Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp khoa học về Sử dụng kiến thức thơ, văn vào giảng dạy lịch sử trong trư...

Tài liệu Giải pháp khoa học về Sử dụng kiến thức thơ, văn vào giảng dạy lịch sử trong trường phổ thông

.DOC
21
294
121

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Đề tài sáng kiến “Sử dụng kiến thức thơ, văn vào giảng dạy lịch sử trong trường phổ thông” là tâm huyết của tôi suốt ba năm qua. Tôi xin cam đoan đề tài này hoàn toàn là do tôi tự nghiên cứu viết ra dựa trên vốn kiến thức hiểu biết và sự đóng góp kinh nghiệm của các đồng nghiệp bộ môn lịch sử hoàn toàn không có sự sao chép, dowload trên mạng. Nếu có sai sót gì tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được đề tài sáng kiến này là sự đóng góp giúp đỡ rất nhiều của các đồng nghiệp bộ môn lịch sử về kiến thức chuyên môn và của các đồng nghiệp giàu kinh nghiệp trong lĩnh vực giảng dạy. Tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến các đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này, đồng thời tôi cũng xin gửi tới Ban giám đốc lãnh đạo 1 Trung tâm Giáo dục thường xuyên thành phố đã tạo điều kiện để tôi và các đồng nghiệp khác được đóng góp đề xuất những ý kiến, kinh nghiệm trong đổi mới phương pháp dạy học. Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến Sở Giáo dục - Đào tạo Hoà Bình đã luôn quan tâm sát sao, tạo những điều kiện tốt nhất để chúng tôi được phát huy những năng lực của mình trong lĩnh vực giảng dạy. MỤC LỤC Chương 1 : Lý do chọn Đề tài.................................................5 1. Cơ sở lí luận........................................................................5 1.1. Tính hệ thống trong cấu tạo chương trình.....................5 1.2. Lí luận dạy học hiện đại................................................5 1.3. Mối quan hệ gần gũi giữa bộ môn Lịch sử ..................6 2 1.4. Nhà văn hoá, nhà giáo dục lớn.......................................7 2. Cơ sở thực tiễn....................................................................7 2.1. Thực tiễn dạy - học lịch sử............................................8 2.2. Sự phong phú của nguồn thơ văn..................................10 2.3. Thực tế học tập..............................................................10 Chương 2 : Giới hạn Đề tài.....................................................12 Chương 3 : Phương pháp nghiên cứu......................................13 Chương 4 : Nội dung...............................................................14 Chương 5 : Kết luận………………………………………....21 BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ THỰC HIỆN Giải pháp khoa học về " Sử dụng kiến thức thơ, văn vào giảng dạy lịch sử trong trường phổ thông" được Tôi dày công nghiên cứu từ năm 2010. Thực hiện ở lớp 12A1, 12A2, 12A3, Kết quả cụ thể như sau : * Theo phương pháp giảng dạy cũ : 3 Kết quả học lực môn Lịch sử các lớp như sau : Lớp Giỏi Học lực Lớp 12A1 Lớp 12A2 Lớp 12A3 Khá 5% 7% 3% Trung bình 50% 55% 52% 25% 23% 20% Yếu 15% 12% 10% Kém 5% 2% 15% * Theo phương pháp mới : Kết quả học lực môn Lịch sử các lớp như sau : Lớp Học lực Lớp 12A1 Lớp 12A2 Lớp 12A3 Giỏi Khá 15% 12% 10% 35% 38% 30% Trung Yếu bình 48% 50% 55% Kém 2% 0% 5% 0% 0% 0% Chương 1 : Lý do chọn Đề tài 1.Cơ sở lý luận : 1.1.Tính hệ thống trong cấu tạo chương trình các môn học nói chung và các bộ môn Khoa học xã hội nói riêng trong trường học : Chúng ta đều biết, các môn học trong Trung t©m gi¸o dôc thêng xuyªn là một hệ thống hoàn chỉnh nhằm trang bị cho học viªn kiến thức thuộc tất 4 cả các môn, các lĩnh vực ở mức độ, tính chất ®¹i trµ, giúp các em có một hành trang c¬ bản làm tiền đề cho các cấp học cao hơn. Các môn học đó không chỉ liên quan chặt chẽ với nhau mà còn tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh, khoa học, cũng như các bộ môn Khoa học tự nhiên , các môn học thuộc Khoa học xã hội như : Văn học, Lịch sử, Địa lý … có vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành và giáo dục nhân cách, đạo đức đối với học viªn nên lại càng liên quan và hệ thống hơn. 1.2. Lý luận dạy học hiện đại nói chung và lý luận dạy học bậc Phổ thông trung học nói riêng : Các nhà nghiên cứu lý luận dạy học hiện đại, điển hình là Tiến sỹ Đai Ri cho rằng, trong một tiết học, bài học, giáo viên có thể lược bỏ bớt những nội dung kiến thức không phải là trọng tâm trong sách giáo khoa và có thể cung cấp thêm cho học viªn một số kiến thức mở rộng nằm ngoài sách giáo khoa môn học mình đang dạy. Những kiến thức đó thuộc nhiều kênh thông tin khác nhau: có thể là trên sách báo, truyền hình, ngoài xã hội hoặc ở sách giáo khoa các môn học khác. Tuy nhiên, việc cung cấp kiến thức đó phải sát với bài học, phải đảm bảo tính phù hợp, vừa sức nhằm làm bật nổi trọng tâm bài học và gây được hứng thú cho học viªn trong việc tiếp nhận kiến thức. Việc làm này càng có tác dụng đối với những bài học, tiết học được xem là “khô khan” như nhiều tiết, bài Lịch sử vì chúng có quá nhiều số liệu mà học viªn cho là khó nhớ. Tất nhiên, việc cung cấp kiến thức “bên ngoài” bao nhiêu, như thế nào để đạt hiệu quả cao lại là chuyện khác. Tiến sỹ Đai- Ri đã đúc kết lý luận trên bằng một “công thức” mang tính khái quát cao, d ễ hi ểu và áp dụng. (Xem sơ đồ). 1 2 2 5 3 1.3. Mối quan hệ gần gũi gi÷a bộ môn Lịch sử với bộ môn Văn học trong cấu tạo chương trình ở bậc Phổ thông trung học : Theo Tôi, thực ra cơ sở này vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Suy cho cùng, đối tượng nghiên cứu của Văn học cũng như Sử học đều là Con Người. Văn học ngợi ca vẻ đẹp của non sông, đất nước, ca ngợi những con người mang những phẩm chất tốt đẹp, cao quý cũng như đả kích, lên án cái xấu của họ thì Lịch sử cũng ghi nhận công lao, đóng góp của những con người ấy (nhân vật Lịch sử) và phán xét nghiêm minh đối với những người có tội với dân, với nước. Không phải ngẫu nhiên mà trong chương trình Văn học lại có phân môn Văn học sử và trong Chương trình Lịch sử lại có phần Lịch sử Văn học. Khi chúng ta, tức là những giáo viên giảng dạy Lịch sử giảng dạy đến sự kiện, biến cố lịch sử nào, nhân vật lịch sử nào thì dù muốn hay không, chúng ta cũng thường liên tưởng đến những bài thơ, áng văn đã từng đề cập đến sự kiện đó, con người đó mà chúng ta từng được đọc, được học. Trong thực tế, có không ít người vừa là nhà Văn, nhà Thơ đồng thời là nhà Sử học mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một ví dụ điển hình. 6 1.4. Nhà Văn hóa, Nhà Giáo dục lớn và là người nghiên cứu Lịch Sử nổi tiếng : Hå ChÝ Minh là tác giả của rất nhiều tác phẩm thơ, Văn nổi tiếng. “Tuyên ngôn độc lập”, “Vi hành”, “Ngục trung nhật ký”… là những ví dụ tiêu biểu. Chính Người đã từng dạy rằng: “ Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” 2.Cơ sở thực tiễn : 2.1.Thực tiễn dạy - học Lịch sử ở c¸c Trung t©m gi¸o dôc thêng xuyªn trong những năm gần đây : “ Lịch sử là sự kiện” đó là một tổng kết mang tính chất kinh điển. Bản thân những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan, nhất là những bài, những chương viết về các trận đánh có rất nhiều những con số về ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những số liệu về các thành tựu đã đạt được trên mọi lĩnh vực. Để chuyển tải cho học viªn những số liệu một cách khô cứng như vậy, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở c¸c Trung t©m gi¸o dôc thêng xuyªn giảng dạy một cách khô 7 khan, cứng nhắc, nặng về cung cấp kiến thức, sự kiện một cách đơn thuần, do vậy không gây được hứng thú học tập cho học viªn trong việc tiếp thu bài học. Tình hình này lại càng trở nên đáng lo ngại hơn khi mà Trung tâm giáo dục thường xuyên thành phố nằm trên địa bàn phát triển năng động của tỉnh Hòa Bình, nơi có nhiều dịch vụ vui chơi giải trí như : các quán Games, Internet, bi - a...thu hút sự quan tâm của giới trẻ nhất là các em thanh, thiếu niên trong độ tuổi đến trường. Giáo viên còn ít nên chưa đủ để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao, mặt khác các phương tiện, thiết bị hiện đại để phục vụ cho công tác dạy và học còn thiếu đặc biệt là máy chiếu, phòng học bộ môn, đối tượng người học ở nhiều lứa tuổi, trình độ khác nhau nên rất khó cho việc truyền đạt kiến thức. Trong tình trạng đó, đại đa số giáo viên chỉ biết bám vào sách giáo khoa một cách lệ thuộc, truyền thụ kiến thức đơn thuần theo phương pháp “đọc ghi”, làm cho tiết học trở nên khô khan đối với học trò. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho häc viªn chưa thích học bộ môn Lịch Sử. Từ thực tế đó tôi đã bá c«ng søc ra nghiªn cøu t×m tßi qua c¸c tµi liÖu, tivi, Internet..., c¸c Trung t©m gi¸o dôc thêng xuyªn kh¸c vµ dự nhiều giờ của đồng nghiệp. Qua ®ã, tôi đã rút ra được kinh nghiệm rất quý giá. Đó là: khi áp dụng kiến thức thơ, văn vào việc giảng dạy Lịch sử rất gây hứng thú cho học sinh trong việc tiếp thu bài. Điều này cũng đã được nhiều đồng nghiệp của tôi thừa nhận và học hỏi sau khi họ dự giờ của cá nhân tôi. Từ kinh nghiệm này, nhiều giáo viên đã bước đầu mạnh dạn đưa thơ, văn vào trong bài giảng nhằm minh họa cho một số sự kiện Lịch sử trong bài dạy. 8 Những tiết học như vậy trở nên sinh động hẳn, khi cô giáo đọc thơ minh hoạ, cả lớp chăm chú lắng nghe và tỏ ra rất thích thú, sau tiết học, nhiều em còn nhờ cô giáo đọc để chép vào sổ tay. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em sâu hơn, lâu hơn. Qua trao đổi với các đồng nghiệp một cách chân tình, tôi đã nhận được sự tán thưởng nnồng nhiệt của họ. Chính nhiều người trong số các đồng nghiệp của tôi cũng đã thừa nhận rằng họ đã thể nghiệm nhiều lần dạy hai cách ở một tiết học : một là “giảng chay” nghĩa là không vận dụng kiến thức thơ văn, hai là có vận dụng kiến thức thơ văn vào trong tiết dạy thì thấy chất lượng hai tiết dạy hoàn toàn khác nhau, kể cả tâm lý, hứng thú của người dạy cũng hoàn toàn khác nhau. 2.2.Sự phong phú của nguồn thơ, văn, ca dao, dân ca, chuyện cổ… viết về Lịch sử hoặc liên quan đến Lịch sử : Có thể nói, nền văn học nước ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, sứ mệnh của nó: phản ánh hiện thực, đặc biệt là Văn học hiện đại. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đổi đời cho không biết bao nhiêu nhân tài văn học. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vĩ đại lại đem tới cho họ nguồn cảm hứng vô tận để họ kịp thời đưa những sự kiện Lịch sử hào hùng của dân tộc lên trang giấy. Trong số đó phải kể đến hai cây đại thụ. Đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu và nhà thơ lớn Tố Hữu. 9 2.3.Thực tế học tập của học viên các Trung tâm Giáo dục thường xuyên trong những năm gần đây : Bước sang thập kỷ 90, Đảng và nhà nước ta thực hiện chủ trương đổi mới một cách toàn diện và sâu rộng. Nhờ đó, bộ mặt kinh tế, xã hội nước ta ngày càng phát triển không ngừng, từng bước bắt nhịp và hòa nhập với cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trong khi chúng ta mở rộng cửa để đón nhận những luồng gió mới trong lành thì cũng đồng thời cũng phải hứng chịu không ít luồng gió độc. Một trong những luồng gió độc đó là sự xâm nhập của tư tưởng hưởng thụ, lối sống thực dụng. Cuốn theo dòng thác đổi mới và phát triển của đất nước, tư tưởng, lối sống đó đã len lỏi vào tận học đường, gây không ít xáo trộn trong suy nghĩ, hành động của học sinh, sinh viên. Một thực tế là trong những năm gần đây, số học viên các Trung tâm giáo dục thường xuyên đi dự thi vào các trường Sư phạm, và các ngành Khoa học xã hội thưa dần, tăng nhanh và quá tải ở các ngành, các trường tự nhiên, kỹ thuật. Một số lượng không nhỏ có suy nghĩ rằng: học các ngành Tin học, Kiến trúc, Ngoại ngữ, Xây dựng, Điện tử… ra trường dễ kiếm việc làm hơn, lương lại cao hơn, dễ kiếm tiền hơn. Chúng ta không phủ nhận thực tế đó nhưng rõ ràng, bản thân các em đã hướng động cơ học tập vào việc làm giàu, chạy theo đồng tiền. Khi đo nhu cầu hiểu biết về thơ văn, lịch sử, về cội nguồn, về truyền thống … dần dần phai nhạt và mất chỗ trong suy nghĩ của các em học viªn. Tất nhiên, Trung t©m chúng ta cũng không thoát ra khỏi guồng quay đó của xã hội. Mặt khác, hiện tại, Trung t©m còn thiếu thốn nhiều bề, nhất là tài liệu nghiên cứu, tư liệu tham khảo… nói chung là phương tiện trực tiếp phục vụ dạy và học. 10 Trong điều kiện đó, tôi không hy vọng gì hơn là “sáng kiến kinh nghiệm” này sẽ góp một tiếng nói riêng và cung cấp cho các đồng nghiệp một số kinh nghiệm tâm đắc được đúc rút từ lý luận và thực tiễn bản thân . Chương 2 : Giới hạn Đề tài Như đã nói ở trên, nguồn thơ, văn… của chúng ta (liên quan đến Lịch sử) rất phong phú. Trong điều kiện chủ quan và khách quan cho phép, tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Bước đầu khai thác và vận 11 dụng một số kiến thức thơ,văn (chủ yếu là thơ) vào việc giảng dạy một số bài trong chương trình Lịch sử Lớp 12 . Các chương trình lịch sử lớp 10, 11 tôi sÏ đề cập tới trong những thời gian tiếp theo khi điều kiện cho phép. Chương 3 : Phương pháp nghiên cứu 1. Như đã xác định, đối tượng, phạm vi vận dụng của đề tài là chương trình Lịch sử lớp 12. Vì vậy, trước hết cần phải nghiên cứu kỹ chương trình 12 này. Đặc biệt là các bài có thể khai thác, vận dụng được. Trong khi thực hiện công đoạn này, cần phải liên hệ, so sánh và đặt nó trong mối quan hệ liên quan với chương môn Văn học Lớp 10, 11, 12. Đây là một thao tác rất quan trọng, góp phần xác định được đúng mức độ vận dụng của đối tượng là học viªn lớp 12, tránh sa đà, ôm đồm. 2. Tiến hành sưu tầm các bài thơ, văn… có quan hệ sát với nội dung các bài Lịch sử thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Cần lưu ý rằng, không phải trong một bài thơ liên quan ta có thể khai thác được hết cả bài mà nên lựa chọn những đoạn thơ sát nhất, “đắt” nhất để sử dụng. 3. Chọn lựa, phân loại các kiến thức thơ, văn phù hợp với yêu cầu, phương pháp giảng dạy Lịch sử theo từng mảng: thơ về tiểu sử, cuộc đời nhân vật Lịch sử; thơ văn về diễn biến trận đánh hay biến cố Lịch sư, thơ văn trần thuật về tội ác của giai cấp thống trị, của bọn xâm lược… Sau khi phân loại, chúng tôi tiến hành sắp xếp nguồn tư liệu đó thành từng chủ đề. 4. Khai thác, vận dụng các kiến thức đó vào từng bài lịch sử đã giới hạn. 5. Góp ý với các đồng nghiệp khai thác và vận dụng kiến thức thơ, văn vào việc giảng dạy trong khi bản thân mình trực tiếp dự giờ để có điều kiện kiểm chứng và so sánh. 6. Đi thực tế ở một số Trung tâm giáo dục thường xuyên nếu điều kiện cho phép. Chương 4 : Nội dung KHAI THÁC MỘT SỐ KIẾN THỨC THƠ VĂN VẬN DỤNG VÀO VIỆC GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI 13 1. Lịch sử lớp 12, cụ thể : 1.1. Bài 12, Chương I, Phần lịch sử Việt Nam, “ Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt nam từ năm 1919 đến năm 1925”. “Bối cảnh trong nước và trên thế giới sau chiến tranh thế giới thứ nhất” Làm sáng tỏ tội ác của thực dân Pháp xâm lược cũng như nỗi thống khổ của nhân dân ta do chính sách bóc lột bằng cách mở đồn điền hết sức tàn bạo. “Cao su đi dễ, khó về Khi đi trai tráng, khi về bủng beo” (Ca dao chống Pháp) hoặc: “Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu Bán thân đổi mấy đồng xu Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng” (Tố Hữu – SĐD) 14 Làm sáng tỏ: “Thuế khoá trong bất cứ thời gian nào cũng là nguồn bóc lột chủ yếu của thực dân đế quốc nói chung và thực dân Pháp đối với nhân dân Đông Dương nói riêng” “… Thuế đến cả phấn son phường phố Thuế môn bài, thuế đuốc, thuế đèn Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền Thuế rừng tre gỗ, thuế tiền bán buôn … Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt Thắt chặt dần như thắt chỉ xe” ( Á tế á ca ) 1.2. Bài 12, Chương I, Phần lịch sử Việt Nam, “ Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925” Làm sáng tỏ gương hy sinh anh dũng quên mình của liệt sĩ Phạm Hồng Thái trong vụ ám sát toàn quyền Méc-lanh: Sau khi kể tóm tắt về tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của Phạm Hồng Thái và tường thuật cụ thể chi tiết vụ ám sát tên toàn quyền Méc-lanh tại Sa Diện – Trung Quốc, giáo viên có thể sự dụng đoạn thơ sau để khắc họa nhân vật lịch sử nói trên “Một tấm lôi đình kinh vũ trụ Tấm gan trung nghĩa động thần minh Chiếc thân đã gửi cho dòng nước Trang sử còn ghi mãi tính danh” ( Trần Huy Liệu -Từ điển nhân vật lịch sử ) hoặc: “Sống làm quả bom nổ 15 Chết làm dòng nước xanh” (Tố Hữu-SĐD) Giáo viên nên lưu ý, sau khi đọc thơ phải cắt nghĩa cho các em hiểu một số từ, khái niệm mang tính tượng trưng như: “Một tiếng lôi đình kinh vũ trụ”, “Chiếc thân đã gửi cho dòng nước” 1.3. Bài 14, Chương II, Phần lịch sử Việt Nam, “ Phong trào cách mạng 1930 - 1935” Sau khi trình bày cho học viªn diễn biến của phong trào Cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ – Tĩnh, giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ sau để minh hoạ thêm: Phong trào Xô viết - Nghệ tĩnh 1930 - 1931 “Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên Anh Sơn, Hà Tĩnh bốn bên dậy rồi Không có lẽ ta ngồi chịu chết Phải cùng nhau kiên quyết một phen Tổng này, xã nọ kết liên 16 Ta hò, ta hét, thét lên thử nào” (Tố Hữu-SĐD) 1.4 . Bài 16, Chương II, Phần lịch sử Việt Nam, “ Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng tám ( 1939 - 1945) Nhằm khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và tình cảm của Người khi trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, có thể khai thác sử dụng: “Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt Sáng rừng Việt Bắc trắng hoa mơ Người về. Im lặng. Con chim hót Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ” (Tố Hữu-SĐD) Mở rộng thêm về Mặt trận Việt Minh, để khắc hoạ hình ảnh của Mặt Trận Việt Minh thực hiện chính sách của mình trong một “nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thu nhỏ” đầy tính ưu việt, có thể sử dụng thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “… Có mười chính sách bày ra Một là ích nước, hai là lợi dân Bao nhiên thuế ruộng, thuế thân Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền Hội hè, tín ngưỡng, báo chương Họp hành, đi lại có quyền tự do Nông dân có ruộng, có bò, Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn. Công nhân làm lụng gian nan 17 Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ...” (Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta – Tập 3, Trang 152, 153) Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập ngày 22/12/1944 Chiến khu Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là căn cứ địa làm nên thắng lợi diệu kì của dân tộc ta trong cách mạng tháng năm 1945, các nhà văn, nhà thơ đã dành những ưu ái của mình khi viết về chiến khu Việt Bắc : “ Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chần nát đá, muôn tàn lửa bay...” ( Việt Bắc - Tố Hữu - SGK Văn 12, Trang 84) 1.5. Bài 20, chương III, “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953 - 1954) : Cuộc kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi đem lại sự vẻ vang cho dân tộc không thể không kể đến các chiến công thầm lặng của anh bộ đội 18 cụ Hồ, có những binh đoàn đã đi vào trong lịch sử vào trong những trang thơ văn hào hùng của dân tộc như đoàn binh “ Tây Tiến” “ ...Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đềm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...” ( Tây Tiến - Quang Dũng - SGK Văn 12, Tr89) Trong lịch sử hào hùng của dân tộc không thể không kể trận Điện Biên phủ trấn động địa cầu, chiến thắng này đánh đòn quyết định, chấm dứt hoàn toàn ách đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta. Khi giảng đến bài này giáo viên có thể dẫn chứng bài thơ : Lá cờ quyết thắng trên hầm Đờ cát “Chiều mùng 7 tháng 5 Một chiều hè lịch sử Bố kể chuyện Điện Biên Lũ tây bị bắt sống 19 Ta giải đi từng hàng Tướng Đờ cát xin hàng...” ( Chiều mùng 7 tháng 5, Tố Hữu, SGK Văn lớp 5) 2. Mét sè lu ý khi khai th¸c vµ vËn dông kiÕn thøc th¬ v¨n: Trước hết, giáo viên phải hiểu cặn kẽ và thật tâm đắc với những tư liệu mình đã lựa chọn. Không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức thơ văn. Luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học viªn (đối tượng vận dụng là häc viªn lớp 12). Các kiến thức thơ văn vận dụng cần phải có nguồn gốc xuất xứ chính xác, rõ ràng. Chương 5 : Kết luận Việc vận dụng kiến thức thơ văn vào giảng dạy lịch sử, theo kinh nghiệm của bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ý kiến là một việc làm rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho học viªn, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi việc học lịch sử, tìm hiểu lịch sử, nhận thức lịch sử đang có nhiều hướng giảm sút, xuống cấp. ¶nh hưởng của nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng đang tác động mạnh mẽ đến từng học viªn cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ dùng dạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo viên đã và đang là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy bộ môn lịch sử nói riêng. Thơ văn nói chung với ưu thế của nó: dễ thuộc, dÔ đi vào lòng người… sẽ là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng