Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lâm sản tại tổng công ty lâm sản...

Tài liệu Giải pháp góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lâm sản tại tổng công ty lâm sản việt nam

.PDF
104
35
112

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ĐẶNG THU HẰNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LÂM SẢN TẠI TỔNG CÔNG TY LÂM NGHIỆP VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60.31.10 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN TUẤN Hà Nội, 2011 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế thế giới, không một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế của mình mà không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Điều đó không ngoại trừ đối với Việt Nam, để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm và xây dựng nền kinh tế, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới nền kinh tế, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng mạnh vào xuất khẩu. Để tăng xuất khẩu trong thời gian tới, Việt nam chủ trương kết hợp xuất khẩu những mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối (những mặt hàng xuất khẩu truyền thống: hàng nông lâm sản, khoáng sản, hàng giầy dép và dệt may) và một số mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao bao gồm: ôtô, xe máy, hàng điện tử và dịch vụ phần mềm ... Lâm sản là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam trong thời gian qua đã gặt hái được thành công rực rỡ. Thị trường xuất khẩu lâm sản đã và đang được mở rộng đáng kể, xuất khẩu lâm sản của Việt Nam đã chiếm được vị trí quan trọng trong thị trường xuất khẩu lâm sản thế giới. Sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đã xuất khẩu sang 120 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tập trung vào các thị trường trọng điểm là Mỹ; Nhật Bản tiếp đến là Trung Quốc … Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam là một trong những doanh nghiệp được xếp hạng đặc biệt, qua gần 15 năm hoạt động Tổng công ty đã xây dựng và duy trì vị trí nòng cốt trong ngành Lâm nghiệp Việt Nam, tuy nhiên giá tri ̣ xuấ t khẩ u lâm sả n củ a VINAFOR cò n rấ t ha ̣n chế , chưa tương xứng vớ i tiề m năng, hiê ̣u quả chưa cao. Viê ̣c nghiên cứu cá c giả i phá p thúc đẩ y hoa ̣t đô ̣ng kinh doanh xuấ t khẩ u lâm sả n củ a Tổ ng công ty là hế t sứ c cấ p thiế t. Xuất phát từ nhận thức trên đây, cũng như vai trò to lớn của xuất khẩu lâm sản trong cơ cấu xuất khẩu của nước ta, tôi đã chọn đề tài “ Giải pháp góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lâm sản tại Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam “ . 2 Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân tôi, nhằm củng cố và nâng cao lý luận, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo những kiến thức đã học vào thực tiễn. Đồng thời qua phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu lâm sản của Tổng công ty Lâm nghiệp những năm gần đây, có thể mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu lâm sản trong tương lai. Luâ ̣n văn đươ ̣c thực hiê ̣n vớ i mu ̣c tiêu cơ bản là trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá hiê ̣n tra ̣ng hoa ̣t đô ̣ng kinh doanh xuấ t khẩ u lâm sản củ a tổ ng công ty, sẽ đưa ra nhữ ng giả i phá p chủ yế u gó p phầ n đẩ y ma ̣nh và nâng cao hiê ̣u quả kinh doanh xuất khẩ u lâm sản cho Tổ ng công ty. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu lâm sản 1.1.1. Trên Thế giới Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, với mục tiêu là lợi nhuận. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là thu được một khoản ngoại tệ dựa trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này [9, tr.54]. Xuất khẩu lâm sản là các hoạt động trong thị trường lâm sản nhằm di chuyển một lượng hàng hoá (lâm sản) và các dịch vụ đi kèm từ trong nước ra nước ngoài để thu về lợi nhuận. Trên thế giới, đặc biệt là trong khu vực Châu Á, có khá nhiều quốc gia là một trong những nước có giá trị xuất khẩu lâm sản lớn trên thế giới. Đánh giá sơ bộ về tình hình hoạt động xuất khẩu lâm sản của một số quốc gia này có thể giúp Việt Nam có những cái nhìn đúng đắn và hướng đi chiến lược cho hoạt động xuất khẩu lâm sản. Dưới đây là tình hình xuất khẩu lâm sản của một số quốc gia. 1.1.1.1. Malaysia Malaysia là một đất nước có rừng nhiệt đới lớn thứ 3 của thế giới, sau rừng Amazon và rừng nhiệt đới hoang dã Châu Phi. Thiên nhiên đã ban tặng cho nước này nguồn tài nguyên về gỗ phong phú cùng các tài nguyên khác như khoáng chất, cao su, ca cao, dừa và cây cọ nổi tiếng. Từ sự khởi đầu khiêm tốn hơn 20 năm về trước chỉ là một ngành thủ công với sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là gỗ dán, gỗ xẻ và gỗ tấm. Đến nay ngành hàng gỗ gia dụng chiếm 30 – 40% tổng sản phẩm toàn ngành hàng gia dụng so với 2% năm 1980. Sản phẩm đã xuất khẩu đến 160 quốc 4 gia, được xếp thứ bậc cao trong danh sách những nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới [8, tr. 8]. Malaysia là “đại gia” lớn nhất trong ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ tại khu vực Đông Nam Á. Ngành công nghiệp này hiện đang sử dụng hơn 300.000 lao động tại 1202 nhà máy, đóng góp thường xuyên hàng năm khoảng 7 tỷ USD cho nền kinh tế Malaysia. Liên tục dẫn đầu với những con số ấn tượng, gỗ và các sản phẩm liên quan đến gỗ là một trong năm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Malaysia, cùng với đồ điện tử, dầu thô, gas hóa lỏng và các sản phẩm dầu mỏ. Năm 2008, xuất khẩu đồ gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Malaysia đạt kim ngạch khoảng 8 tỷ USD, trong khi đó, năm 2009 là 6.9 tỷ USD, đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Hiện Malaysia là nước xuất khẩu gỗ cây và gỗ xẻ nhiệt đới lớn nhất thế giới, là nước xuất khẩu lớn thứ hai về gỗ dán và là nước sản xuất đồ gỗ lớn thứ 10 thế giới. Chỉ trong tháng 6 năm 2010, xuất khẩu gỗ và đồ gỗ của Malaysia đạt 600 triệu USD (chiếm 3,2% tổng giá trị hàng xuất khẩu). Kim ngạch xuất khẩu gỗ 7 tháng đầu năm của Malaysia đạt 4,4 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, hiện nay những khắt khe mới trong chính sách và đạo luật nhập khẩu đã kìm hãm những chuyến tàu gỗ xuất khẩu của Malaysia đến thị trường Mỹ (thị trường tiêu thụ số 1 của nước này). Sự suy giảm sức tiêu thụ không chỉ diễn ra ở thị trường Mỹ mà còn cả với EU, Malaysia hiện cũng gặp rất nhiều thách thức. Chương trình hành động FLEGT (Thi hành Lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại) được ủy ban EU đưa ra vào năm 2003 đã gây lao đao cho nhiều doanh nghiệp Malaysia, liên quan đến chính sách kiểm duyệt nguồn gốc gỗ nhập khẩu. Malaysia dường như gặp khó khăn ở tất cả các thị trường trọng điểm của mình, khi mới đây Hàn Quốc lại tiếp tục dồn thêm sức ép bằng việc đưa ra việc áp đặt lệnh chống bán phá giá đối với gỗ dán của Malaysia sau khi nhận được đơn khởi kiện từ Hiệp hội Gỗ dán Hàn Quốc cho rằng những nhà sản xuất gỗ dán của Malaysia đã bán sản phẩm của họ dưới chi phí sản xuất và điều đó làm ảnh hưởng tới những nhà sản xuất gỗ dán ở nước này. 5 Thị trường nội thất từ gỗ là một thị trường cạnh tranh khốc liệt và hiện nay Malaysia đang tìm cách để giảm chi phí sản xuất, bao gồm áp dụng công nghệ hiện đại trong quá trình xử lý gỗ bằng máy móc, giảm phụ thuộc và nhân công nước ngoài, mặt khác đồng Riggit mạnh lên cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của nước này. Các nhà sản xuất các sản phẩm nội thất từ gỗ của Malaysia đang chịu sự cạnh tranh gay gắt từ Việt Nam, hiện nổi lên là một trong những nhà cung cấp mạnh trên thị trường. Hiện nay, các nhà chức trách nước này đã đưa vào thực hiện một số chương trình hỗ trợ, để đảm bảo nguồn cung nguyên liệu thô và nhân lực có kỹ thuật cao cho ngành nội thất từ gỗ. Ngoài ra, chính phủ Malaysia cũng thúc đẩy trồng rừng, tái canh những cây cao su già cỗi và không cho năng suất cao. Đồng thời, chính phủ cũng nỗ lực cung cấp các khoản cho vay lãi suất thấp cho doanh nghiệp để giúp họ tăng diện tích rừng. Chính phủ Malaysia hiện thúc đẩy hoạt động R&D về sử dụng các chất liệu sinh học tổng hợp và các vật liệu thay thế khác. Những biện pháp này nếu thực hiện hiệu quả, được kỳ vọng sẽ mạng lại tăng trưởng tốt cho ngành này. Malaysia dự kiến xuất khẩu 53 tỷ RM các sản phẩm nội thất từ gỗ đến năm 2020 [3]. Trong những năm qua, ngành công nghiệp từ gỗ đã trải qua nhiều thay đổi và hiện Malaysia đã trở thành một nhà xuất khẩu các sản phẩm gỗ thành phẩm hoặc gỗ qua chế biến trên thị trường thế giới, đặc biệt là ngành sản xuất gỗ công nghiệp. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nội thất từ gỗ của Malaysia đóng góp 5,75% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa. 6 1.1.1.2.Trung Quốc Hiện tổng giá trị sản phẩm lâm nghiệp trong ngoại thương của Trung Quốc đạt 70 tỉ USD, tương đương 18% tổng sản lượng thế giới và đứng thứ hai sau Mỹ. Trong đó sản lượng của nhựa thông, gỗ, các mặt hàng tre nứa, gỗ xẻ sẵn và đồ gỗ đã đứng thứ nhất trên thế giới năm 2007, có khoảng 60 triệu người Trung Quốc hiện đang làm việc trong ngành này. Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm lâm nghiệp ở Trung Quốc năm 2008 giảm, các sản phẩm gỗ thứ cấp giảm từ 20-25%. Gần 50% các doanh nghiệp gỗ plywood ngừng sản xuất toàn bộ hoặc một phần, và khoảng 20% số doanh nghiệp ván sàn cũng lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Những doanh nghiệp kinh doanh định hướng xuất khẩu sản phẩm bị tổn thất nặng nề hơn so với các hãng kinh doanh phục vụ thị trường nội địa. Tuy vậy, tổng sản lượng đầu ra của ngành thương mại lâm nghiệp Trung Quốc tăng 1,2 tỷ NDT so với năm 2007, bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ảm đạm vào cuối năm 2008 đã tác động tiêu cực tới khu vực lâm nghiệp của Trung Quốc ở nhiều mức độ. Ngày 1/6/2009, Bộ Thương mại Trung Quốc cùng với Tổng cục Thuế Trung Quốc vừa thông báo tăng tỉ lệ hoàn thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm gỗ. Tỉ lệ hoàn thuế mới này có mục đích giảm áp lực cho các doanh nghiệp xuất khẩu và giữ ổn định thị phần các sản phẩm gỗ xuất khẩu. Theo số liệu từ Tổng cục Thuế Trung Quốc, sẽ có hơn 2600 sản phẩm chịu thuế suất 2 chữ số được áp dụng tỉ lệ hoàn thuế mới này, bao gồm các sản phẩm cần nhiều sức lao động, các sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm cuối. Theo ước tính sẽ có khoảng 25,2 tỉ NDT được hoàn trả cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tính theo tỉ lệ hoàn thuế mới được áp dụng này. Đây là lần thứ 7 chính phủ Trung quốc điều chỉnh tỉ lệ hoàn thuế kể từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu. Tỉ lệ hoàn thuế chung sẽ tăng lên 13,5%, từ tỉ lệ 12,4% của lần điều chỉnh trước. 7 Tỉ lệ hoàn thuế đối với các sản phẩm đồ gỗ bằng gỗ nguyên chất sẽ tăng lên đến 15%, được áp dụng cho các sản phẩm đồ gỗ văn phòng, đồ bếp bằng gỗ, sản phẩm đồ gỗ phòng ngủ bằng gỗ đỏ và gỗ sơn mài cùng với các sản phẩm gỗ sơn mài khác. Ngoài ra, tỉ lệ hoàn thuế xuất khẩu đối với sản phẩm tre lát sàn cũng tăng lên 13% . Việc điều chỉnh mức thuế cũng như tỷ lệ hoàn thuế của Chính phủ đối với các sản phẩm gỗ là một trong những động thái tích cực giúp ngành gỗ xuất khẩu của nước này ngày càng phát triển bền vững. 1.1.1.3. Indonesia Indonesia là một trong những quốc gia Châu Á có kim ngạch xuất khẩu gỗ đứng hàng đầu trên thế giới. Trong năm 2010, giá trị xuất khẩu của quốc gia này đạt 146.3 tỷ USD (2010) tăng 22% so với 2009. Trong đó gỗ dán là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính. Các bạn hàng xuất khẩu chính của nước này là Nhật (17,28%), Singapore (11.29%), US (10,81%); Trung Quốc (7,62%), Hàn Quốc (5,53%), Ấn Độ (4,35%), Đài Loan (4,11%), Malaysia (4,07%). Xuất khẩu đồ gỗ của nước này trong năm 2009 giảm 30% so với mức 2,65 tỉ USD của 2008, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Đứng trước những khó khăn đó, thành viên của Asmindo không ngừng tìm kiếm cơ hội xuất khẩu đến các nước trên thế giới, bằng những biện pháp như tham gia các hội chợ đồ gỗ… đây là một phần trong nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ ở Indonesia. Để hỗ trợ ngành gỗ phát triển, Chính phủ Indonesia sẽ xây dựng hệ thống chứng nhận gỗ độc lập mới cho tất cả các lô hàng gỗ xuất khẩu, để đối phó với nạn khai thác gỗ lậu đang lan nhanh ở nước này. Theo đó, tất cả các lô hàng gỗ xuất khẩu từ Indonesia đều phải được chứng nhận bởi 1 đơn vị kinh doanh độc lập và đại diện của các tổ chức phi chính phủ NGO. Hiện nay, Indonesia là một trong những ngành xuất khẩu đồ nội thất lớn trên thế giới. Theo tính toán của hải quan nước này, ngành công nghiệp đồ nội thất của Indonesia có khoảng 3.500 công ty với trên 2 triệu nhân công. Đồ nội thất bằng gỗ chiếm 2/3 tỷ trọng trong xuất khẩu đồ nội thất nước này. Ngành công nghiệp đồ nội thất của Indonesia cần khoảng 4,5 triệu m3 gỗ mỗi năm. Mặc dù Indonesia là nước 8 sản xuất sản phẩm gỗ lớn nhưng nước này vẫn gặp phải tình trạng thiếu hụt gỗ nguyên liệu. Các loại gỗ phổ biến là gỗ tếch, gỗ mahogany và sonokeling. Như vậy, để ổn định được giá trị xuất khẩu trong những năm tới các công ty xuất khẩu gỗ của nước này cần chủ động nguồn gỗ nguyên liệu, khai thác các thị trường mới, đảm bảo được thị phần xuất khẩu ở các thị trường cũ như Mỹ và EU. 1.1.2. Ở Việt Nam 1.1.2.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu lâm sản ở Việt Nam Đến năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Xuất khẩu lâm sản dự kiến đạt 7,8 tỷ USD (7 tỷ USD sản phẩm gỗ và 0,8 tỷ USD của NWFPs). Với tốc độ tăng trưởng hiện tại của xuất khẩu lâm sản khoảng 20%/năm, mục tiêu sẽ đạt được trong 4-5 năm [24, tr.5-10] Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hiện nay, nhu cầu trong nước và xuất khẩu gỗ và lâm sản ngày càng tăng. Đầu những năm 1990, tổng số hàng năm thu hoạch gỗ từ rừng tự nhiên và rừng trồng là 4-4.5 triệu m3. Hiện nay, gỗ thu hoạch từ rừng trồng đối với bột giấy, dăm gỗ xuất khẩu, ván nhân tạo và các sản phẩm lâm nghiệp để sử dụng trong nước và xuất khẩu là khoảng 2-3 triệu m3/năm. Với xu hướng tiêu dùng trong những năm gần đây thu hoạch gỗ từ rừng tự nhiên, cây phân tán và rừng trồng phải đạt 9,7 triệu m3/năm. Năm 2010 và 20-24 triệu m3/năm vào năm 2020 (trong đó 10 triệu m3 gỗ "lớn"). Cung cấp gỗ nhỏ cho bột giấy vào năm 2010 là 3,4 triệu m3 và 8,3 triệu m3 vào năm 2020 [24, tr 6-10]. Chế biến lâm sản sẽ dần dần tăng lên để đáp ứng nhu cầu trong nước và sẽ ngày càng đóng góp vào giá trị xuất khẩu. Thời kỳ từ 2002 - 2006 được coi là một thời kỳ đột phá cho gỗ và xuất khẩu lâm sản Việt Nam. Xuất khẩu sản phẩm gỗ giá trị Việt Nam là 219 triệu USD vào năm 2002 và 1,1 tỷ USD vào năm 2004. Sau năm 2004, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong gỗ và đạt được xuất khẩu sản phẩm gỗ tăng 35% trong năm 2005 và 24% năm 2006. Trong năm 2006, giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu đạt gần 2 tỷ USD và 2,5 tỷ USD trong năm 2007. Chỉ sau 6 năm, xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam tăng lên mười lần. Giá trị xuất khẩu gỗ Việt Nam lớn hơn thậm chí hơn so với Malaysia, Indonesia và Thái Lan và Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu đồ nội thất lớn nhất ở Đông Nam Á. 9 Thị trường gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu, và ngành công nghiệp gỗ không phải là quá phụ thuộc vào bất kỳ thị trường cụ thể. Trong những năm qua, sản phẩm gỗ Việt Nam đã được xuất khẩu sang 120 thị trường trên toàn thế giới. Việt Nam nhằm mục đích để xuất khẩu 3,7 tỷ USD giá trị lâm sản năm 2010 (3,4 tỷ USD sản phẩm gỗ và 0,3 tỷ USD của NWFPs) và đến năm 2020 là trên 7,8 tỷ USD (7 tỷ USD sản phẩm gỗ và 0,8 tỷ USD của NWFPs) [24, tr. 4 – 7]  Thị trường xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam Thị trường gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong những năm gần đây. Kim ngạch xuất khẩu gỗ liên tục tăng qua các năm. Phân tích giá trị xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam phân theo một số nước, khối nước và vùng lãnh thổ chủ yếu qua ba năm 2008 – 2010 qua biểu 1.1 Qua biểu ta thấy thị trường Mỹ và khối các nước EU là hai thị trường xuất khẩu chiếm tỷ trọng nhiều nhất. Hầu hết giá trị xuất khẩu sang các nước đều có xu hướng tăng lên, tốc độ phát triển bình quân về giá trị xuất khẩu qua 3 năm đều đạt trên 100%. Cá biệt có khối các nước EU và U –crai – na có tốc độ phát triển bình quân về giá trị xuất khẩu qua ba năm dưới 100%, nguyên nhân là do trong năm 2009 giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang hai thị trường này bị sụt giảm quá nhiều. Phân tích cụ thể tình hình thị trường qua từng năm, ta nhận thấy: Biểu 1.1: Giá trị xuất khẩu đồ gỗ phân theo một số thị trường chủ yếu Đơn vị tính: 1000USD STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Khối nước EU ASEAN Mỹ Nhật Bản Ô-xtrây-li-a Trung Quốc Ấn Độ Ma-lai-xi-a U-crai-na Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010  BQ(%) 806.351,37 550.168,21 626.791,53 88,17 30.515,97 22.720,00 49.558,83 127,44 1.063.989,68 1.100.183,99 1.392.556,87 114,4 378.839,38 355.366,24 454.575,88 109,54 75.427,04 67.492,32 82.937,36 104,86 145.632,78 197.904,04 404.908,65 166,74 5.766,89 9.219,00 15.109,08 161,86 15.474,25 13.970,00 29.625,21 138,36 3.078,00 967 1.399,46 67,43 (Nguồn: http://www.gso.gov.vn) 10 Năm 2009 Sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đã xuất khẩu sang 120 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tập trung vào các thị trường trọng điểm là Mỹ (chiếm 43,35%, tăng 5,14%); Nhật Bản (chiếm 13,68%, tăng 0,64%); tiếp đến là Trung Quốc (với 7,62%, tăng 1,83%). Hầu hết các sản phẩm đồ gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp của Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, các nước Đông Âu và Mỹ La Tinh. Chỉ tính riêng Trung Quốc đã có trên 50.000 cơ sở sản xuất với hơn 60 triệu nhân công và sản xuất với doanh số gần 20 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đã có nhiều biến chuyển mạnh mẽ trong những năm gần đây, từ chỗ tập trung vào các thị trường trung chuyển như Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc… để tái xuất khẩu sang một nước thứ ba, đến nay đã xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường của người tiêu dùng. Hiện tại, các sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam có mặt ở 120 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, với các chủng loại sản phẩm đa dạng, từ hàng trang trí nội thất trong nhà, hàng ngoài trời… đến các mặt hàng dăm gỗ. Kim ngạch xuất khẩu gỗ liên tục tăng. Trong những năm tới, ngoài việc duy trì và phát triển các thị trường truyền thống (cả thị trường trung chuyển và thị trường người tiêu dùng trực tiếp) để thông qua đó uy tín và chất lượng của sản phẩm gỗ xuất khẩu Việt Nam tiếp cận nhanh hơn tới người tiêu dùng, ngành gỗ Việt Nam sẽ tập trung phát triển mạnh một số thị trường mục tiêu, có nền kinh tế phát triển ổn định, sức mua ổn định và nhu cầu liên tục tăng, các thể chế về kinh doanh, thương mại hoàn thiện, hệ thống phân phối rộng khắp và năng động, bao gồm: EU, Mỹ, Nhật Bản và Cộng hòa Liên bang Nga. Khách hàng chủ đạo đối với các sản phẩm gỗ Việt Nam được xác định là nhà nhập khẩu và các nhà phân phối. Thực tế năng lực tài chính tiếp thị, nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, nên nếu trực tiếp thiết lập các kênh phân phối, mạng lưới tiêu thụ và nghiên cứu nhu cầu phát triển của thị trường sẽ thực sự rất khó khăn đối với mỗi doanh nghiệp. Việc sử dụng những kênh phân phối hiện có và khả năng phát triển thị trường của các nhà 11 phân phối và nhập khẩu tại các thị trường lớn và giải pháp hữu hiệu nhất để tăng sản lượng thâm nhập thị trường đồng thời tiết kiệm chi phí cho công tác tiếp thị.  Sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam Sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam từ chỗ chỉ là sản phẩm thô (gỗ tròn, gỗ xẻ) đã phát triển lên một trình độ gia công cao hơn, áp dụng công nghệ tẩm, sấy, trang trí bề mặt… xuất khẩu các sản phẩm hoàn chỉnh, sản phẩm có giá trị gia tăng về công nghệ và lao động. Có thể chia các sản phẩm gỗ xuât khẩu của Việt Nam thành 5 nhóm chính [12, tr.9] - Nhóm 1: sản phẩm gỗ thô (gỗ tròn, gỗ xẻ…) - Nhóm 2: dăm gỗ, bột gỗ chủ yếu làm từ gỗ rừng trồng như gỗ keo, gỗ bạch đàn… - Nhóm 3: sản phẩm đồ gỗ ngoài trời như bàn ghế vườn, ghế băng, ghế xích đu làm hoàn toàn từ gỗ hoặc gỗ kết hợp với các nguyên liệu khác như nhựa, kim loại, đá… - Nhóm 4: sản phẩm đồ gỗ trong nhà như bàn ghế, giường, tủ, giá sách, ván sàn… - Nhóm 5: sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ được làm chủ yếu từ gỗ rừng tự nhiên áp dụng các công nghệ truyền thống như chạm, khắc, khảm… Hiện nay, hàng gỗ chế biến xuất khẩu sang thị trường Mỹ chủ yếu là bàn ghế ngoài trời làm từ gỗ cứng trong khi hàng tới thị trường Nhật Bản và EU chủ yếu là đồ dùng trong nhà làm từ gỗ mềm.  Hình thức xuất khẩu lâm sản ở Việt Nam Hiện nay, đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở khoảng 120 nước trên thế giới. Đồ gỗ Việt Nam được xuất khẩu thông qua hai hình thức chủ yếu là: - Gia công xuất khẩu cho các nhà xuất khẩu Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc… để các nước này tiếp tục xuất khẩu sang các nước thứ ba dưới nhãn hiệu của họ. Đây là hình thức xuất khẩu chủ yếu trong những năm trước đây khi các doanh nghiệp gỗ Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong công nghệ chế biến, thiết 12 kế mẫu mã cũng như năng lực tìm kiếm thị trường và khách hàng còn hạn chế. Hiện nay, hình thức xuất khẩu này đang dần được thu hẹp, nhường chỗ cho hình thức xuất khẩu trực tiếp. - Xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường như Mỹ, Nhật Bản, EU, Nga… với nhãn hiệu của chính các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay, trên thị trường gỗ thế giới, Việt Nam đang nổi lên là một trong những quốc gia có nhiều tiềm năng trong xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm đồ gỗ. Tuy vậy, hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam đều có quy mô và năng lực còn hạn chế, cả về tiềm lực tài chính lẫn khâu tiếp cận thị trường và phát triển sản phẩm. Hiện mới chỉ có 4 doanh nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam có đủ các tiêu chuẩn để tham gia vào Mạng kinh doanh lâm sản thế giới. Việc thiết lập kênh phân phối trực tiếp sản phẩm của các doanh nghiệp tới người tiêu dùng hầu như vẫn còn vượt quá khả năng của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, khách hàng chủ yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt Nam là các nhà nhập khẩu và các nhà phân phối tại các thị trường [12, tr. 9 - 10]. 1.1.2.2.Các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về xuất khẩu lâm sản Với chủ trương tạo mọi điều kiện để phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như phát triển vùng nguyên liệu, giao đất giao rừng, khai thác, chế biến, lưu thông, tín dụng, xuất nhập khẩu... Về xuất nhập khẩu, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998, Quyết định 65/1998/QĐ-TTg ngày 24/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 122/1999/TT-BNN-PTNT ngày 27/3/1998 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nhằm quản lý việc xuất khẩu đồ gỗ sản xuất từ rừng tự nhiên trong nước, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu cũng như xuất khẩu sản phẩm gỗ từ rừng trồng, gỗ nhập khẩu. Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã xây dựng các mức thuế suất cụ thể, có phân biệt đối với các sản phẩm xuất khẩu được làm từ nguyên liệu gỗ có xuất xứ 13 khác nhau. Sản phẩm xuất khẩu được làm từ gỗ rừng tự nhiên chịu thuế suất cao hơn sản phẩm làm từ gỗ rừng trồng. Gỗ rừng tự nhiên có mức thuế suất bình quân là 5-10%, sản phẩm từ gỗ rừng trồng thuế suất 0%. Các chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển, chính sách thưởng xuất khẩu cũng là động lực thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam. Chính sách nhập khẩu gỗ có lẽ là chính sách quan trọng nhất được chính phủ Việt Nam ban hành nhằm giảm lượng gỗ khai thác và tăng diện tích rừng. Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt nam giai đoạn 2006 – 2020 [14] đặt ra mục tiêu sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh quốc tế chủ yếu dựa vào nguồn gỗ và lâm sản ngoài gỗ nội địa bền vững, áp dụng công nghệ tiên tiến và thân thiết với môi trường, xây dựng công nghệ chế biến lâm sản trở thành mũi nhọn kinh tế của ngành lâm nghiệp, bên cạnh đó định hướng cho xuất nhập khẩu lâm sản như sau: Một là: Công nghiệp chế biến lâm sản sẽ phát triển theo hướng không tự cung tự cấp toàn bộ nguyên liệu. Cần tổ chức tốt việc nhập khẩu nguyên liệu lâm sản, đồng thời tăng cường trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn và lâm sản ngoài gỗ, từng bước đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm chế biến Hai là: Đa dạng hóa và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm chế biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước. Ba là: Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu và cấp chứng chỉ cho các mặt hàng xuất khẩu 1.1.2.3. Cá c chí nh sá ch củ a nước ngoà i ảnh hưởng đế n xuấ t khẩu lâm sản củ a Viê ̣t nam  Những hiệp ước thương mại quốc tế và khu vực có liên quan Nước xuất khẩu cũng như nước nhập khẩu có thể đưa ra những quy định yêu cầu cụ thể về giấy phép. Trước hết là giấy phép xuất nhập khẩu. Ở một số nước việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu hết sức phức tạp, điều nay làm cho thương mại trở nên rất khó khăn và thường dẫn tới tham nhũng. Nhìn chung hiện nay các nước thường quy định một số loại chứng từ nhất định như giấy chứng nhận xuất xứ và 14 môt bằng chứng nhận rằng hàng hóa được giao là khôn có bệnh và sâu hại. Nghĩa vụ xuất trình những chứng từ này ở các nước là rất khác nhau. Những quy định cụ thể đối với các sản phẩm gỗ là rất quan trọng (có tầm quan trọng quốc tế) vì chúng là cơ sở cho trao đổi thương mại gỗ rộng khắp trên toàn thế giới. Với tầm quan trọng của chúng đối với thị trường xuất khẩu quốc gia, những quy định này đã hình thành nên các hiệp định thương mại. Chúng không chỉ được các nước xuất khẩu đưa ra mà còn được đưa ra bởi các tổ chức quốc tế như ATIBT (Hiệp hội kỹ thuật quốc tế về gỗ nhiệt đới): Các nguyên tắc phân loại gỗ tròn và gỗ xẻ nhiệt đới “Paris 1982”. Hệ thống phân loại gỗ xẻ này cũng được Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) lựa chọn áp dụng đối với các nước nhiệt đới có liên kết. Nó cũng được áp dụng thay cho những quy định của NHLA (Hiệp hội gỗ xẻ cứng quốc gia Mỹ) đã có hiệu lực áp dụng trước đây. Tất cả các qui định thông thường trong hợp đồng, chẳng hạn như các qui định có liên quan đến thanh toán cũng đều được ATIBT qui định rõ Nguyên tắc phân loại của Malaysia 1984 (MGR 1984) có lẽ là hiệp định thương mại được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Brazil cũng ban hành một qui định về tiêu chuẩn tương tự đó là qui định Brazil 68 cho việc xuất khẩu gỗ thông. Nước này cũng mới đưa ra một qui định mới hơn, đó là nguyên tắc phân loại của Brazil đối với gỗ cứng xẻ năm 1993 trong đó liệt kê những quy định chung trong xuất khẩu gỗ cứng nhiệt đới xẻ Trước đây tổ chức nông lương thế giới (FAO) cũng đã ban hành những qui định đối với khu vực Châu Á Thái Bình Dương, chẳng hạn như nguyên tắc phân loại gỗ cứng (trừ gỗ tếch) của khu vực Châu Á Thái Bình Dương – Rome 1959 và Nguyên tắc phân loại gỗ cứng xẻ của khu vực Châu Á Thái Bình – Rome 1959 (không bao gồm gỗ tếch). ATIBT hợp tác chặt chẽ với ITTO (Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế), thông qua “Phòng giám định và hòa giải” của mình cũng đã có một số ảnh hưởng nhất định đối với vấn đề này. Trong kỳ họp thứ 32 tại Bali của Ủy ban gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTC), ban chỉ đạo của Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) đã thông qua Quyết định 11. Trong đó 15 chỉ rõ: giấy chứng nhận rừng (chứng chỉ rừng) là một công cụ thị trường tự nguyện quan trọng để khuyến khích và tạo động cơ cho việc quản lý rừng và tăng tính minh bạch của thị trường. Hiện nay ở Việt nam đang cố gắng thiết lập một hệ thống cấp giấy chứng nhận rừng và gỗ xẻ theo phương pháp của Hội đồng quản lý rừng quốc tế (FSC)  Những rào cản trong thương mại quốc tế Về mặt chính sách, theo Quyết định số 46/2001/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 04/04/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 – 2005 thì mọi dạng sản phẩm gỗ đều được phép xuất khẩu, trừ gỗ tròn, gỗ xẻ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước. Tuy nhiên, năm 2008 Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Nông nghiệp 2008 (2008 Farm Bill) trong đó, có hai mục tác động tiêu cực đến Việt Nam. Cụ thể là tại mục 8240, phía Mỹ yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu bất cứ thực vật nào vào nước này đều phải nộp một bản khai báo khi nhập khẩu bao gồm tên khoa học của thực vật, giá trị hàng nhập khẩu, số lượng thực vật, tên của quốc gia nơi thực vật đó được đốn hạ , thu hoạch…Đây là một quy định ít nhiều gây khó dễ cho các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt Nam vì việc xác định sản phẩm thực vật trong đó có nhiều loài, có nhiều xuất xứ từ nhiều quốc gia là việc làm vô cùng phức tạp và mất nhiều thời gian…Tại mục 3301, phía Mỹ yêu cầu các nhà nhập khẩu một số loại gỗ xẻ mềm và sản phẩm từ gỗ xẻ mềm phải khai báo tất cả những thông tin về giá xuất khẩu của mỗi lô hàng, mức phí xuất khẩu ước tính… Từ năm 2010, Mỹ và EU đặt ra rất nhiều quy định nghiêm ngặt, đặc biệt là đạo luật Lacey của Mỹ (có hiệu lực từ 1/4/2010) đối với đồ gỗ nhập khẩu từ các thị trường, trong đó có một lượng không nhỏ từ Việt Nam. Một trong những yêu cầu đó là phải chứng minh được nguồn gỗ hợp pháp. Để đảm bảo yêu cầu của các nước nhập khẩu, ngành công nghiệp gỗ nhất thiết phải sử dụng nguồn gỗ hợp pháp. Đây là thách thức lớn đối với doanh nghiệp gỗ Việt Nam. Muốn làm được điều này, các doanh nghiệp cần phải biết đầy đủ và chi tiết về 16 nguồn gốc, xuất xứ, số lượng và chủng loại gỗ xuất khẩu hàng năm. Đồng thời phải nắm bắt rất rõ đơn đặt hàng theo mẫu mã thiết kế và thị trường tiêu thụ Bên cạnh đó, các doanh nghiệp ngành gỗ của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ có thể phải đối mặt với những vụ kiện phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp) của các nhà sản xuất nội địa Mỹ. Đến tháng 1/2012, đạo luật FLEGT của EU cũng sẽ có hiệu lực. Đặc điểm chung của cả FLEGT và Lacey đều đòi hỏi nhà xuất khẩu phải trình bày chuỗi hành trình của lâm sản, tất cả các khâu từ khai thác cho đến thành phẩm một cách minh bạch, rõ ràng để nhà chức trách Mỹ và EU có thể truy xét nguồn gốc nguyên liệu. Thế nhưng hiện các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng, bởi vì chưa có hướng dẫn cụ thể từ phía các cơ quan chức năng. Bộ tiêu chí chứng chỉ rừng đến nay Nhà nước ta đã xây dựng xong nhưng còn phải chờ các tổ chức quốc tế thẩm định để công nhận. Bên cạnh đó, nhiều DN xuất khẩu còn đang gặp khó khăn về nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu gỗ nguyên liệu phục vụ chế biến sản phẩm xuất khẩu. Mặc dù các ngân hàng đã thông báo đảm bảo vốn cho những đối tượng ưu tiên, trong đó có các DN xuất khẩu nhưng thực tế việc tiếp cận vốn cũng không hề dễ dàng hoặc nếu có thì vẫn phải chịu giá vốn khá cao 1.1.2.4 Những thuận lợi và khó khăn trong xuất khẩu gỗ của Việt Nam hiện nay  Thuận lợi - Về sản phẩm: Sản phẩm gỗ của Việt Nam đã được cải tiến nhiều, tương đối đa dạng, bao gồm năm chủng loại sản phẩm: đồ gỗ nội thất; bàn ghế ngoài trời; đồ gỗ mỹ nghệ; đồ gỗ kết hợp với vật liệu khác (gỗ với song mây, sắt thép, đệm mút...) và các loại ván nhân tạo (ván dăm, ván sợi...). Từ xưa, tay nghề của từng nhóm thợ mộc và chạm khắc tự truyền dạy cho nhau đã đạt tới mức rất điêu luyện thể hiện qua những tác phẩm mộc, điêu khắc trong các đình chùa. Ngày nay những sản phẩm chế biến gỗ của chúng ta cũng ngày càng tinh xảo, tinh tế, hồn Việt trong những sản phẩm đồ gỗ chất lượng cao sản xuất tại Việt Nam đã thuyết phục cả những thị trường khó tính trên thế giới. 17 - Về lao động: Nguồn nhân lực Việt Nam ta dồi dào, phong phú. Nguồn tri thức của người lao động Việt Nam đủ sức để tiếp nhận và ứng dụng các công nghệ cao cấp, quy trình kỹ thuật tiên tiến của sự phát triển tri thức tòan cầu. - Về thị trường: Những thị trường đồ gỗ chính trên thế giới như Châu Âu, Mỹ, Úc có xu hướng chuyển dịch dần đầu tư và mua hàng ở Việt Nam. Các DN Châu Âu và Hoa Kỳ đang ồ ạt vào Việt Nam để đầu tư sau khi VN gia nhập WTO vì coi đây là nơi làm ăn yên bình – có chế độ chính trị ổn định. GDP/hàng năm tăng cao nhất khu vực Đông Nam Á (tương lai một vài năm tới, Hoa Kỳ sẽ trở thành nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam). - Về phía bản thân các doanh nghiệp: Đang có xu hướng hình thành các doanh nghiệp chế biến gỗ có quy mô trên trung bình với trình độ quản lý, thiết bị, tay nghề công nhân, được khách hàng đặc biệt chú ý. Doanh nghiệp xuất khẩu lâm sản Việt Nam đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu từ những thành công và không thành công trong xuất khẩu những năm qua. Đội ngũ chuyên gia cán bộ và nhân viên làm nhiệm vụ xuất khẩu lâm sản từng bước được củng cố hoàn thiện. Việc bảo quản chế biến lâm sản, đóng gói bao bì ngày càng có chất lượng hơn, giúp các DN XK vươn ra cạnh tranh với thị trường khu vực và thế giới. - Về phía Nhà nước: Các chính sách về đầu tư ngành gỗ của Đảng và Nhà Nước rất rõ ràng, công minh, phù hợp đối với nền kinh tế nói chung và nói riêng là đối với các doanh nghiệp đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến gỗ, luôn kêu gọi và luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào ngành này. Nước chúng ta rất ổn định về chính trị, an ninh quốc phòng. Đây là điểm rất thuận lợi, các doanh nghiệp an tâm đầu tư và mở rộng đầu tư các ngành kinh tế tại nước nhà.  Khó khăn - Việt Nam chưa có tiếng nói chung về sự phát triển của thị trường, hầu như việc phát triển thị trường là tự phát từ hướng các doanh nghiệp, doanh nghiệp tự lực, tự cường trong việc tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm thị trường và tự dò tìm các 18 phương hướng phát triển kinh tế, đầu tư sản xuất mà không có bất kỳ sự tập trung chỉ đạo, hướng dẫn những đường lối sáng suốt và kịp thời từ phía Chính Phủ, từ Hiệp hội ngành gỗ. - Ngành chế biến gỗ của Việt Nam còn mang tính đầu tư và sản xuất nhỏ, sản xuất mang tính thủ công, tính cách gia đình, việc tích lũy vốn, để đầu tư thiết bị máy móc hiện đại của các nước tiên tiến không được chú trọng. Các nhà sản xuất nhỏ là tác nhân gây nên sự mất cân đối về giá cả xuất khẩu. Do sản xuất nhỏ, chi phí sản xuất chủ yếu là chi phí công lao động thấp, vì vậy họ đưa ra giá chào bán sản phẩm xuất khẩu thấp, tạo nên sự mất cân đối về hệ thống giá cả xuất khẩu trong nước và từ giá cả này mà khách hàng áp đặt giá và gây áp lực đối với các doanh nghiệp đầu tư sản xuất lớn. Và để có thể nhận được đơn hàng từ khách hàng, các doanh nghiệp buộc phải chấp nhận sản xuất với giá thấp, ít lợi nhuận và có lúc không có lợi nhuận, và điều này kéo theo hàng loạt doanh nghiệp lớn phá sản, đóng cửa. Đó là chưa kể đến những cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không lành mạnh) trong nội bộ các doanh nghiệp trong nước, cũng là một trong số các nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chỉ gia công sản phẩm gỗ xuất khẩu mà không mang thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế. - Các doanh nghiệp không có bất kỳ sự tư vấn, tham mưu nào của các công ty tư vấn, các Hiệp hội ngành gỗ, hoặc các cơ quan hữu quan. Dẫn đến việc mất phương hướng mở rộng đầu tư, đi sau các nước bạn về đầu tư công nghệ, máy móc, và hiển nhiên thua kém nước bạn về chiếm thị phần trên thương trường quốc tế. - Phát triển công nghiệp chế biến lâm sản còn mang tính phát triển đơn lẻ, không có sự kết hợp, phát triển đồng bộ của các ngành cơ khí, chế tạo các vật tư, Hardware đi kèm với sản phẩm gỗ, thường chiếm 5-10% giá trị sản phẩm. Không có bất kỳ nhà chế biến, sản xuất hóa chất tầm cỡ, đảm bảo chất lượng và giá cả hợp lý nào cả, giá thành cung cấp quá cao nhưng chất lượng lại quá yếu kém, không cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp. - Sự bất ổn về nguồn nhập khẩu nguyên liệu gỗ, phục vụ cho sản xuất do ảnh hưởng của chính sách của các nước xuất khẩu nguyên liệu gỗ cho chúng ta. Hơn 19 80% nguyên liệu gỗ phục vụ cho ngành xản xuất chế biến gỗ đều phải nhập khẩu, và đa số nhập khẩu từ Malaysia, Indonesia, đây là những nước thường xuyên thay đổi về chính sách xuất khẩu gỗ, lúc cho xuất khẩu, lúc lại cấm không cho xuất khẩu gỗ, yếu tố này hết sức khó khăn, bị động cho các doanh nghiệp, gây sự bị động trầm trọng trong sự phát triển ngành chế biến gỗ. - Việc cung ứng và sử dụng nguyên liệu gỗ còn bất hợp lý. Hàng năm Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn gỗ rừng trồng dưới dạng dăm gỗ ảnh hưởng đến Kế hoạch phát triển nguồn nguyên liệu gỗ lớn và phát triển công nghiệp ván nhân tạo. Trong khi đó, Việt Nam phải nhập khẩu 80% nguyên liệu gỗ để sản xuất sản phẩm đồ mộc, kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu gỗ hàng năm tương đương khoảng 4045% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ. Cụ thể, năm 2005: 667 triệu USD; năm 2006: 760 triệu USD; năm 2007: trên 1 tỷ USD; năm 2009: 1.134 triệu USD [1, tr.3]. - Việt Nam chưa có các chính sách bảo hộ về thương hiệu, mẫu mã sản phẩm Việt Nam trên thương trường quốc tế. Điều này làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu đồ gỗ giảm, khiến các doanh nghiệp luôn bị động trong sản xuất, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, vốn ít thường phải mua gỗ nguyên liệu nhập khẩu qua nhiều khâu trung gian. - Năng lực từng doanh nghiệp còn yếu, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, việc tổ chức liên kết hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp lại chưa được triển khai. Do thiếu vốn nên các doanh nghiệp chưa làm được đơn đặt hàng lớn, thường bỏ qua cơ hội làm ăn mang lại lợi nhuận cao. - Thiếu các thương hiệu có uy tín cũng là một cản trở lớn của ngành xuất khẩu đồ gỗ. Nhiều doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ Việt Nam phải "nhờ" những thương hiệu của nước ngoài mới đưa được sản phẩm của mình thâm nhập vào thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam do ít vốn nên khó có đủ chi phí để tiếp thị sản phẩm, quảng bá thương hiệu của mình ra thị trường nước ngoài. Vì vậy
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan