1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Trong xu thế mạnh mẽ của toàn cầu hóa, tự do hóa, nền kinh tế Lào
đang từng bước hội nhập với khu vực và thế giới theo đúng chủ trương mà
Đảng đã xác định "chủ động hội nhập kinh tế thế giới". Những năm đổi mới
mở cửa vừa qua, nền kinh tế Lào đã có những bước phát triển đáng kể với tốc
độ tăng GDP từ 6-7%/năm trong giai đoạn từ 1991- 2010. Hội nhập kinh tế đã
mang lại cho Lào nhiều cơ hội mở rộng thương mại với các nước trên thế
giới, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh cải cách trong mọi
lĩnh vực... Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế đang là
sức ép lớn khi Lào tham gia hội nhập, đặc biệt với ngành ngân hàng, với hệ
thống Ngân hàng Thương mại (NHTM) mà trung tâm là các NHTMNN.
Hoạt động ngân hàng, trong đó NHTMNN với vai trò chủ đạo trong
những năm qua đã có sự đóng góp rất lớn vào sự thành công trong sự nghiệp
đổi mới đất nước, đã triển khai thực hiện chính sách tiền tệ một cách tích cực,
cơ bản ổn định được giá trị và sức mua của đồng tiền, kìm chế lạm phát, tăng
dự trữ ngoại tệ cho quốc gia và góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhìn
chung vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế,
chưa phát huy hết chức năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để làm cho
kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo.
Cổ phần hóa các NHTMNN Lào là một trong những hướng đi quan
trọng của nỗ lực cải cách nền kinh tế, chuyển hướng sang nền kinh tế thị
trường đa thành phần. Cổ phần hóa NHTMNN Lào, không chỉ thực hiện các
mục tiêu về nâng cao năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro ngân hàng
mà còn là phương án khả thi để tăng nhanh năng lực tài chính cho các
NHTMNN Lào đạt hệ số an toàn vốn theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, khi
2
bắt tay vào thực hiện, thực tế đã nảy sinh nhiều khó khăn, phức tạp. Những
vướng mắc này nếu không được giải quyết, khắc phục kịp thời sẽ gây cản trở,
làm chậm tiến trình Cổ phần hóa các NHTMNN Lào.
Tuy nhiên, Cổ phần hóa NHTMNN là một vấn đề rất phức tạp, vì vậy
đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách khoa học và cẩn trọng để từ đó có thể
đưa ra được một lộ trình phù hợp với bối cảnh của đất nước và của từng
NHTMNN nhằm đạt được mục tiêu và hiệu quả mong muốn. Tác giả ý thức
được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề trên, cũng như mong muốn
góp phần nhỏ bé của mình vào việc đẩy mạnh tiến trình Cổ phần hóa NHTMNN
Lào nên đã lựa chọn đề tài "Giải pháp Cổ phần hóa ngân hàng thương mại
nhà nước Lào" làm luận án nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Cổ phần hóa các danh nghiệp Nhà nước (DNNN) nói chung và Cổ
phần hóa các NHTMNN nói riêng là vấn đề rất được quan tâm ở các nước
đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường (KTTT), vì vậy
đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
2.1 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Từ năm 1995 đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Cổ phần
hóa các DNNN và NHTMNN, đó là các Luận án tiến sĩ và Luận văn thạc sĩ đề
cập dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Một số công trình tiêu biểu như:
- “Giải pháp tài chính nhằm đẩy mạnh tiến trình thực hiện cổ phần
hóa DNNN ở Việt nam hiện nay”, Phạm Đình Toàn (2005), Luận án tiến sĩ
kinh tế - Đại học kinh tế quốc dân. Luận án đã hệ thống hóa một số vấn đề lý
luận về Cổ phần hóa DNNN, đánh giá thực trạng Cổ phần hóa DNNN ở Việt
Nam, chỉ ra những điểm thành công, hạn chế và nguyên nhân làm chậm tiến
độ cổ phần hóa, từ đó đề xuất giải pháp về khía cạnh tài chính nhằm tháo gỡ
khó khăn, đẩy mạnh tiến trình thực hiện cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam.
3
- "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cổ phần hóa ngân hàng
thương mại nhà nước ở Việt Nam", Phạm Thị Húy (2007), Luận văn thạc sĩ
Kinh tế - Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đã đề cập đến
một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa NHTMNN, làm rõ quan điểm về cổ
phần hóa NHTMNN ở Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm về cổ phần hóa của
các nước trên thế giới; tác giả đã nghiên cứu điển hình tại NHTM Việt Nam,
từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các
NHTMNN ở Việt Nam.
- "Cổ phần hóa Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam", Đặng Thị
Thùy Trang (2007), Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh. Trong nghiên cứu, tác giả đã làm rõ lý thuyết cổ phần hóa
NHTMNN để giải quyết yêu cầu thực tế về cải cách hoạt động của hệ thống
NHTMNN ở Việt Nam; đã phân tích đánh giá tiến trình thực hiện cổ phần hóa
BIDV (bước 1), từ đó chỉ ra những kết quả bước đầu, những hạn chế và nguyên
nhân, trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy
mạnh tiến trình thực hiện cổ phần hóa BIDV một cách có hiệu quả nhất.
- "Niêm yết các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường
chứng khoán Việt Nam", Bùi Văn Thanh (2007), Luận văn thạc sĩ Kinh tế,
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này đã làm rõ một số
vấn đề lý luận về NHTM và thị trường chứng khoán; thực trạng niêm yết của
các NHTM cổ phần trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam và
nghiên cứu sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động của NHTM cổ
phần và TTCK hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn hoạt động NHTM cổ phần đã niêm yết trên TTCK, tác giả đề xuất
phương hướng và giải pháp đẩy mạnh việc niêm yết các NHTM cổ phần trên
TTCK Việt Nam.
4
Ngoài ra, còn có một số bài viết về chủ đề cổ phần hóa NHTMNN
được đăng tải trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành như: "Một số vấn đề
cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam", của PGS.TS.
Nguyễn Đình Tự, Tạp chí Ngân hàng, số 8/2004; "cổ phần hóa các ngân
hàng thương mại nhà nước trong phát triển thị trường chứng khoán ở nước
ta", của PGS.TS. Nguyễn Đình Tự, Tạp chí Cộng sản, số 4/2005; "Cổ phần
hóa ngân hàng thương mại nhà nước những vấn đề đặt ra giải pháp đẩy
mạnh", của Trần Ngọc Minh, Tạp chí Phát triển kinh tế, số tháng 10/2006,…
2.2 Tình hình nghiên cứu ở Lào
Cũng trong xu thế tất yếu của các quốc gia đang chuyển đổi sang nền
KTTT, vấn đề cải cách hoạt động của các NHTM và cổ phần hóa NHTMNN
được coi là một chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cải cách DNNN ở
CHDCND Lào hiện nay. Các nghiên cứu về nâng cao năng lực hoạt động của
các NHTM Lào trong quá trình hội nhập quốc tế đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách. Một số công
trình tiêu biểu như:
- “Nhu cầu tiền tệ tại CHDCND Lào và những gợi ý chính sách”
Somphao Phaysith (2013), Luận án tiến sỹ Trường ĐH Kinh tế Quốc dân.
Luận án phân tích rõ những yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu tiền tệ của Lào và
đưa ra những chính sách và gợi ý quan trọng, thiết thực với CHDCND Lào.
- “Giải pháp tăng cương huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại thương
Lào”, Phansana Khounnouvong (Viêng Chăn 2010), Luận văn thạc sĩ.
- “Giải pháp thành lập và phát triện thị trường mở của Ngân hàng
Nhà nước Lào”, Somphet Vongkhamchanh (Viêng Chăn 2010), Luận văn
thạc sĩ.
- “Giải pháp tăng cương phân tích thậm định dư án đầu tư của Ngân
hàng Ngoại thương Lào”, Phonsouk Phommachanh (Viêng Chăn 2010), Luận
văn thạc sĩ.
5
- “Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tại Ngân hàng Ngoại
thương Lào”, Phasy Phommakon (Viêng Chăn 2010), Luận văn thạc sĩ.
- “Giải pháp đổi mới hoạt động ngân hàng trung ương Lào trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế”, Phouphet Khamphouvong (Viêng Chăn 2010),
Luận văn thạc sĩ.
- “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương Lào
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Souphak Thinxayphon (Viêng
Chăn 2010), Luận văn thạc sĩ,
- "Giải pháp nhằm phát triển bền vững thị trường chứng khoán Lào
trong giai đoạn tới", Sengchanh Singsavang (2010), Tạp chí Ngân hàng ở Lào
số 3, tr. 47-49.
Nhìn chung, các công trình trên đều đã đề cập đến vấn đề hội nhập
quốc tế của các NHTMNN, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển hoạt
động kinh doanh dịch vụ ngân hàng hiện đại. Như vậy, cho đến nay chưa có
một công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống về cổ phần hóa NHTMNN Lào. Luận án của tác giả, vì vậy không
trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa NHTMNN, nội
dung cơ bản của tiến trình cổ phần hóa NHTMNN.
- Tham khảo kinh nghiệm cổ phần hóa NHTMNN của Việt Nam và một
số nước khác, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho NHTMNN Lào.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống NHTM Lào, làm rõ tính tất
yếu khách quan phải cổ phần hóa NHTMNN Lào. Tập trung đánh giá đề án
thí điểm cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Lào (BCEL), từ đó chỉ ra
những thành công, kết quả bước đầu, những tồn tại, vướng mắc trong tiến
trình triển khai cổ phần hóa.
6
- Xác lập mục tiêu, nguyên tắc, quan điểm cổ phần hóa NHTMNN Lào,
đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình thực hiện cổ phần hóa
NHTMNN Lào.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Cổ phần hóa NHTMNN là vấn đề rộng lớn và rất phức tạp, Luận án
tập trung nghiên cứu quá trình cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Lào
(BCEL), các hoạt động kinh doanh của BCEL và quá trình chuẩn bị thực hiện
CPH BCEL trong giai đọan từ năm 2008 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu là BCEL trên toàn diện, không xét tới các chi
nhánh và các công ty con. Chính vì thế, báo cáo tài chính hợp nhất của BCEL
sẽ là phạm vi nghiên cứu tập trung của đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Phương pháp Thống kê, Phân tích, Tổng hợp, Suy luận, diễn giải, Phương
pháp thực chứng để đối chiếu, đánh giá các vấn đề sự kiện. Luận án sử dụng
các tư liệu trong 5 năm gần đây của hệ thống NHTMNN Lào được phân tổ
theo các tiêu thức khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu của từng vấn đề.
6. Những đóng góp khoa học của luận án
Một là: Luận án đã hệ thống hóa và phân tích làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và thực tiễn về cổ phần hóa NHTMNN Lào cũng như những vấn
đề đặt ra sau cổ phần hóa các NHTMNN Lào. Bên cạnh việc kế thừa kết quả
nghiên cứu của những công trình đã công bố, tác giả còn đưa ra quan điểm
cá nhân của mình để hoàn thiện hơn lý luận cơ bản về cổ phần hóa
NHTMNN Lào.
Hai là, Tác giả nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm cổ phần hóa
NHTMNN như Trung Quốc và Việt Nam, trên cơ sở đó rút ra bài học kinh
nghiệm có thể vận dụng cho công tác cổ phần hóa NHTMNN Lào.
7
Ba là, Luận án đã phân tích thực trạng hệ thống NHTM Lào, làm rõ
tính tất yếu khách quan phải cổ phần hóa NHTMNN Lào; nghiên cứu điển
hình tiến trình thực hiện cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Lào, trên cơ
sở đó luận án đánh giá, phân tích về những thuận lợi, kết quả đạt được và
những tồn tại trong tiến trình cổ phần hóa các NHTMNN. Những vấn đề lý
luận được hệ thống hóa và phân tích thực trạng, đó là cơ sở khoa học cho các
đánh giá thực tiễn và đề xuất các phương hướng, giải pháp giải quyết các vấn
đề nghiên cứu mà luận án đề ra.
Bốn là, Đóng góp chủ yếu của luận án là đề xuất được các định hướng
về mục tiêu, nguyên tắc và quan điểm cơ bản về cổ phần hóa NHTMNN Lào;
đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ và các kiến nghị nhằm đẩy mạnh hơn
nữa tiến trình cổ phần hóa NHTMNN Lào trong tương lai. Các đề xuất đó là
có luận cứ khoa học và thực tiễn khá đầy đủ nên có giá trị vận dụng để đẩy
mạnh tiến trình cổ phần hóa các NHTMNN Lào trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của của luận án gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về Cổ phần hóa Ngân hàng Thương
mại Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng Cổ phần hóa Ngân hàng Thương mại Nhà nước
Lào.
Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh Cổ phần hóa Ngân hàng Thương mại
Nhà nước Lào.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CỔ PHẦN HÓA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm ngân hàng thương mại nhà nước
Trong nền KTTT, có nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn tại và
phát triển ở nhiều ngành, lĩnh vực hoạt động khác nhau, trong đó, NHTM
cũng được coi là một doanh nghiệp. Khi nền kinh tế hàng hóa càng phát
triển thì các NHTM càng trở nên cần thiết và đóng vai trò là một định chế tài
chính gắn liền với sự phát triển của nền KTTT và kinh tế hàng hóa. Vậy bản
chất NHTM là gì?
Việc đưa ra một khái niệm chung và chuẩn xác về NHTM là rất khó vì:
các nghiệp vụ ngân hàng thường đa dạng và phức tạp; mỗi vùng, mỗi nước lại có
những khái niệm khác về NHTM; đứng trên những góc độ khác nhau (quản lý,
nhà đầu tư, người vay vốn....) lại có những quan điểm khác nhau về NHTM.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức
khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính" [92, Tr 269].
Theo Luật các tổ chức tín dụng hiện hành của Việt Nam thì: "Ngân
hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận "[32, Điều 4].
Trong Nghị định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16/07/2009 của Chính phủ
Việt Nam về tổ chức và hoạt động của NHTM thì khái niệm NHTM được đưa
ra rõ hơn: "Các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng không được phép sử
dụng thuật ngữ "ngân hàng" trong tên của tổ chức, trong các phần phụ thêm
9
của tên, văn bản, thông báo hoặc quảng cáo của mình mà thuật ngữ đó có thể
gây nhầm lẫn cho công chúng về việc tổ chức của mình là một ngân hàng" [7,
Điều 3].
Tại Lào, theo Luật NHTM Lào ngày 26 tháng 12 năm 2006 thì:
"Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp được thành lập theo
quy định của Luật Ngân hàng thương mại mà kinh doanh về ngân hàng
chẳng hạn như huy động tiền gửi để cung cấp tín dụng, mua bán ngoại tệ,
dịch vụ thanh toán và đầu tư" [71, Điều 3].
Các khái niệm trên cho thấy một số chức năng cơ bản mà các NHTM
đảm nhận, có sự khác biệt tương đối với các chức năng của các trung gian tài
chính khác và có thể khái quát như sau: NHTM là một trong những định chế
tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp
vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thỏa mãn tối đa nhu
cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
Ngân hàng thương mại là một loại doanh nghiệp đặc thù. Tính đặc thù
của NHTM thể hiện ở chỗ, đối tượng tác nghiệp là tiền tệ. Như vậy, NHTM là
một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ.
Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của NHTM là nhận tiền gửi của khách
hàng (huy động vốn) với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay,
thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh toán (sử dụng vốn).
Huy động vốn là quá trình NHTM nhận tiền gửi của tổ chức và cá
nhân dưới các hình thức tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy
tờ có giá... và tiền vay của Ngân hàng nhà nước (NHNN), các tổ chức tín
dụng khác.
Sử dụng vốn của một NHTM chủ yếu từ hoạt động tín dụng và đầu tư,
tín dụng là quá trình NHTM cho các tổ chức và cá nhân vay vốn để phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị, đầu tư là quá trình các NHTM
10
dùng vốn tự có và các quỹ của mình mua đi bán lại các giấy tờ có giá (tín
phiếu, trái phiếu của Chính phủ, NHNN), chứng khoán hoặc góp vốn liên
doanh liên kết, mua cổ phần.
Hàng hóa sử dụng trong kinh doanh của NHTM là tiền tệ, thực hiện
các chức năng: Trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và cung ứng dịch
vụ cho khách hàng.
Ở Lào hiện nay, thuộc loại hình NHTM có các dạng sau: NHTMNN,
NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh NHTM nước ngoài.
Ngân hàng thương mại nhà nước là NHTM do nhà nước đầu tư vốn,
thành lập, thuộc sở hữu nhà nước. Hoạt động của NHTMNN là vì mục tiêu
lợi nhuận. Tuy nhiên, do NHTMNN đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân
hàng nên còn được Nhà nước giao cho nhiệm vụ góp phần thực hiện các
chính sách kinh tế của Nhà nước. Sự lồng ghép mục tiêu lợi nhuận và thực
hiện các chính sách kinh tế của Nhà nước đối với hoạt động của NHTMNN
thể hiện rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu của Nhà nước với NHTM.
Như vậy, NHTMNN là một NHTM có 100% vốn chủ sở hữu do Nhà
nước cấp và Nhà nước là người có quyền quản lý điều hành, bao gồm: Bổ
nhiệm bộ máy lãnh đạo, định hướng hoạt động kinh doanh, quản lý hoạt động,
thanh tra, kiểm tra... NHTMNN chỉ là một cách phân chia của NHTM đứng
trên góc độ sở hữu, chủ sở hữu của NHTMNN chính là Nhà nước.
* Đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHTMNN
Hoạt động kinh doanh của NHTM là một hoạt động đặc thù trong một
lĩnh vực mà nó có liên quan tới mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Các đặc
điểm chung của NHTM như sau:
Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích
kiếm lời (bao gồm hai hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng). Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy
11
động vốn dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có
nhu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân
hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán,
ngoại hối và chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho
khách hàng trong một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công
dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.
Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều
kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thỏa mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe
do pháp luật quy định (vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được
phép hoạt động trên thị trường. Do hoạt động ngân hàng liên quan chặt chẽ
với các lĩnh vực hoạt động khác của nền KT-XH nên đây được coi là một lĩnh
vực kinh doanh đặc biệt được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn
nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc,
mang tính chất dây chuyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong
hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM
phải tiến hành huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng
và trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn
nhất định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo
theo đó là sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với
nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế
giới thường được điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo
luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và
hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh những đặc điểm chung như các NHTM thông thường,
NHTMNN còn mang những đặc điểm riêng như: NHTMNN là những ngân
hàng lâu năm, có vốn chủ sở hữu và tổng giá trị tài sản lớn, phạm vi hoạt
12
động rộng, có mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước, có uy tín cao với dân
chúng; NHTMNN thường chiếm thị phần lớn trong thị trường ngân hàng (đặc
biệt là ở các nước đang phát triển); bên cạnh chức năng kinh doanh thông
thường, NHTMNN là trụ cột trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại nhà nước trong nền kinh tế thị trường
NHTMNN không chỉ đóng vai trò trong nền kinh tế là nhận tiền gửi
và cho vay, mà là phải thực hiện nhiều vai trò mới để có thể duy trì khả năng
cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu xã hội. Các NHTM nói chung và NHTMNN
nói riêng trong nền KTTT có những vai trò cơ bản sau: Vai trò trung gian; vai
trò thanh toán; vai trò người bảo lãnh; vai trò đại lý; vai trò thực hiện chính
sách tiền tệ.
Ngày nay, khi nền KTTT đang phát triển mạnh mẽ, quan hệ đa sở hữu
ngày càng trở nên phổ biến thì sở hữu nhà nước đối với các NHTM đang
giảm xuống rõ rệt, nhất là trong vòng 10 năm trở lại đây. Chính vì thế, tại các
nước có nền kinh tế phát triển, tỷ lệ vốn sở hữu nhà nước trong các NHTM rất
nhỏ, chỉ khoảng dưới 10% tổng số tài sản ngân hàng. Nguyên nhân là trong
những năm qua Chính phủ các nước đã tích cực chuyển đổi hình thức sở hữu,
từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác. Ngược
lại, tại các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế quá độ sang
KTTT, tỷ lệ sở hữu nhà nước trong các NHTMNN vẫn cao, như tại Ấn Độ là
80% tổng giá trị tài sản ngân hàng, tại Nga là 68% tổng giá trị tài sản ngân
hàng, tại Ai Cập là 67% tổng giá trị tài sản ngân hàng...
Tuy số lượng các NHTMNN trên thế giới đã giảm đi đáng kể nhưng
suốt trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, lịch sử đã chứng minh
NHTMNN đã và vẫn giữ vai trò chủ đạo, thực sự quan trọng đối với nền kinh
tế. Ngoài những vai trò của một NHTM thông thường thì NHTMNN thể hiện
13
vai trò đặc biệt, riêng có, ưu việt hơn các NHTM thuộc các thành phần kinh tế
khác, thể hiện ở một số nội dung sau:
Một là, NHTMNN cung ứng một lượng vốn đầu tư lớn cho nền kinh
tế để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước. Do có quy
mô hoạt động lớn cả về huy động vốn và cho vay vốn, NHTMNN có khả
năng đáp ứng đủ một lượng vốn đầu tư lớn và dài hạn cho các dự án trọng
điểm của các doanh nghiệp và Chính phủ, góp phần đảm bảo chiến lược phát
triển lâu dài cho toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa, sự tài trợ của NHTMNN vào
các dự án này sẽ đẩy mạnh hơn được tốc độ thực hiện, tiết kiệm được chi phí
về vốn và thời gian đầu tư so với sự tài trợ của các thành phần kinh tế khác.
Hai là, NHTMNN cung ứng vốn đầu tư cho các dự án thuộc các vùng,
lĩnh vực nhiều rủi ro, ít lợi nhuận nhưng lại có lợi về lâu dài cho tăng trưởng
ổn định, phát triển đồng đều nền kinh tế mà các NHTM thuộc các thành phần
kinh tế khác không đủ sức hoặc không muốn tài trợ.
Chính sách phát triển kinh tế của đất nước là phát triển cân đối giữa
các vùng, các ngành sản xuất. Tuy nhiên giữa các vùng, ngành luôn có sự
khác biệt nhất định. Ở một số vùng, ngành có khả năng tạo ra lợi nhuận lớn và
ít rủi ro sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Ngược lại, một số vùng, ngành khác có mức thu lợi nhuận thấp và rủi ro cao
lại không thu hút được vốn đầu tư. Chính sự khác biệt này có nguy cơ làm
mất cân đối nền kinh tế, mất cân đối giữa các vùng, ngành và không đạt được
mục tiêu phát triển của Chính phủ. Để khắc phục tình trạng này, dưới sự điều
tiết của Chính phủ, NHTMNN được xem là nguồn cung ứng vốn quan trọng
cho những dự án thực hiện đầu tư vào những vùng, ngành không đem lại lợi
nhuận cao và nhiều rủi ro. Nhờ có lượng vốn đầu tư từ NHTMNN, các vùng,
ngành này sẽ có điều kiện phát triển, thu hẹp khoảng cách với các vùng,
ngành khác, từ đó làm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và đồng đều.
14
Ba là, NHTMNN góp phần thực hiện các chương trình, chính sách
phát triển KT-XH của Chính phủ, đảm bảo tài chính tài trợ cho những khu vực
không có hoặc có lợi nhuận thấp nhưng có phúc lợi xã hội cao.
Ngoài các chương trình phát triển kinh tế, Chính phủ còn phải thực
hiện nhiều chương trình, chính sách phát triển khác về con người, xã hội. Vì vậy,
NHTMNN còn đóng góp quan trọng trong việc chuyển tải vốn nhằm thực
hiện các chương trình, chính sách phát triển kinh tế xã hội của nhà nước như:
khắc phục thiên tai, lũ lụt, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm ở đô thị...
Bốn là, NHTMNN tạo môi trường quan trọng để Nhà nước thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia.
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương.
Để thực thi chính sách tiền tệ phải sử dụng các công cụ như: lãi suất, dự trữ
bắt buộc, thị trường mở... Các NHTMNN là chủ thể chịu tác động trực tiếp
của những công cụ này và đồng thời NHTMNN đóng vai trò cầu nối trong
việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
So với các NHTM khác thì NHTMNN có quy mô hoạt động lớn hơn
nhiều về tất cả các mặt: thị phần, số vốn huy động, số vốn đầu tư cho nền kinh
tế... nên NHTMNN chính là ngân hàng chủ yếu trong việc thực thi chính sách
tiền tệ của ngân hàng Trung ương, quyết định đến kết quả thực hiện và mức
độ tác động đến nền kinh tế.
1.1.3. Xu hướng vận động của ngân hàng thương mại nhà nước trong nền
kinh tế thị trường
Trong gần hai thập kỷ nay, nền kinh tế các nước đã có nhiều thay đổi.
Từ một nền kinh tế đóng đang dần chuyển sang nền kinh tế mở, hình thành
nên một môi trường kinh doanh tự do và toàn cầu. Có thể nói đây là một xu
thế tất yếu mà không có một quốc gia nào muốn phát triển lại tự đặt mình ra
ngoài quy luật ấy. Trong điều kiện mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc
15
tế, các doanh nghiệp nói chung và các NHTMNN nói riêng phải đối mặt với
cạnh tranh khốc liệt, không chỉ cạnh tranh ở phạm vi ngoài nước mà cạnh
tranh ngay cả thị trường trong nước. Vì thế, trong những năm gần đây, các
NHTMNN có xu hướng chung là thực hiện những chiến lược cải cách, cải tổ
sâu rộng để nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập với kinh tế quốc tế, tăng
vốn chủ sở hữu, giải quyết nợ tồn đọng, tăng khả năng sinh lời, nâng cao năng
lực quản trị, điều hành, xây dựng và áp dụng nhiều công nghệ, dịch vụ ngân
hàng hiện đại... Nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động kinh doanh
do cơ chế bao cấp của Nhà nước, do môi trường kinh doanh khép kín đem lại,
do sự độc quyền sở hữu nhà nước đối với NHTMNN đem lại thì đòi hỏi phải
cải tổ lại NHTMNN mà trước hết là phải đa dạng hóa hình thức sở hữu trong
NHTMNN.
Các chiến lược đó là sáp nhập để tăng quy mô, đa dạng hóa sở hữu,
điển hình như một số cuộc sáp nhập ở Đài Loan giữa Ngân hàng hợp tác Đài
Loan và NHTM Chingfong bank và tiếp đến là vụ sáp nhập tay ba giữa First
Commerrcial Bank, Pan Asia bank và Dah An Commercial bank. Các thương
vụ sáp nhập ở Đài Loan thường diễn ra giữa một ngân hàng của Nhà nước với
một ngân hàng yếu kém hơn. Còn ở Đức, sự sáp nhập của NHTM Dresdner
và tập đoàn bảo hiểm Allanz đã tạo thành một liên minh tài chính hỗn hợp
nhằm củng cố địa vị tài chính và đặc biệt là tận dụng tối đa lợi thế các bên.
Thực hiện chiến lược đa dạng hóa sở hữu, từ sở hữu Nhà nước sang sở
hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác [93, tr.3], chỉ tính trong vòng 25
năm (1988 – 2005) đã có 250 NHTMNN ở 59 quốc gia trên thế giới tiến hành
CPH và tư nhân hóa [93, tr.30-41].
Như vậy, xu hướng chung của các NHTMNN trong nền KTTT là đa
dạng hóa sở hữu, chuyển từ sở hữu duy nhất là Nhà nước sang loại hình
doanh nghiệp cổ phần đa sở hữu.
16
1.2. CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm về Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước
Trong những năm gần đây, thuật ngữ "cổ phần hóa DNNN" và "tư
nhân hóa DNNN" được nhắc đến khá thường xuyên, nhất là ở những nền kinh
tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT. Vậy "Cổ phần hóa
DNNN", "tư nhân hóa DNNN" là gì? Để hiểu một cách đầy đủ các khái niệm
này, chúng ta hãy tiếp cận từ một số nội dung liên quan đến doanh nghiệp
trong nền KTTT.
Doanh nghiệp có thể được hiểu là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, trụ sở ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh. Theo Luật doanh
nghiệpnăm 2005 của Lào, doanh nghiệp trong nền KTTT được chia thành ba
loại sau:
- Doanh nghiệp sở hữu tư nhân là doanh nghiệp do một hay một nhóm
tư nhân nắm quyền sở hữu. Loại doanh nghiệp này bao gồm: Công ty trách
nhiệm hữu hạn tư nhân, doanh nghiệp tư nhân (1 chủ sở hữu duy nhất)...
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu thuộc sở hữu
của nhiều cổ đông, các cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân và không hạn chế
số lượng tối đa.
- Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn
bộ vốn chủ sở hữu hoặc có cổ phần vốn góp chi phối [70, Điều 10].
Sự ra đời và phát triển của các DNNN ở mỗi nước trên thế giới đều do
những nguyên nhân kinh tế xã hội khách quan chi phối, vai trò của DNNN ở
mỗi nước cũng khác nhau. Tuy vậy, trong những giai đoạn lịch sử nhất định,
ở những lĩnh vực nhất định. DNNN luôn là một bộ phận quan trọng trong cơ
cấu của nền kinh tế mỗi nước. Tuy nhiên, cho đến thời điểm khi mà bối cảnh
kinh tế trong nước và thế giới thay đổi, DNNN không còn phát huy được vai
17
trò vốn có của mình và bắt đầu bộc lộ những hạn chế. Nguyên nhân chính là
do tính chất sở hữu độc quyền của Nhà nước không còn phù hợp với nền
KTTT tự do. Chính vì thế, trong những năm qua, các nước đang tìm các giải
pháp để cải cách DNNN, nhất là cải cách vai trò sở hữu của Nhà nước mà "Cổ
phần hóa " và "Tư nhân hóa" là giải pháp được quan tâm nhiều nhất.
Cổ phần hóa DNNN là quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ
phần, tức là chuyển một doanh nghiệp sở hữu nhà nước thành một doanh
nghiệp có nhiều chủ sở hữu bao gồm các pháp nhân, thể nhân thuộc nhiều
thành phần kinh tế: Nhà nước, đơn vị, cá nhân, kể cả người lao động trong
doanh nghiệp.
Mục tiêu cơ bản của cổ phần hóa DNNN là góp phần nâng cao hiệu
quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều
chủ sở hữu đồng thời thu hút được vốn của toàn xã hội; phát huy vai trò làm
chủ thực sự của người lao động, của cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà
đầu tư đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh
nghiệp, người lao động và nhà đầu tư. Có thể nói, cổ phần hóa DNNN là con
đẻ của nền KTTT và đã được hầu hết các nước áp dụng, đem lại nhiều thành
công lớn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
cổ phần hóa là lối ra phù hợp với khu vực kinh tế nhà nước đang ở trong tình
trạng thiếu vốn, nợ triền miên, quản lý yếu kém, công nghệ lạc hậu....
Như vậy, cổ phần hóa có phải là tư nhân hóa? Cổ phần hóa có tất yếu
dẫn đến tư nhân hóa hay không?
Các nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn đã chứng minh cổ
phần hóa không hoàn toàn đồng nhất với tư nhân hóa và không tất yếu dẫn
đến tư nhân hóa. Công ty cổ phần là sản xuất tư nhân nhưng không có sự
kiểm soát của quyền sở hữu tư nhân. Những tư liệu sản xuất dưới hình thức
công ty cổ phần sẽ không còn là tư liệu của nền sản xuất tư nhân nữa, mà chỉ
18
có thể là tư liệu sản xuất trong tay những người sản xuất liên hiệp. Còn theo
quan điểm hiện nay, tư nhân hóa là quá trình chuyển đổi tư liệu sản xuất
(quyền sở hữu) nhà Nhà nước sang cho tư nhân. Khi đó, quyền sở hữu cũng
như quyền điều hành quản lý của Nhà nước hoàn toàn bị xóa bỏ, doanh
nghiệp từ hình thức là DNNN thì nay trở thành doanh nghiệp tư nhân. Trong
khi đó, cổ phần hóa không xóa bỏ hoàn toàn quyền sở hữu của Nhà nước mà
chỉ làm cho sở hữu trở nên đa dạng hơn trên cơ sở làm giảm mức độ sở hữu
của Nhà nước đối với DNNN được cổ phần hóa, một phần quyền sở hữu có
thể chuyển cho các thành phần kinh tế khác như: các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài doanh nghiệp... Cổ phần hóa chỉ có thể trở thành tư nhân hóa hoàn
toàn khi toàn bộ cổ phần của doanh nghiệp được chuyển trọn vẹn vào tay một
hoặc một nhóm nhỏ tư nhân. Như vậy, cổ phần hóa chỉ dẫn đến đa dạng hóa
quyền sở hữu đối với tài sản của doanh nghiệp nhưng không đồng nhất và tất
yếu dẫn đến chuyển vào tay tư nhân quyền này như kết quả của quá trình tư
nhân hóa.
NHTMNN là một loại hình của DNNN, vì vậy, cổ phần hóa NHTMNN là
tiến trình chuyển NHTMNN thành ngân hàng cổ phần, tức là chuyển một NHTM
sở hữu Nhà nước thành một NHTM có nhiều chủ sở hữu bao gồm các pháp nhân,
thể nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá nhân.
1.2.2. Mục tiêu về Cổ phần hóa Ngân hàng thương mại nhà nước
Cổ phần hóa NHTMNN là việc biến NHTMNN có một chủ sở hữu là
Nhà nước thành NHTM có nhiều chủ sở hữu với nhiều cổ đông khác nhau
thông qua quá trình chào bán các cổ phần chứng nhận quyền sở hữu NHTM
cho các cổ đông. Hay nói một cách khác, thông qua tiến trình thực hiện cổ
phần hóa NHTMNN mà NHTMNN trước đây thuộc sở hữu 100% của Nhà
nước thì nay được chuyển sang một loại hình NHTM cổ phần có nhiều chủ sở
hữu, trong đó Nhà nước có thể chỉ là một cổ đông. Cổ phần hóa NHTMNN
phải đạt được các mục tiêu sau:
19
Một là, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thích ứng với
nền KTTT.Cổ phần hóa là con đường tất yếu trong công cuộc xây dựng hệ
thống NHTM với mục tiêu đảm bảo tính an toàn, lành mạnh và hiệu quả của
hệ thống NH, góp phần tạo ra các NHTM hoặc các tập đoàn tài chính có quy
mô lớn, hoạt động đa năng, hiện đại, có sức cạnh tranh cao, đáp ứng được yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế.
Hai là, tăng cường tiềm lực tài chính và phát triển kinh doanh ổn định,
bền vững. Trong tình hình Ngân sách Nhà nước hạn chế, thì việc cổ phần hóa
giúp NHTMNN gia tăng về quy mô và tính đa dạng của các nguồn vốn quốc
tế tham gia vào thị trường tài chính trong nước, góp phần phát triển thị trường
tài chính cả về chiều rộng và chiều sâu, tăng cường kỷ luật thị trường.
Ba là, đổi mới công nghệ, quản lý theo chuẩn mực quốc tế và nâng
cao khả năng cạnh tranh. Việc mở cửa khu vực ngân hàng và thực hiện các
cam kết quốc tế sẽ tạo ra các thử thách trực tiếp cho các NHTMNN. Đòi hỏi
các NHTMNN cải thiện hơn nữa hệ thống của mình và nâng cao năng lực đo
lường và quản lý rủi ro một cách có hiệu quả, và đồng thời giảm chi phí hoạt
động để nâng cao sức cạnh tranh. Chuyển đổi những NHTMNN sang loại
hình ngân hàng có nhiều chủ sở hữu nhằm huy động vốn của cá nhân, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước là để tăng năng lực tài
chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Bốn là, tăng cường hội nhập quốc tế: Hội nhập quốc tế là xu hướng tất
yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế
quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được
dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội nhập
ngân hàng sẽ buộc các ngân hàng phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường
20
và minh bạch hơn, mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế, tiếp cận và chuyên
môn hoá các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, nâng cao uy tín và vị thế của hệ
thống NHTMNNLào trong các giao dịch quốc tế.
1.2.3. Điều kiện cần và đủ để cổ phần hóa Ngân hàng Thương mại Nhà nước
Cổ phần hóa NHTMNN là nhằm tăng vốn chủ sở hữu, đảm bảo tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả
năng hội nhập quốc tế, đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa hệ thống ngân hàng. Do
vậy, khi thực hiện cổ phần hóa NHTMNN phải bảo đảm những điều kiện cần và
đủ như sau đây.
1.2.3.1. Về điều kiện cần
Một là, về mức vốn giữ vai trò chi phối của Nhà nước trong NHTMNN
được cổ phần hóa .
Ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa tuy hình thức chủ
sở hữu có sự thay đổi nhưng vai trò chủ đạo trong việc triển khai thực hiện
chính sách tiền tệ vẫn không thay đổi mà vẫn tiếp tục phát huy dưới hình thức
mới được điều hành bởi một Hội đồng quản trị theo cơ chế quản lý phù hợp.
Vì vậy, nhất thiết NHTMNN được cổ phần hóa thì vốn nhà nước tham gia
phải nắm vai trò chi phối với tỷ lệ tối thiểu 51%.
Hai là, về quy mô vốn chủ.
Ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa phải đạt quy mô
vốn ít nhất phải tương xứng với một NHTM trung bình trên thế giới. Số vốn
chủ sở hữu của NHTMNN sau cổ phần hóa phải đạt 8.000 tỷ LAK trở lên
(tương đương 512 triệu USD) trong đó, vốn chủ sở hữu của Nhà nước đạt tối
thiểu 4.080 tỷ LAK, phần còn lại gọi vốn từ cổ đông trong và ngoài nước.
Ba là, về góp vốn của cổ đông nước ngoài.
Tỷ lệ tham gia của các cổ đông nước ngoài không quá 30% vốn chủ
sở hữu. Trong đó, nên tập trung ưu đãi cho các cổ đông nước ngoài là các
- Xem thêm -