.
Tỷ lệ LN ròng trên vốn chủ sở hữu càng cao càng chứng tỏ Công ty sử dụng hiệu
quả đồng vốn của cổ đông, có nghĩa là Công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn
cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy
động vốn, mở rộng quy mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp
dẫn các nhà đầu tư hơn.
− Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
LN sau thuế trên tổng tài sản đối với các Công ty cổ phần có sự khác biệt rất lớn
và phụ thuộc nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử dụng ROA để so
sánh các Công ty, tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi Công ty qua các năm và so
giữa các Công ty tương đồng nhau.
7
LN sau thuế
ROA
=
Tổng tài sản
Tài sản của một Công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai
nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của Công ty. Hiệu quả của
việc chuyển vốn đầu tư thành LN được thể hiện qua ROA. ROA càng cao thì càng tốt
vì Công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.
Chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Do đặc điểm của TSNH có tính thanh khoản cao, cho nên việc sử dụng hiệu quả
TSNH là sự lựa chọn đánh đổi giữa khả năng sinh lời với tính thanh khoản. Do đó, khi
phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp thì người ta thường sử dụng các chỉ
tiêu sau đây:
− Hệ số thanh toán tổng quát
Tổng tài sản
Hệ số thanh toán tổng quát =
Tổng nợ phải trả
Chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp tại thời điểm
phân tích. Chỉ tiêu này càng cao, lớn hơn hoặc bằng một, doanh nghiệp bảo đảm được
khả năng thanh toán các khoản nợ phải trả từ tài sản hiện có. Chỉ tiêu này thấp, nhỏ
hơn một, kéo dài trong một khoản thời gian, doanh nghiệp không thanh toán được
khoản nợ phải trả, dấu hiệu rủi ro tài chinh xuất hiện, nguy cơ phá sản sẽ xảy ra.
− Hệ số thanh toán ngắn hạn
Đây là một trong những thước đo khả năng thanh toán của một doanh nghiệp,
được sử dụng rộng rãi nhất là hệ số thanh toán ngắn hạn.
TSNH
Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán ngắn hạn cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể
chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này đo
lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
8
Thang Long University Library
Nếu hệ số thanh toán ngắn hạn giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm, đó là
dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra. Nếu hệ số này cao, điều đó
có nghĩa là doanh nghiệp luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu hệ số
này cao quá sẽ giảm hiệu quả hoạt động vì doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào TSNH.
−
Hệ số thanh toán nhanh
TSNH - Hàng tồn kho
Hệ số thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán nhanh được tính toán trên cơ sở những tài sản lưu ngắn hạn có
thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng còn được gọi là tài sản có tính
thanh khoản, tài sản có tính thanh khoản bao gồm tất cả TSNH trừ hàng tồn kho. Do
đó, hệ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không
phụ thuộc vào hàng tồn kho.
− Hệ số thanh toán tức thời
Tiền và các khoản tương đương
Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán bằng tiền được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho
nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi
thành tiền: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Do vậy, tỷ lệ thanh toán
tức thời cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền và các khoản
tương đương tiền. Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, để
kết luận giá trị hệ số thanh toán tức thời là tốt hay xấu cần xác định đặc điểm và điều
kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 sẽ gặp khó khăn trong
việc thanh toán nợ.
− Hệ số thanh toán lãi vay
Lãi trước thuế và lãi vay
Hệ số thanh toán lãi vay =
Lãi vay
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ LN đảm bảo khả năng trả lãi
như thế nào. Nếu Công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi đến gây sức ép lên
Công ty, thậm chí dẫn tới phá sản Công ty. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay được
9
tính bằng tỷ số giữa LN trước thuế và lãi vay (EBIT) trên lãi vay. Việc tìm xem một
Công ty có thể thực hiện trả lãi đến mức độ nào cũng rất quan trọng. Rõ ràng, khả
năng thanh toán lãi vay càng cao thì khả năng thanh toán lãi của doanh nghiệp cho các
chủ nợ của mình càng lớn.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn chung
Trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp các hệ thông chỉ tiêu tài chính được
đưa ra để đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp trong một niên độ kế toán là không
thể thiếu. Qua quá trình phân tích hệ thống chỉ tiêu này thì doanh nghiệp có thể đánh
giá hiệu quả hoạt động của mình và đưa ra các giải pháp cần thiết để khắc phục khó
khăn trong niên độ tiếp theo. Để đánh giá khách quan hiệu quả sử dụng TSNH chúng
ta có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
− Hiệu suất sử dụng TSNH
DTT
Hiệu suất sử dụng TSNH =
TSNH bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị TSNH trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị DTT.
Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSNH càng cao.
TSNH bình quân trong kỳ là bình quân số học của TSNH có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
− Suất hao phí của TSNH so với DTT
Suất hao phí của tài sản
ngắn hạn so với doanh thu
TSNH bình quân
=
DTT
Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng doanh thu doanh nghiệp phải bỏ ra bao
nhiều đồng TSNH, đó chính là căn cứ để đầu tư một cách thích hợp, chỉ tiêu này càng
thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSNH càng cao.
− Tỷ suất sinh lời của TSNH
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của TSNH. Nó cho biết mỗi đơn vị TSNH có
trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị LN sau thuế.
10
Thang Long University Library
Tỷ suất sinh lời của
TSNH
LN sau thuế
=
TSNH bình quân
Chỉ tiêu này cao phản ánh LN sau thuế của doanh nghiệp cao, các doanh nghiệp
đều mong muốn chỉ số này càng cao càng tốt vì như vậy đã sử dụng được hết giá trị
của TSNH. Hiệu quả của việc sử dụng TSNH thể hiện ở LN của doanh nghiệp, đây
chính là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Kết quả này phản ánh hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng TSNH nói riêng. Với
công thưc trên ta thấy, nếu TSNH sử dụng bình quân trong kỳ thấp mà LN sau thuế
cao thì hiệu quả sử dụng TSNH cao.
− Suất hao phí của TSNH so với LN sau thuế
Suất hao phí của tài sản
ngắn hạn so với LN sau
thuế
TSNH bình quân
=
LN sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng LN sau thuế cần bao nhiều đồng TSNH
bình quân. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hiểu quả sử dụng TSNH càng cao, chỉ tiêu
này là căn cứ để các doanh nghiệp dự đoán nhu cầu về TSNH khi muốn có mức độ LN
mong muốn.
− Thời gian quay vòng TSNH
Thời gian quay vòng
TSNH
360
=
Hiệu suất sử dụng TSNH
Chỉ tiêu này cho biết mỗi vòng quay của TSNH bình quân mất bao nhiều ngày.
Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ TSNH vận động nhanh, góp phần nâng cao doanh thu
và LN cho doanh nghiệp.
− Mức tiết kiệm TSNH
Mức tiết kiệm TSNH có được do tăng hiệu suất sử dụng TSNH được biểu hiện
bởi hai chỉ tiêu là mức tiết kiệm tương đối và tuyệt đối.
11
Mức tiết kiệm TSNH tuyệt đối: Nếu quy mô kinh doanh không thay đổi việc
tăng hiệu suất sử dụng TSNH đã giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được một
lượng vốn lưu động TSNH có thể rút ra luân chuyển dung vào công việc khác.
Công thức xác định:
M0
Vtuyệt đối
=
M0
-
V1
V0
Mức tiết kiệm TSNH tương đối: Nếu quy mô kinh doanh được mở rộng việc
tăng hiệu suất sử dụng TSNH đã giúp doanh nghiệp không cần tăng thêm
TSNH hoặc bỏ ra số TSNH ít hơn so với trước. Công thức xác định:
M1
Vtương đối
=
M1
-
V1
V0
Trong đó:
Vtuyệt đối : TSNH tiết kiệm tuyệt đối
Vtương đối: TSNH tiết kiệm tương đối
M0: DTT kì trước
M1: DTT kì này
V0: Hiệu suất sử dụng TSNH kì trước
V1: Hiệu suất sử dụng TSNH kì này
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nên
TSNH
Là các hệ số đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Để nâng cao hệ số
hoạt động, các nhà quản trị phải biết những tài sản nào chưa sử dụng, không sử dụng
hoặc không tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp cần phải biết cách
sử dụng chúng sao cho có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Hệ số hoạt động đôi khi còn
gọi là hệ số hiệu quả hoặc hệ số luân chuyển. Do đó, khi phân tích các chỉ tiêu hoạt
động thì người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
Đánh giá hiệu quả sử dụng khoản phải thu
− Vòng quay các khoản phải thu
Các khoản phải thu là các khoản bán chịu mà doanh nghiệp chưa thu tiền do thực
hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán các khoản trả trước
cho người bán…
12
Thang Long University Library
DTT
Vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu bình quân
Vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc khách
hàng thanh toán các khoản nợ cho doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh toán các khoản
nợ đã đến hạn thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một vòng.
− Kì thu tiền bình quân
Kì thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của doanh
nghiệp. Nếu vòng quay các khoản phải thu cao quá thì sẽ làm giảm sức cạnh tranh,
làm giảm doanh thu.
360
Kỳ thu tiền bình quân
=
Vòng quay các khoản phải thu
Khi phân tích hệ số này, ngoài việc so sánh các năm, so sánh với các doanh
nghiệp cùng ngành, doanh nghiệp cần xem xét kỹ lưỡng tong khoản phải thu để phát
hiện những khoản nợ đã quá hạn để có biện pháp xử lý kịp thời.
Đánh giá hiệu quả sử dụng hàng tồn kho
−
Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn để đánh giá doanh nghiệp sử dụng
hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào.
DTT
Vòng quay của hàng tồn kho =
Hàng tồn kho bình quân
Hàng tồn kho bình quân là bình quân số học của vật tư hàng hoá dự trữ đầu và
cuối kỳ. Các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất luôn phải tính đến mức dự trữ bởi
doanh nghiệp không thể nào đến lúc sản xuất mới mua nguyên vật liệu. Để tránh
trường hợp bị ứ đọng thì doanh nghiệp phải có trước một lượng vật tư hàng hoá vừa
phải bởi nếu quá nhiều doanh nghiệp sẽ mất khoản chi phí để bảo quản vật liệu. Nếu
lượng vật tư quá ít không đủ cho sản xuất sẽ dẫn đến tình trạng tắc nghẽn ở các khâu
tiếp theo.
13
Như vậy chỉ tiêu này rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nó quyết định thời
điểm đặt hàng cũng như mức dự trữ an toàn cho doanh nghiệp. Vòng quay càng cao
thể hiện khả năng sử dụng tài sản lưu động cao.
Vòng quay dự trữ, tồn kho cao thể hiện được khả năng sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp tốt, có như vậy mới đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra. Chỉ tiêu
này cao phản ánh được lượng vật tư, hàng hóa được đưa vào sử dụng cũng như được
bán ra nhiều, như vậy là doanh thu sẽ tăng và đồng thời LN mà doanh nghiệp đạt được
cũng tăng lên.Vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp phụ thuộc vào đặc điểm của tong
ngành nghề kinh doanh, phụ thuộc vào mặt hàng kinh doanh.
− Chu kỳ lưu kho
360
Số ngày của một vòng quay
=
hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho
Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày lượng hàng hàng tồn kho được chuyển đổi thành
doanh thu. Từ chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết cho việc luân chuyển kho vì hàng
tồn kho có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng TSNH ở khâu dự trữ. Hệ số này
chứng tỏ công tác quản lý hàng tồn kho càng tốt, hiệu quả sử dụng TSNH càng cao và
ngược lại.
Đánh giá hiệu quả sử dụng khoản phải trả
Thời gian trả nợ
trung bình
360
=
Hệ số trả nợ
Giá vốn hàng bán + Chi phí chung bán hàng, quản lý
Hệ số trả nợ
=
Phải trả người bán
bình quân
+
Lương, thưởng, thuế phải
trả bình quân
Hệ số trả nợ (hay chính là vòng quay trả nợ) và thời gian trả nợ trung bình là
chỉ tiêu vừa phản ánh uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng vừa phản ánh khả
năng trả nợ của doanh nghiệp. Đối lập với vòng quay khoản phải thu và hàng tồn kho
có xu hướng ngày càng tăng càng tốt thì đối với doanh nghiệp càng chậm trả nợ thì
càng tốt, vậy nên họ rất muốn kéo dài thời gian hoàn trả nợ dẫn đến vòng quay phải trả
thấp. Vòng quay phải trả thấp, số ngày trả nợ kéo dài có thể là dấu hiệu cho thấy Công
ty rất có uy tín và là khách hàng tốt nhất của nhà cung cấp nên được cho trả chậm,
14
Thang Long University Library
nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc trả các
khoản nợ đến hạn.
Thời gian quay vòng tiền trung bình
Thời gian quay vòng tiền
=
trung bình
Kỳ thu tiền
+
bình quân
Thời gian
quay vòng
hàng tồn kho
-
Thời gian
trả nợ trung
bình
Chỉ tiêu thời gian quay vòng tiền là sự kết hợp của ba chỉ tiêu đánh giá công tác
quản lý hàng lưu kho, khoản phải thu, khoản phải trả. Chỉ số này cho biết sau bao
nhiêu ngày thì số vốn của doanh nghiệp được quay vòng để tiếp tục hoạt động sản xuất
kinh doanh kể từ khi doanh nghiệp bỏ vốn ra. Thời gian quay vòng tiền ngắn, chứng tỏ
doanh nghiệp sớm thu hồi được tiền mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý
hiệu quả khi giữ được thời gian quay vòng hàng tồn kho và các khoản phải thu ở mức
thấp, chiếm dụng được thời gian dài đối với các khoản nợ. Tuy nhiên, cũng tùy vào
đặc điểm của ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động, đối với doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thì thời gian quay vòng tiền sẽ
ngắn hơn nhiều so với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh
nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp, ngoài phân tích các chỉ
tiêu nói trên, chúng ta cũng cần nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử
dụng chúng. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng TSNH của doanh
nghiệp nhưng về cơ bản có 2 nhóm nhân tố chính là các nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan.
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp. Trong quá
trình hoạt động, doanh nghiệp luôn chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Để đánh giá
hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp, ngoài việc sử dụng những chỉ tiêu
trên đây ta phải nghiên cứu những nhân tố tác động từ đó đưa ra các giải pháp để hạn
chế những tác động không tốt và phát huy thêm những tác động tích cực.
15
1.3.1.1. Mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Với mục đích sản xuất kinh doanh của mình doanh nghiệp sẽ quyết định trong
việc phân phối tài sản, đặc biệt là chu kỳ sản xuất kinh doanh. Sản phẩm của mỗi
doanh nghiệp là khác nhau do vậy mà có những doanh nghiệp chu kỳ sản xuất dài
nhưng doanh nghiệp khác chu kỳ sản xuất lại ngắn, điều đó có ảnh hưởng đến việc ra
quyết định của doanh nghiệp trong việc sử dụng TSNH. Để đi vào sản xuất thì lượng
TSNH cần đưa vào là bao nhiêu, mức dự trữ dành cho các chu kỳ tiếp theo như thế
nào, lượng tiền mặt doanh nghiệp cần giữ cũng như kỳ thu tiền dài hay ngắn tuỳ thuộc
vào từng doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài thì
thời gian thu hồi vốn càng lâu, nên các doanh nghiệp luôn tìm cách làm cho chu kỳ
kinh doanh ngắn hơn như vậy vòng quay TSNH nhanh hơn. Vòng quay TSNH tăng
tức là việc tiêu thụ hàng hóa cũng tăng lên và như vậy doanh thu tăng lên, làm cho LN
của doanh nghiệp cũng tăng. Điều đó thể hiện hiệu quả sử dụng TSNH tăng.
1.3.1.2. Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Chính sách quản lý TSNH có anh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng TSNH của
doanh nghiệp vì chính sách quản lý TSNH hợp lý và phù hợp với ngành nghề kinh
doanh và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thì TSNH sẽ được khai thác hết giá
trị của nó và mang lại LN cho doanh nghiệp đồng thời chi phí bỏ ra đầu tư cho TSNH
được sử dụng hợp lý.
Chính sách quản lý tiền mặt
Tiền mặt của Công ty bao gồm tiền mặt tồn quỹ, tiền trên tài khoản của ngân
hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền
thuế, trả các khoản nợ đến hạn… Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi,
do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hóa lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu
quan trọng nhất. Có hai mô hình được sử dụng để tính toán mức dự trữ tiền mặt hợp
lý đó là mô hình Baumol hoặc mô hình Miller Orr
− Mô hình Baumol
Khi dự trữ tiền mặt, doanh nghiệp sẽ mất chi phí cơ hội, tức là lãi suất bị mất đi,
chi phí này tương đương với chi phí tồn trữ hàng hóa trong quản lý hang tồn kho. Chi
phí đặt hàng chính là chi phí cho việc bán các chứng khoán, khi đó áp dụng mô hình
EOQ ta có lượng dự trữ tiền mặt tối ưu (M*) như sau:
16
Thang Long University Library
C* =
2 *T * F
K
Trong đó:
C* : Lượng dự trữ tiền mặt tối ưu
T: Tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm
F: Chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản
K: Lãi suất.
Hình 1.1 Mô hình Baumol
Tổng chi
phí
Chi
Chi phí cơ hội
phí
giữ
tiền
Chi phí giao
dịch
mặt
C*
Quy mô tiền mặt
[1]
Mô hình Baumol cho thấy số dư tiền mặt không thực tiễn ở chỗ giả định rằng
doanh nghiệp chi trả tiền mặt một cách ổn định. Điều này lại không luôn đúng trong
thực tế. Trong hoạt động của các doanh nghiệp rất hiếm khi lượng tiền vào, ra của
doanh nghiệp lại đều đặn và dự kiến trước được. Mức dự trữ tiền mặt dự kiến dao
động trong một khoảng, tức là lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp nhất đến giới
hạn cao nhất. Nếu lượng tiền mặt ở mức thấp thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán
để có lượng tiền dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt
quá mức giới hạn mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt về mức dự kiến.
− Mô hình Miller Orr
Ngoài mô hình Baumol ở trên còn có thể sử dụng mô hình Miller Orr để tính
toán mức dự trữ tối ưu. Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp rất
hiếm khi mà lượng tiền vào, ra của doanh nghiệp lại đều đặn và dự kiến trước được, từ
17
đó tác động đến mức dự trữ cũng không thể đều đặn như tính toán. Bằng việc nghiên
cứu và phân tích thực tiễn, Miller Orr đã đưa ra mức dự trữ tiền mặt dự kiến dao động
trong một khoảng tức là lượng tiền mặt dự kiến dao động trong một khoảng tức là
lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp nhất đến giới hạn cao nhất. Nếu lượng tiền
mặt ở dưới mức thấp thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền mặt ở
mức dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá mức
giới hạn mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt về mức dự kiến.
Hình 1.2 Mô hình Miller Orr
[1]
Chính sách quản lý tín dụng
`Các khoản phải thu của doanh nghiệp thường chịu tác động của các nhân tố
như số lượng; giá cả hàng hoá, dịch vụ bán ra; sự thay đổi doanh thu theo mùa vụ;
chính sách tín dụng thương mại(chính sách bán chịu) của doanh nghiệp … Trong các
nhân tố trên thì chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp là quan trọng nhất,
ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô các khoản phải thu cua doanh nghiệp. Để hiểu rõ vấn
đề này ta phải đi sâu vào nghiên cứu nội dung của chính sách tín dụng thương mại:
− Chính sách tín dụng thưong mại
Trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể sử dụng các chiến lược về
sản phẩm, quảng cáo, giá cả, giao hàng và các dịch vụ hậu mãi … để cạnh tranh với
các đối tác.Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu hàng hoá, dich
18
Thang Long University Library
vụ là việc bình thường, tín dụng thương mại có thể đem đến cho doanh nghiệp nhiều
lợi thế nhưng cũng có thể gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh. Chính sách tín dụng
thương mại có những tác động cơ bản sau:
Do thực hiện chính sách bán chịu nên khách hàng mua nhiều hàng hoá hơn, do
đó làm tăng doanh thu và giảm chi phí tồn kho.
Tín dụng thương mại làm tăng lượng hàng hoá sản xuất ra, do đó góp phần
làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản.
Khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có thể làm tăng thêm chi phí đòi
nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp cho thiếu hụt ngân quỹ.
Nếu thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng cao và làm cho LN bị giảm.
Với những tác động trên ,buộc các nhà quản lý doanh nghiệp phải so sánh hiệu
quả thu nhập và chi phí tăng thêm để xem có nên áp dụng chính sách thương mại hay
không? Nếu có thì các ràng buộc trong chính sách tín dụng thương mại như thế nào là
tốt nhất?
− Phân tích tín dụng thương mại
Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng:
Để thực hiện việc cấp tín dụng thì quan trọng nhất là phải phân tích khả năng
tín dụng của khách hàng. Khả năng tín dụng của khách hàng có thể được xây dựng
thông qua các tiêu chuẩn sau: phẩm chất, tư cách tín dụng, năng lực trả nợ, các tài sản
có thể thế chấp, nguồn vốn kinh doanh của khách hàng… Nếu khả năng tín dụng của
khách hàng phù hợp với một số tiêu chuẩn đó thì tín dụng thương mại có thể được cấp.
Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị:
Cũng như rất nhiều sự phân tích và sự lựa chọn khác nhau,việc phân tích đánh
giá khoản tín dụng thương mại được đề nghị để quyết định xem có nên cấp hay không,
thông thường người ta dựa vào việc tính NPV của luồng tiền.
Theo dõi các khoản phải thu:
Để quản lý hiệu quả các khoản phải thu, nhà quản lý phải biết cách theo dõi
các khoản phải thu, trên cơ sở đó có thể thay đổi chính sách tín dụng thương mại kịp
thời. Thông thường người ta dựa vào các cách sau:
19
Khi kỳ thu tiền bình quân: Tăng lên mà doanh số bán ra và LN không tăng thì
cũng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Khi đó nhà quản
lý phải có biện pháp can thiệp ngay.
Sắp xếp thời gian cho các khoản phải thu: Theo phương pháp này, nhà quản lý
sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian nợ để theo dõi và có biện phap thu nợ
khi đến hạn.
Xác định các khoản phải thu: Theo phương pháp này, các khoản phải thu hoàn
toàn không chịu ảnh hưởng bởi yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán ra. Sử
dụng phương pháp này doanh nghiệp hoàn toàn có thể thấy nợ tồn đọng của khách
hàng nợ doanh nghiệp. Cùng với cách theo dõi khác, người quản lý có thể thấy được
ảnh hưởng của các chính sách tài chính nói chung và chính sách tín dụng thương mại
nói riêng.
Chính sách quản lý hàng tồn kho
Quản lý hàng hóa dự trữ tập chung vào hai loại chi phí chủ yếu là chi phí lưu kho
và chi phí đặt hàng. Trên cơ sở quản trị hai loại chi phí này, doanh nghiệp xác định
được mức tồn kho tối ưu sao cho tối thiểu hóa được chi phí tồn kho mà vẫn đảm bảo
được hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục. Do đó quản trị tốt hàng tồn kho
thì quá trình sử dụng chúng sẽ đạt hiệu quả cao và ngược lại.
Mô hình EOQ là một mô hình quản lý hang tồn kho mang tính định lượng được
sử dụng để xác định mức tồn kho tối ưu cho doanh nghiệp, dựa trên cơ sở giữa chi phí
tồn trữ hàng tồn kho và chi phí đặt hàng có mối quan hệ tương quan tỷ lệ nghịch. Cụ
thể, nếu số lượng sản phẩm cho mỗi lần đặt hàng tăng lên thì số lần đặt hàng trong kỳ
giảm xuống và dẫn đến chi phí đặt hàng trong kì giảm trong khi chi phí tồn trữ hàng
hóa tăng lên. Do đó mục đích của quản lý hàng tồn kho là cân bằng hai loại chi phí:
chi phí tồn trữ và chi phí đặt hàng sao cho tổng chi phí tồn kho là thấp nhất.
Gọi Q là lượng hàng tồn kho cho mỗi lần đặt hàng, khi hết hang doanh nghiệp lại
tiếp tục đặt mua Q đơn vị hàng mới, Tại thời điểm đầu kỳ, lượng hàng tồn kho là Q và
ở thời điểm cuối kỳ là 0 nên số lượng tồn kho bình quân trong kỳ là: Q/2
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -