4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Giáo dục là sự nghiệp trồng người, với mục tiêu đào tạo ra những công
dân tốt cho đất nước. Để đào tạo được những công dân tốt trong tương lai thì
phải kết hợp chặt chẽ giữa dạy kiến thức với dạy người, giữa truyền thụ tinh
hoa tri thức nhân loại với những giá trị truyền thống của dân tộc, giữa giáo
dục tri thức khoa học với giáo dục đạo đức. Chiến lược Giáo dục Việt Nam
giai đoạn 2010-2020 xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên
tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và
động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Hiện nay, do sự tác động và ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường
làm cho đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng. Các hiện tượng học sinh vô
lễ với thầy giáo, cô giáo và những người sinh thành, dưỡng dục mình; học
sinh tụ tập thành băng nhóm quậy phá, ăn chơi, hút chích, đánh nhau, sinh
hoạt bầy đàn… không còn hiếm. Nguyên nhân của những hiện tượng trên có
nhiều, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là sự xuống cấp đạo đức
học sinh đi cùng với sự xuống cấp đạo đức xã hội; việc giáo dục đạo đức
(GDĐĐ) cho các em còn nhiều hạn chế, cả về nội dung và phương pháp, sự
quan tâm GDĐĐ cho các em của nhà trường, xã hội và gia đình.
Trường Phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) Tây Nguyên là trường phổ
thông có nhiều cấp học; học sinh phần nhiều là con em đồng bào các dân tộc
thuộc các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên. Ngoài việc phải thực hiện đầy đủ các
quy chế chung đối với một trường phổ thông, Nhà trường phải làm tốt việc
GDĐĐ cho học sinh để đào tạo ra các thế hệ mới đảm nhiệm sứ mệnh xây
dựng và bảo vệ thành quả cách mạng ở một địa bàn đặc biệt quan trọng của
đất nước. Thời gian qua việc GDĐĐ của Nhà trường tồn tại nhiều bất cập, do
đặc điểm phức tạp của đội ngũ học sinh bán công, chất lượng và hiệu quả quản
lý, rèn luyện học sinh, chất lượng giáo dục học sinh, nhất là bộ phận học sinh
5
bán công có những phức tạp về gia đình, về tư tưởng… Trong bối cảnh đó, việc
biên soạn sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh Trường Phổ thông dân tộc nội trú Tây Nguyên”
là cấp thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nội dung đề tài nhằm trao đổi và thống nhất nhận thức về một
số giải pháp cơ bản GDĐĐ cho học sinh Trường PTDTNT để góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục của Nhà trường.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc nâng cao chất
lượng GDĐĐ cho học sinh ở Trường PTDTNT Tây Nguyên.
- Nghiên cứu đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng
GDĐĐ cho học sinh ở Trường PTDTNT Tây Nguyên.
4. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng GDĐĐ cho học sinh ở Trường PTDTNT.
5. Phạm vi nghiên cứu
Giải pháp nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh ở Trường PTDTNT
Tây Nguyên.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN); đề tài vận dụng
các phương pháp lô-gic, phân tích-tổng hợp và phương pháp chuyên gia.
7. Đóng góp khoa học:
Kết quả sáng kiến giúp giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
Trường PTDTNT Tây Nguyên nghiên cứu vận dụng vào GDĐĐ cho học sinh để
góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT của Nhà trường. Các trường PTDTNT
khác có thể nghiên cứu và vận dụng phù hợp điều kiện thực tế của mình.
8. Kết cấu của đề tài
Gồm mở đầu, hai phần, kết luận, tài liệu tham khảo.
6
Phần 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TÂY NGUYÊN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm
- Khái niệm đạo đức:
Theo cách hiểu chung nhất, được đăng trên các phương tiện thông tin đại
chúng và được thế giới thừa nhận “Đạo đức là tập hợp những quan điểm của
một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế
giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội”.
Khái niệm “Đạo đức” chỉ ra nội hàm, gồm:
Thứ nhất, Đạo đức là thuộc tính của con người và chỉ con người mới có
thuộc tính đạo đức, loài vật không thể được xem là có đạo đức, mặc dù có thể
có những loài vật sống thành bầy đàn và có tính tổ chức rất cao mà trong thực
tế chúng ta vẫn thấy. Đạo đức là một hiện tượng lịch sử, là sự phản ánh của
các quan hệ xã hội.
Thứ hai, Đạo đức được xem là luân thường đạo lý của con người. Nói
đến luân thường đạo lý là đề cập đến sự ứng xử của con người. Sự ứng xử đó
thuộc về những vấn đề tốt - xấu, hay - dở, phải - trái. Đây được xem là là các
chuẩn mực trong quan hệ con người với nhau, là phép ứng xử đúng - sai. Đạo
đức được sử dụng trong các phạm trù: lương tâm con người, hệ thống phép
tắc đạo đức con người, giá trị đạo đức con người. Đạo đức gắn với nền văn
hóa, tôn giáo, triết học, luật lệ… của một xã hội.
Thứ ba, Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại, quá khứ, tương lai,
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư
7
luận xã hội. Đạo đức con người phải được xã hội thừa nhận, phù hợp với
truyền thống văn hóa dân tộc, thuần phong mỹ tục địa phương, phải được số
đông người tán thành, ủng hộ…
Không thể tồn tại thứ đạo đức phi văn hóa truyền thống, đi ngược lại
thuần phong mỹ tục, vô lương tâm. Những thứ được gọi là “đạo đức” đó sớm
muộn cũng bị xã hội phủ định. Bởi lẽ, mọi thời đại đều phê phán, lên án cái
ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội... và biểu dương, ủng hộ cái
thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn...
- Khái niệm về giáo dục đạo đức cho học sinh:
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một mặt của hoạt động giáo dục nhằm
xây dựng cho thế hệ trẻ những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho họ
những quy tắc hành vi thể hiện trong giao tiếp với mọi người, với công việc,
với tổ quốc.
Khái niệm chỉ ra các vấn đề sau:
Thứ nhất, GDĐĐ cần phải được coi trọng đặc biệt, nhất là trong sự
nghiệp cách mạng hiện nay của dân tộc, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu
rộng vào cộng đồng quốc tế, với nhiều nguy cơ và thách thức lớn.
Thứ hai, GDĐĐ cho học sinh là làm cho nhân cách của học sinh phát
triển đúng về mặt đạo đức, tạo cơ sở để học sinh ứng xử đúng đắn trong các
mối quan hệ của cá nhân với bản thân, với người khác (người thân trong gia
đình, bạn bè, thầy cô giáo…), với xã hội, với tổ quốc, với môi trường...
Thứ ba, Các yếu tố ảnh hưởng đến GDĐĐ học sinh, gồm: Gia đình, có
thể nói gia đình là trường học đầu tiên về đạo đức, tính cách người, đặc biệt
trong đó phải nhấn mạnh vai trò cha mẹ, đó là người thầy đầu tiên của con
cái; Nhà trường, với vai trò và chức năng của mình, nhà trường có vai trò hết
sức quan trọng trong GDĐĐ học sinh; Cộng đồng (xã hội) vừa có ảnh hưởng
quan trọng, vừa giữ vai trò hỗ trợ tích cực trong GDĐĐ cho các em.
8
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về đạo đức và giáo dục đạo đức
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và GDĐĐ:
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa (XHCN), mỗi một con người, trước hết là đội ngũ cán bộ phải
luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Từ quan điểm về vai trò cực kỳ quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh
luôn luôn quan tâm vấn đề giáo dục đạo đức. Ngay từ những năm 1920 bài
giảng đầu tiên của Người cho lớp thanh niên trí thức yêu nước Việt Nam là
“tư cách của một người cách mạng”. Trước khi về cõi vĩnh hằng, Người để lại
cho dân tộc ta một tài sản vô cùng quý giá: “Di chúc Hồ Chí Minh”, trong đó
Người dành một phần để nói về vấn đề đạo đức, Người dặn: “Đảng phải quan
tâm chăm lo GDĐĐ cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì
có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”; “Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”; “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”; và “Có tài mà không có
đức là người vô dụng”.
- Quan điểm của ĐCSVN về giáo dục đạo đức:
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức cách mạng và xây dựng đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, thông
qua các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) Đảng chủ trương: “Nâng cao đạo
9
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, xứng đáng là người lãnh đạo, người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Mỗi người, trước hết là cán bộ, đảng
viên phải “vì lợi ích cách mạng, chứ không vì địa vị, tư lợi”; cán bộ, đảng
viên phải là người trung thực, không giả dối, nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi
với việc làm, nhìn thẳng vào sự thật, không giấu giếm khuyết điểm và phẩm
chất ấy phải được thường xuyên rèn luyện.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, dưới sự tác động của quy luật kinh tế thị trường và hội nhập
sâu rộng vào đời sống quốc tế, Đảng chủ trương: Quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, coi trọng cả đức và tài, đức là gốc”.
Các kỳ Đại hội IX và X Đảng đều khẳng định việc không ngừng học tập, rèn
luyện nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo
đức và lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Đại hội Đảng lần thứ XI xác định: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải không
ngừng tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống;
kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình của
các thế lực thù địch; phê phán, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”.
Điểm qua một vài dẫn chứng để khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta luôn luôn quan tâm và thường xuyên coi trọng việc GDĐĐ cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Giáo dục đạo đức phải được tiến hành ở tổ chức, đơn
vị, đặc biệt đối với nhà trường, nơi đào tạo ra những người chủ tương lai của
đất nước. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và thực hiện tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức, đòi hỏi GD-ĐT phải toàn diện, trong đó đặc biệt coi
trọng giáo dục đạo đức cho học sinh. Để xây dựng đạo đức cách mạng thì công
tác giáo dục phải đi tiên phong, vì “Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên
tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và
động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [Chiến lược Giáo dục Việt
Nam giai đoạn 2010-2020].
10
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Đặc điểm Trường Phổ thông dân tộc nội trú Tây Nguyên;
thuận lợi và khó khăn của giáo dục đạo đức cho học sinh
- Đặc điểm Trường PTDTNT Tây Nguyên
Trường PTDTNT Tây Nguyên là một trường chuyên biệt, có cả học sinh
cấp Trung học cơ sở và cấp Trung học phổ thông. Vì có nhiều cấp học, do đó về
quản lý nhà nước cũng như quản lý chuyên môn, Trường chịu sự quản lý và chỉ
đạo đồng thời của hai cơ quan quản lý giáo dục, gồm Phòng Giáo dục & Đào tạo
(GD & ĐT) thành phố Buôn Ma Thuột, và Sở GD & ĐT tỉnh Đắk Lắk.
Học sinh Trường PTDTNT Tây Nguyên từ khắp các vùng, miền của 5
tỉnh Tây Nguyên, là con em của đồng bào 18 dân tộc ở Tây Nguyên. Đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi vùng miền của học sinh khác nhau, cho nên việc
GDĐĐ cho học sinh luôn được nhà trường xác định là một trong những
nhiệm vụ đặc biệt quan tâm.
Hiện nay Nhà trường kết hợp đào tạo học sinh cử tuyển do cơ quan bảo
trợ cấp trên phân bổ chỉ tiêu, với học sinh bán công nhà trường tuyển chọn
hàng năm. Đây là đặc điểm chi phối thường xuyên nhất tới công tác đào tạo
và quản lý, rèn luyện học sinh của Nhà trường, trong đó có việc GDĐĐ cho
học sinh, đặc biệt là học sinh diện bán công.
Từ các đặc điểm trên đòi hỏi công tác giáo dục nói chung, GDĐĐ nói
riêng phải nắm chắc đặc điểm tâm lý, sinh lý của học sinh THCS và học sinh
THPT; đồng thời phải nắm chắc đối tượng GDĐĐ là học sinh bán công có
những mối quan hệ và nguồn gốc xuất thân nhiều em hết sức phức tạp. Vì
vậy, việc GDĐĐ phải có các nội dung, biện pháp phù hợp tâm lý lứa tuổi học
sinh, tâm lý người dân tộc thiểu số, tâm lý học sinh bán công; phải nghiên
cứu, vận dụng linh hoạt nội dung, biện pháp giáo dục, truyền đạt phù hợp
từng loại đối tượng; phải biết kết hợp các biện pháp giáo dục - động viên thuyết phục, khen thưởng và nêu gương tốt… uyển chuyển, linh hoạt.
11
- Thuận lợi và khó khăn trong GDĐĐ cho học sinh Trường PTDTNT
Tây Nguyên
+ Thuận lợi:
Trường luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ về mọi mặt của đơn vị bảo
trợ, của Sở GD & ĐT tỉnh Đắc Lắc, của Phòng GD & ĐT thành phố Buôn Ma
Thuột, của cấp ủy và chính quyền cùng các ban, ngành liên quan của tỉnh,
thành phố và địa phương nơi Trường đứng chân.
Phần đông cán bộ, giáo viên, công nhân viên có lập trường chính trị kiên
định vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; mong muốn
đóng góp xây dựng Tây Nguyên, xây dựng Đắk Lắk; có trách nhiệm cao và
tình thương yêu học sinh… Đây là thuận lợi rất cơ bản và là nền tảng vững
chắc để Trường hoàn thành nhiệm vụ đào tạo nói chung, GDĐĐ cho học sinh
nói riêng.
Đội ngũ giáo viên của Trường đạt chuẩn và trên chuẩn về chuyên môn;
nhiều thầy cô là giáo viên dạy giỏi, có kinh nghiệm trong giảng dạy và nghiên
cứu, ứng dụng các sáng kiến kinh nghiệm dạy học, là cơ sở để Trường có thể
nâng cao chất lượng đào tạo nói chung, GDĐĐ cho học sinh nói riêng.
+ Khó khăn:
Lãnh đạo Nhà trường và đội ngũ giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm
GDĐĐ cho học sinh của một trường nội trú, với những đặc điểm riêng biệt về
đối tượng học sinh, về tâm sinh lý dân tộc, nhất là đặc điểm của học sinh diện
bán công quá phức tạp về tư tưởng, quan hệ…
Việc GDĐĐ cho học sinh bán công khó và rất phức tạp, do hoàn cảnh
nhiều em mồ côi, gia đình không hạnh phúc, cha mẹ bất hòa, ly hôn… ít có
điều kiện chăm sóc con cái và bản thân; có em đã va vấp ngoài xã hội, tâm lý
bất cần, chai sạn. Mặt khác, mặt bằng kiến thức một số học sinh bán công
nhìn chung thấp, tiếp thu chậm, hổng kiến thức các lớp dưới nên khó nâng
cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là GDĐĐ cho các em.
Không ít học sinh ham chơi, lười học, thiếu chịu khó rèn luyện, tu dưỡng
12
không chỉ làm cản trở kết quả học tập mà còn ảnh hưởng đến chất lượng, kết
quả GDĐĐ học sinh của Nhà trường.
1.2.2. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh ở Trường Phổ thông
dân tộc nội trú Tây Nguyên
- Điểm mạnh:
Công tác giáo dục của nhà trường, trong đó có GDĐĐ đối với học sinh
nội trú được cấp ủy-Ban Giám hiệu hết sức quan tâm. Nhà trường đã thực
hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ để góp phần nâng cao
chất lượng GD-ĐT của Nhà trường.
Nhà trường tiến hành nhiều biện pháp: tổ chức cho học sinh học tập qui
chế, quy định, nội quy; duy trì nề nếp nội vụ sạch đẹp, xây dựng nếp sống kỷ
luật, kỷ cương; tổ chức cho các em đi thăm các di tích lịch sử, di tích cách
mạng trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột; tích cực tổ chức các hoạt động
tập thể như mừng sinh nhật, hoạt động văn hóa, phát động phong trào tăng
gia, chăm sóc vườn hoa cây cảnh… Qua đó góp phần quan trọng vào việc
định hướng tư tưởng cho các em để củng cố và nâng cao chất lượng GDĐĐ.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động bề nổi như: thi đấu bóng đá, bóng
chuyền, thi văn nghệ vào tối thứ tư hàng tuần, đã thu hút học sinh tham gia
tích cực, có hiệu quả, tạo tinh thần đoàn kết trong nội bộ học sinh, vừa góp
phần hạn chế học sinh vi phạm kỷ luật, vừa củng cố nội dung GDĐĐ cho
các em.
Nhờ vậy, đa số học sinh nội trú an tâm tư tưởng, tích cực học tập và rèn
luyện, biết khắc phục khó khăn để vươn lên. Các hiện tượng học sinh trốn ra
ngoài chơi trò điện tử, trốn về nhà, uống rượu, gây gổ… đã giảm nhiều.
- Hạn chế:
Nội dung, hình thức, phương pháp GDĐĐ cho học sinh của một số giáo
viên chưa khéo léo và phù hợp đặc điểm tâm sinh lý các em. Hình thức tổ chức
dạy học đơn điệu, giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình, độc
thoại... làm cho hiệu quả GDĐĐ bị hạn chế.
13
Có giáo viên còn coi nhẹ công tác GDĐĐ cho học sinh. Một số thầy cô
giáo chỉ quan tâm đến việc truyền thụ kiến thức văn hoá, chưa thực sự chú
trọng đến việc giảng dạy tốt môn học đạo đức cho các em. Nếu có dạy chỉ
cung cấp cho các em về mặt lý thuyết mà coi nhẹ thực hành.
Một số giáo viên chưa nhận thức rõ vấn đề này, chưa quán triệt một cách
đúng đắn, sâu sắc nội dung cũng như tầm quan trọng của GDĐĐ cho các em
thông qua bài giảng của môn Giáo dục công dân, thông qua việc phối kết hợp
giữa nhà trường - gia đình - xã hội.
Các hoạt động và phong trào chưa thường xuyên và có chiều sâu; hoạt
động của Ban chấp hành Đoàn, Đội Thiếu niên tính hiệu quả chưa cao nên sức
lan tỏa, sự thu hút học sinh vào các hoạt động này để góp phần nâng cao chất
lượng GDĐĐ cho các em.
Kết luận phần 1
Trường PTDTNT Tây Nguyên là trường trung học có nhiều cấp học và
mang tính chuyên biệt. Nhà trường có những đặc điểm riêng tác động, chi phối
thường xuyên đến công tác giáo dục nói chung, GDĐĐ cho học sinh nói riêng
mà lãnh đạo nhà trường và đội ngũ giáo viên cần nhận thức đầy đủ để có những
nội dung, biện pháp GDĐĐ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực trạng công tác GDĐĐ của Nhà trường trong thời gian qua, bên
cạnh những điểm mạnh cũng còn nhiều hạn chế. Việc xác định rõ điểm mạnh,
điểm yếu là cơ sở để đề ra các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường GDĐĐ
cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của Nhà trường.
14
Phần 2
YÊU CẦU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TÂY NGUYÊN
2.1. YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
TÂY NGUYÊN
2.1.1. Giáo dục đạo đức cho học sinh phải kết hợp nhiều nội dung
biện pháp, huy động nhiều tổ chức, lực lượng tham gia để tạo ra sức
mạnh tổng hợp
Muốn nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh thì Nhà trường phải tạo
ra và phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng cùng tham gia,
với nhiều nội dung, biện pháp, hình thức, cách làm phong phú. Phát huy sức
mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng toàn Trường nhằm làm chuyển
biến chất lượng GDĐĐ, góp phần quan trọng và hiệu quả tích cực vào việc
nâng cao chất lượng GD-ĐT của Nhà trường.
Nếu GDĐĐ cho học sinh tiến hành tách rời, sử dụng các biện pháp riêng
rẽ, đơn lẻ sẽ không thể mang lại hiệu quả tích cực. Bởi vì, với một trường nội
trú, việc quản lý học sinh đòi hỏi phải được tiến hành mọi lúc, mọi nơi, cả quá
trình học sinh học tập và tự học, trong thời gian học sinh ngủ, nghỉ cũng như
trong các hoạt động giải trí, vui chơi hay các hoạt động ngoại khóa… để thực
hiện tốt điều đó đòi hỏi trước hết học sinh phải tự giác trong học tập, rèn
luyện. Mà muốn học sinh tự giác học tập, rèn luyện thì phải có ý thức, nghĩa
là vấn đề đạo đức học sinh đã được nâng lên. Việc nâng cao đạo đức học sinh
phải trên cơ sở nâng cao chất lượng GDĐĐ của Nhà trường.
Hiện nay, tình hình học sinh vi phạm kỷ luật, vi phạm nội quy ngày càng
nhiều và diễn biến phức tạp. Muốn làm giảm việc vi phạm của học sinh thì
vấn đề nâng cao hạnh kiểm là hết sức quan trọng. Nâng cao hạnh kiểm của
học sinh phải bắt đầu từ nâng cao đạo đức học sinh, nâng cao chất lượng và
15
hiệu quả GDĐĐ. Để nâng cao chất lượng GDĐĐ học sinh phải huy động
được sự tham gia của các tổ chức, của toàn trường. Đó là, sự lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp ủy, Ban Giám hiệu; sự đồng thuận của Nhà trường với Hội cha mẹ
học sinh Nhà trường và Hội cha mẹ học sinh từng lớp; sự vào cuộc của công
đoàn nhà trường, các thầy giáo, cô giáo, của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, Đội Thiếu niên tiền phong…
Mỗi nội dung biện pháp có vai trò, ý nghĩa khác nhau. Vì vậy, phải
tiến hành đồng bộ để phát huy sức mạnh tổng hợp làm chuyển biến chất
lượng GDĐĐ học sinh, góp phần thiết thực nâng cao chất lượng GD-ĐT
của Nhà trường.
2.1.2. Giáo dục đạo đức cho học sinh phải góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo của Nhà trường
Đối với một nhà trường phổ thông thì vấn đề dạy người phải đi đôi và
gắn liền truyền đạt kiến thức, để các em lĩnh hội tri thức nhân loại đồng thời
phải có lòng yêu tổ quốc Việt Nam, yêu con người Việt Nam, yêu vùng đất
Tây Nguyên hùng vĩ, yêu quý và trân trọng các giá trị văn hóa và truyền
thống cách mạng của các dân tộc Tây Nguyên… Vì vậy, việc GDĐĐ cho học
sinh phải nhằm làm cho công tác giáo dục của Nhà trường ngày càng được
nâng lên. Chỉ khi nào học sinh được giáo dục về ý thức trách nhiệm công dân,
về lòng tự hào của quê hương, dân tộc, thì khi đó học sinh mới tự giác, chịu
khó học tập, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, hạnh kiểm, nghĩa là vấn đề đạo
đức đã được nâng lên.
Do đó, các nội dung, biện pháp, hình thức giáo dục và quản lý, rèn luyện
học sinh phải nhằm vào và hướng tới nâng cao đạo đức học sinh, làm cho tỉ lệ
hạnh kiểm học sinh được nâng lên, góp phần làm cho chất lượng giáo dục
ngày càng tiến bộ. Nếu việc rèn luyện hạnh kiểm và GDĐĐ không nhằm và
hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường thì không
mang lại ý nghĩa và hiệu quả thiết thực, không giúp gì cho việc nâng cao chất
lượng giáo dục của Trường.
16
Muốn vậy, phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của cấp ủy, Ban
Giám hiệu Nhà trường; phải huy động và kết hợp nhiều tổ chức, lực lượng; sử
dụng đồng bộ nhiều nội dung biện pháp GDĐĐ cho học sinh.
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH CỦA TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC
NỘI TRÚ TÂY NGUYÊN
Để GDĐĐ cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT đối với
một trường nội trú, có các đặc điểm riêng biệt như Trường PTDTNT Tây
Nguyên, đòi hỏi phải tiến hành bằng nhiều nội dung biện pháp, từ nhận thức,
lãnh đạo, chỉ đạo, thay đổi tư duy, phương pháp giáo dục... Trong phạm vi đề
tài, tác giả xin trình bày một số giải pháp cơ bản trong số nhiều giải pháp mà
Nhà trường đã thực hiện.
2.2.1. Tăng cường công tác lãnh đạo của Chi ủy, Chi bộ và chỉ đạo
của Ban Giám hiệu đối với chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
Chi bộ nhà trường có 26 đảng viên, chi ủy được kiện toàn, là hạt nhân
lãnh đạo và quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của Nhà trường, bảo
đảm cho mọi hoạt động của Nhà trường đi đúng đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, nhà nước và các nghị quyết, chỉ thị của tổ chức Đảng cấp trên,
của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục…
- Vai trò và ý nghĩa:
Nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh là nội dung quan trọng và có
tính cấp thiết trong tình hình hiện nay của Nhà trường. Vì vậy, để tăng
cường GDĐĐ cho học sinh và thường xuyên nâng cao chất lượng GDĐĐ
đòi hỏi phải tăng cường công tác lãnh đạo của chi ủy, chi bộ; Ban Giám hiệu
phải thường xuyên quan tâm và chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát, cả nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục học sinh. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu
để nâng cao phẩm chất, đạo đức của học sinh, nâng cao chất lượng GDĐĐ
cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT của Trường PTDTNT
Tây Nguyên.
17
- Nội dung biện pháp thực hiện:
Một trong những nội dung quan trọng đầu tiên là nghị quyết lãnh đạo
của chi bộ Nhà trường phải thường xuyên giành các nội dung và biện pháp
lãnh đạo, khi cần thiết có thể ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác
GDĐĐ cho học sinh. Nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ thường xuyên hoặc nghị
quyết chuyên đề phải sát với thực tế và đưa ra được các biện pháp phù hợp để
góp phần làm chuyển biến về đạo đức và chất lượng GDĐĐ cho học sinh.
Thông qua nghị quyết để góp phần thống nhất nhận thức của đội ngũ cán
bộ, đảng viên, giáo viên, công nhân viên toàn trường đối với việc GDĐĐ,
nhất là đối với đội ngũ giáo viên nói chung và những giáo viên được phân
công giảng dạy các nội dung có liên quan đến đạo đức học sinh.
Trên cơ sở nghị quyết chi bộ, Ban Giám hiệu tổ chức triển khai thực hiện
các nội dung của nghị quyết về GDĐĐ cho học sinh, thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc các giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân và các nội dung có
liên quan đến đạo đức, ý thức của học sinh. Khi kiểm điểm việc hoàn thành
nhiệm vụ của giáo viên trong từng năm học, phải gắn với nội dung GDĐĐ
đánh giá trình độ, năng lực của giáo viên.
Chi ủy, chi bộ và BGH phải tăng cường kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở giáo
viên GDĐĐ và đội ngũ cán bộ duy trì chế độ, quy định chặt chẽ, nghiêm túc.
Thông qua kiểm tra để phát hiện những vấn đề bất cập, thiếu sót, khuyết
nhược điểm trong giáo dục học sinh về phẩm chất, đạo đức, tư cách, kết hợp
với quản lý, rèn luyện học sinh, nắm chắc diễn biến tư tưởng của các học sinh
yếu kém…, kịp thời đề ra các nội dung, biện pháp nhằm hạn chế những thiếu
sót và sửa chữa, khắc phục các khuyết nhược điểm của học sinh trong học tập,
rèn luyện.
2.2.2. Nghiên cứu chọn đúng, trúng nội dung giáo dục, có nhiều hình
thức, biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
- Vai trò và ý nghĩa:
Đây là giải pháp quan trọng, trực tiếp nâng cao chất lượng GDĐĐ cho
18
học sinh. Với đặc điểm Nhà trường và đặc điểm đội ngũ học sinh là người dân
tộc thiểu số, việc NCS lựa chọn đúng và trúng các nội dung GDĐĐ cho các em
sẽ tác động vào tâm lý các em, tạo ra sự hứng thú cho các em trong học tập và
nâng cao ý thức, nhân cách. Cùng với việc lựa chọn đúng, trúng nj giáo dục,
việc kết hợp nhiều hình thức, biện pháp giáo dục sẽ làm cho hiệu quả GDĐĐ
được nâng lên.
- Nội dung biện pháp thực hiện:
+ Lựa chọn nội dung GDĐĐ cho học sinh:
Lựa chọn đúng, trúng nội dung GDĐĐ cho học sinh phải trên cơ sở
nghiên cứu đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đặc điểm tâm lý dân tộc để xác định các
nội dung cần giáo dục các em. Phải kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục những gì
nhà trường có (tức là những nội dung của sách giáo khoa bắt buộc phải giáo
dục cho các em) với giáo dục những vấn đề các em cần và mong muốn hiểu
biết (là những vấn đề trong xã hội, trong cộng đồng thông qua nghiên cứu,
tìm hiểu, đúc kết của người giáo viên).
Một trong những nội dung quan trọng hàng đầu phải giáo dục và định
hướng tư tưởng học sinh, đó là phải thường xuyên quan tâm giáo dục các em
về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại;
giáo dục lý tưởng cách mạng và mục tiêu phấn đấu của thanh niên, đoàn viên,
đội viên; giáo dục về đạo đức cách mạng và những yêu cầu đối với học sinh,
thanh niên… Việc giáo dục các nội dung trên phải tiến hành thường xuyên,
liên tục và gắn với đối tượng học sinh cụ thể các lớp, với các nội dung bài
giảng của các môn học cụ thể; phải gắn với và kết hợp giáo dục các em về về
con người mới Việt Nam với những tiêu chí cụ thể trong thời kỳ đổi mới đất
nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.
Khi giáo dục cho học sinh về ý thức tự giác, về tính chuyên cần của học
sinh trong học tập, giáo viên có thể kể cho các em nghe câu chuyện “Có công
mài sắt, có ngày nên kim”. Kết hợp kể chuyện với định hướng để các em suy
nghĩ và tự rút ra ý nghĩa câu chuyện.
19
Khi giáo dục các em về tinh thần đoàn kết dân tộc, phải kết hợp phân
tích, giảng giải nội dung bài học với đưa ra dẫn chứng và phân tích cho các
em về lời dặn của Bác Hồ trong “Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền
Nam”, họp tại Plei-cu, ngày 19/4/1946: “… Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường
hay Mán, Gia Rai hay Ê đê, Xơ đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác,
đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có
nhau, sướng khổ có nhau, no đói giúp nhau...”.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho các em cũng cần lựa chọn đúng, trúng
nội dung để các em nhanh chóng nắm bắt và có ý thức rèn luyện. Đặc biệt,
việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh người dân tộc thiểu số là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa thiết thựcđó có thể là những kỹ năng thông thường tối
thiểu như: cách chào hỏi, cách xưng hô, cách giao tiếp không nói trống
không; cách sắp xếp chỗ ở khoa học, sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp, cách hòa
mình vào cuộc sống tập thể, cuộc sống tự lập, đặc biệt là cách tôn trọng bản
sắc dân tộc trong cuộc sống đa sắc tộc...
+ Về hình thức, biện pháp GDĐĐ cho học sinh:
Nội dung GDĐĐ dù được xác định đúng, trúng nhưng nếu hình thức,
biện pháp giáo dục không phù hợp thì hiệu quả giáo dục cũng hạn chế. Vì
vậy, phải kết hợp nhiều hình thức để truyền tải nội dung mới đạt được hiệu
quả mong muốn. Có thể tiến hành các hình thức, biện pháp sau:
Giáo dục dưới cờ: Đối với học sinh, tiết chào cờ đầu tuần góp phần quan
trọng trong việc giúp các em rèn luyện nhân cách, từ những việc nhỏ như:
ham học, siêng làm, cần kiệm… đến những việc lớn như hun đúc tinh thần
dân tộc, lòng yêu nước.
Thường xuyên kiểm tra việc tu dưỡng đạo đức của học sinh. Kiểm tra và
giám sát là việc làm cần thiết cho tất cả các hoạt động nhà trường nói chung,
việc GDĐĐ nói riêng. Kiểm tra có tác dụng phát hiện những việc làm được,
chưa được của tổ chức, cá nhân, từ đó có ý kiến, chấn chỉnh, điều chỉnh, bổ
sung, khắc phục những hạn chế, phát huy những mặt tốt để hỗ trợ công tác
20
khen thưởng công bằng hơn. Mặt khác là động cơ giúp học sinh tự kiểm tra
mình, kiểm tra lẫn nhau, giúp công tác giáo dục đạo đức, nhân cách học sinh
đạt hiệu quả cao hơn. Kiểm tra thường xuyên kết hợp kiểm tra đột xuất các
hoạt động của học sinh như việc ăn, ở, sinh hoạt ngủ nghỉ hàng ngày; việc sắp
xếp trật tự nội vụ, vệ sinh phòng ở, lớp học; nền nếp, tác phong, trang phục…
Thực hiện tốt việc khen thưởng học sinh có ý thức học tập, rèn luyện và
có thành tích học tập, rèn luyện tốt. Thi đua khen thưởng là động lực thúc đẩy
học sinh ý thức tự giác và tính chăm chỉ học tập, rèn luyện, góp phần nâng
cao chất lượng GDĐĐ. Việc khen thưởng kịp thời có tác dụng khích lệ, vươn
đua lẫn nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ, thi đua, khen thưởng góp phần giáo
dục, bồi dưỡng đức tính linh hoạt, năng động, sáng tạo, nhạy cảm và biết yêu
đồng đội, bạn bè, trường, lớp. Do vậy, cùng với các hình thức, biện pháp
khác, việc thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng sẽ có ý nghĩa và tác
dụng lớn cho việc nâng cao chất lượng GDĐĐ cũng như việc tu dưỡng, rèn
luyện, phấn đấu của các em.
Tổ chức các hoạt động ngoại khoá mang ý nghĩa giáo dục: thắp hương
nghĩa trang liệt sĩ, đi thăm nhà đày Buôn Ma Thuột, giúp đỡ người cô đơn
không nơi nương tựa, bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ gia đình thương
binh liệt sĩ... Phối hợp với Hội Cựu chiến binh, mời các bác, các chú kể
chuyện về tấm gương Bộ đội Cụ Hồ, những gương anh hùng, liệt sĩ hy sinh vì
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Phối hợp với Đoàn
Thanh niên phường Thành Nhất tổ chức các hoạt động vui chơi, thể dục thể
thao, văn nghệ. Việc hình thành và rèn luyện các hành vi, thói quen đạo đức
cho học sinh đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nhân cách;
giúp cho các em phát triển thành những con người có nhân cách toàn diện.
2.2.3. Kết hợp giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn để nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
- Vai trò và ý nghĩa:
Việc GDĐĐ học sinh không chỉ là nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm
21
lớp, mà có vai trò rất quan trọng của giáo viên bộ môn. Vì vậy, phải kết hợp
chặt chẽ vai trò giáo viên chủ nhiệm với vai trò giáo viên bộ môn để phát huy
sức mạnh và hiệu quả của những người thường xuyên và trực tiếp giáo dục,
rèn luyện các em. Đây là giải pháp quan trọng, nhằm phát huy vai trò và tác
dụng giã các giáo viên để nâng cao chất lượng GDĐĐ học sinh.
- Nội dung biện pháp thực hiện:
+ Đối với giáo viên chủ nhiệm:
Giáo viên chủ nhiệm lớp – những người trực tiếp nhất, gần gũi nhất,
thường xuyên nhất với các em cả trong và ngoài giờ học tập trên lớp. Giáo viên
chủ nhiệm lớp phải trực tiếp và thường xuyên uốn nắn kịp thời những biểu
hiện, những hành vi sai lệch của các em học sinh, đặc biệt là các em học sinh
cá biệt; phải gần gũi tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng của các em đặc
biệt là những em học sinh mới chuyển vào trường lần đầu tiên sống xa gia
đình, lạ lẫm với môi trường sống nội trú, để từ đó có biện pháp giáo dục phù
hợp với từng trường hợp học sinh cụ thể. Mỗi giáo viên chủ nhiệm phải thực sự
là tấm gương sáng cho học sinh trong lớp học tập và noi theo; phải là tấm
gương cho các em soi và học tập về mỗi lời nói, cách cư xử, thái độ trong giao
tiếp giữa giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, giáo viên với cán bộ,
công nhân viên nhà trường...
Để giáo viên chủ nhiệm làm tốt công việc của mình, ngay từ đầu năm
học nhà trường phải triển khai cho giáo viên chủ nhiệm học một số quyền và
nghĩa vụ của người giáo viên chủ nhiệm. Trao đổi, học tập một số kinh
nghiệm giáo dục học sinh cá biệt, cách phát hiện học sinh năng khiếu, lựa
chọn cán bộ lớp. Xây dựng tập thể lớp tự quản. Mục đích giúp cho giáo viên
chủ nhiệm (nhất là giáo viên mới ra trường) học hỏi kinh nghiệm của đồng
nghiệp để áp dụng vào lớp mình phụ trách. Chỉ đạo khi giáo viên khi nhận
lớp phải phân loại, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, tính tình, năng lực của từng
học sinh; qua đó có biện pháp giáo dục sao cho có hiệu quả. Thường xuyên
thay đổi hình thức trong các tiết sinh hoạt lớp, tránh để các em nhàm chán
22
hoặc sợ tiết sinh hoạt. Mỗi giáo viên chủ nhiệm đều có sổ theo dõi học sinh,
nắm bắt kịp thời những vi phạm của học sinh. Khi xử lý phải có tính giáo
dục cao, biết khơi dậy các em phần tích cực, tạo điều kiện các em sửa chữa
khuyết điểm, lập thành tích mới. Tránh hiện tượng thành kiến, trù dập học
sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải có trách nhiệm thông tin những trường hợp
của lớp mình với Ban giám hiệu để cùng tìm ra biện pháp giải quyết. Phối
kết hợp tốt với bảo vệ, quản sinh, giáo viên bộ môn… để cùng quản lý giáo
dục học sinh. Tăng cường mối liên hệ với phụ huynh học sinh để kịp thời
phát hiện uốn nắn những hành động biểu hiện bất thường trong lối sống của
học sinh.
+ Đối với giáo viên bộ môn:
Giáo dục đạo đức cho học sinh không chỉ là trách nhiệm của giáo viên
chủ nhiệm mà giáo viên bộ môn cũng là một yếu tố quan trọng trong việc
hình thành nhân cách cho các em qua mỗi bài giảng, tiết học. Một giờ dạy
trên lớp không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn giáo
dục các em những hành vi, cử chỉ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan
khoa học.
Trong các môn học đều có tích hợp hình thành rèn luyện hành vi đạo đức
cho học sinh, nhất là môn Giáo dục công dân, môn Ngữ văn, Lịch sử. Môn
Ngữ văn bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, lòng thương yêu con người, biết phân
biệt các việc nên làm, và việc không nên làm, biết cái xấu, cái tốt; biết làm
theo điều thiện; biết giúp đỡ những người khi gặp hoạn nạn khó khăn… Môn
Giáo dục công dân chính là môn học cơ sở giúp học sinh có những nhận thức
ban đầu về cách cư xử, ứng xử trong cuộc sống. Chính vì vậy chúng ta không
được coi nhẹ vai trò của môn học này trong nhà trường. Ban giám hiệu cần
hướng dẫn đổi mới và nâng cao chất lượng giảng dạy môn học giáo dục công
dân, pháp luật; chú trọng giáo dục nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, thói
quen chấp hành pháp luật cho học sinh; tăng cường các hoạt động giáo dục
pháp luật ngoài giờ lên lớp, các đợt sinh hoạt ngoại khóa, hội thi tìm hiểu kiến
23
thức pháp luật mới; xây dựng và bổ sung tủ sách, ngăn sách pháp luật trong
nhà trường. Môn Lịch sử giúp hiểu biết về lịch sử của đất nước, lịch sử của
địa phương; truyền thống đấu tranh dựng và giữ nước của cha ông ta; biết tự
hào và trân trọng những truyền thống đó. Qua đó thấy rõ trách nhiệm của
mình đối với quê hương, đất nước.
Ngoài các môn trên thì môn Địa lý giúp học sinh hiểu thêm về quê
hương, đất nước, những danh lam thắng cảnh, di sản, tài nguyên của đất nước.
Qua đó giáo dục các em về sự trân trọng và giữ gìn những di sản, tài nguyên
quý báo đó. Đồng thời, giúp học sinh hiểu thêm về môi trường và có trách
nhiệm bảo vệ môi trường.
Để phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, đòi
hỏi giáo viên phải có ý thức, nhận thức rõ tầm quan trọng của GDĐĐ cho
các em, đồng thời phải tích cực, chủ động kết hợp để giáo dục học sinh.
Trong giảng dạy các giáo viên phải biết khai thác, liên hệ vận dụng thích
hợp để bồi dưỡng tình cảm, hình thành niềm tin đạo đức cho các em, không
bỏ qua yêu cầu giáo dục tư tưởng tình cảm. Thực hiện tốt việc tổ chức thực
hành các hành vi đạo đức qua bộ môn văn hoá tốt thì việc thực hiện giáo dục
đạo đức trong trường học coi như thành công tốt đẹp. Ngay từ lớp đầu cấp là
lớp 6 cho đến lớp 12 mọi công tác chỉ đạo từ kế hoạch, cho đến kiểm tra,
uốn nắn phong trào phải thường xuyên chú ý hình thành và tổ chức cho các
em thực hành có nề nếp các hành vi đạo đức, như biết vâng lời thầy cô giáo,
chú ý nghe giảng, xây dựng bài, hợp tác trong nhóm để tìm hiểu kiến thức
mới, có ý thức học bài cũ và chuẩn bị bài một cách thường xuyên. Chuẩn bị
dụng cụ học tập đầy đủ, có ý thức cố gắng vươn lên trong học tập... Tất cả
những điều đó là hành vi đạo đức mà học sinh cần phải có. Giáo viên bộ
môn phải thường xuyên kiểm tra theo dõi việc thực hiện nội quy của lớp,
khen chê kịp thời. Sử dụng phương pháp giáo dục bằng tình cảm, trong mọi
lúc, mọi khi. Phải lồng ghép giáo dục “kỹ năng sống” cho học sinh vào trong
bài giảng.
- Xem thêm -