Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nước truyền thống tại làng nhâ...

Tài liệu Giải pháp bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nước truyền thống tại làng nhân mục, xã nhân mục, huyện vĩnh bảo, hải phòng cho phát triển du lịch

.PDF
86
437
127

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 5 PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƢỚC TRUYỀN THỐNG .................................................................................................................. 9 1.1. Các hình thức sân khấu dân gian Việt Nam .................................................. 9 1.1.1 Chèo ............................................................................................................ 9 1.1.2 Tuồng ........................................................................................................ 10 1.1.3 Múa rối nƣớc ............................................................................................. 11 1.1.4 Một số loại hình khác................................................................................ 12 1.2. Nghệ thuật múa rối ...................................................................................... 13 1.2.1. Khái quát chung về nghệ thuật múa rối .................................................... 13 1.2.2. Các loại hình múa rối ở Việt Nam và trên thế giới................................... 14 1.3. Nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống ở Việt Nam.................................... 16 1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển ............................................................... 16 1.3.1.1. Tên gọi và nguồn gốc ............................................................................. 16 1.3.1.2. Một số vị thần bảo hộ của múa rối nƣớc ở các phƣờng rối ................... 18 1.3.3. Đặc điểm của nghệ thuật múa rối nƣớc ................................................... 19 1.3.3.1. Con rối .................................................................................................... 19 1.3.3.2. Nghệ thuật tạo hình ................................................................................ 21 1.3.3.3. Sân khấu ................................................................................................. 23 1.3.3.4. Nghệ thuật âm nhạc và văn học ............................................................. 24 1.3.3.5. Nghệ nhân múa rối nƣớc ........................................................................ 25 1.3.3.6. Cách biểu diễn ........................................................................................ 25 1.3.4. Giá trị văn hóa nghệ thuật của múa rối nƣớc ............................................ 26 1.4 Tiểu kết chƣơng 1.......................................................................................... 29 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƢỚC TẠI LÀNG NHÂN MỤC, XÃ NHÂN HÒA,HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH ......................................... 30 2.1 Giới thiệu đôi nét về Vĩnh Bảo, Hải Phòng .................................................. 30 1 2.1.1. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 30 2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ......................................................................... 30 2.2.3. Tài nguyên du lịch ..................................................................................... 31 2.2.3.2. Lễ hội...................................................................................................... 33 2.2.3.3. Một số loại hình nghệ thuật dân gian ..................................................... 34 2.2.3.4. Làng nghề truyền thống ......................................................................... 34 2.2. Nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng nhân mục, xã Nhân Mục, Vĩnh Bảo Hải Phòng ................................................................................................................... 35 2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển ................................................................ 35 2.2.2. Đặc trƣng của nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục ..................... 37 2.2.2.1 Nét độc đáo của nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục................ 37 2.2.2.2. So sánh đặc điểm nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục với các làng vùng lân cận................................................................................................ 40 2.3. Thực trạng công tác bảo tồn và khai thác cho phát triển du lịch ................. 45 2.3.1 Thực trạng công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nƣớc .............................. 45 2.3.1.1. Khái quát về công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nƣớc tại ở Việt Nam 45 2.3.1.2. Công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục ............. 49 2.3.2. Thực trạng khai thác cho phát triển du lịch .............................................. 51 2.3.2.1. Khái quát về thực trạng khai thác cho phát triển du lịch ở Việt Nam ... 51 1.3.2.1. Thực trạng khai thác cho phát triển du lịch tại làng Nhân Mục............. 53 2.4. Đánh giá về công tác bảo tồn, khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc cho phát triển du lịch tại làng Nhân Mục........................................................................... 55 2.4.1. Thuận lợi - tích cực .................................................................................. 55 2.4.2. Khó khăn – hạn chế ................................................................................... 56 2.5. Tiểu kết chƣơng 2......................................................................................... 59 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƢỚC TẠI LÀNG NHÂN MỤC, XÃ NHÂN HÒA, HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH ................................................................................................ 60 2 3.1. Định hƣớng công tác bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc ở Việt Nam ..................................................................................................................... 60 3.1.1. Định hƣớng công tác bảo cho tồn nghệ thuật múa rối nƣớc ..................... 60 3.1.2. Định hƣớng công tác khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc cho phát triển du lịch ....................................................................................................................... 62 3.2. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục cho phát triển du lịch ................................................................. 65 3.2.1. Chính sách quan tâm, đãi ngộ đối với nghệ nhân ..................................... 65 3.2.2. Chú trọng công tác truyền dạy nghệ thuật múa rối nƣớc ......................... 65 3.2.3. Hình thành tổ chức hội chuyên ngành múa rối nƣớc ................................ 66 3.2.4. Xây dựng những tiết mục biểu diễn hoàn toàn mới .................................. 68 3.2.5. Công tác xúc tiến quảng bá về muá rối nƣớc ............................................ 69 3.2.6. Lồng ghép các buổi biểu diễn múa rối nƣớc trong các chƣơng trình du lịch ......................................................................................................................... 70 3.2.7. Xây dựng mới và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ biểu diễn và CSHT, CSVCKT cho phát triển du lịch .............................................................. 71 3.2.8. Đào tạo đội ngũ hƣớng dẫn viên, thuyết minh viên phục vụ du lịch ........ 72 3.3. Một số kiến nghị.......................................................................................... 73 3.3.1. Đối với Sở VH TT & DL Hải Phòng ........................................................ 73 3.3.2. Đối với Phòng VHTT & DL huyện và UBND xã Nhân Mục ................. 75 3.4. Tiểu kết chƣơng 3......................................................................................... 76 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 78 PHỤ LỤC ............................................................................................................ 79 MỘT SỐ HÌNH ẢNH ......................................................................................... 80 3 DANH MỤC VIẾT TẮT 1. CSHT : Cơ sở hạ tầng 2. CSVCKT: Cơ sở vật cất kỹ thuật 3. UBND: ủy ban nhân dân 4. VHTT & DL: văn hóa thể thao và diu lịch 5. NSND: Nghệ sĩ nhân dân 6. TNHH: trách nhiệm hữu hạn 4 LỜI CẢM ƠN Vậy là 4 năm đã trôi qua, mái trƣờng Đại học Dân Lập Hải Phòng thân thƣơng cho em nhiều kỷ niệm sâu sắc mà em không thể nào quên. Ngày ngày đến lớp, chúng em không chỉ đƣợc sống trong môi trƣờng học tập chuyên nghiệp, thu đƣợc những kiến thức bổ ích làm hành trang trên đƣờng đời sau này mà còn đƣợc sống trong tình yêu thƣơng, sự quan tâm, chia sẻ của bạn bè và thầy cô. Đối với sinh viên năm cuối nhƣ chúng em, đƣợc làm khóa luận tốt nghiệp là một niềm vui, niềm hạnh phúc vô cùng lớn lao và tự hào. Để bài khóa luận đƣợc hoàn thành và có kết quả tốt nhƣ ngày hôm nay em xin gửi lời tri ân và lời cảm ơn sâu sắc nhất tới: Thầy hiệu trƣởng Trần Hữu Nghị. Ban giám hiệu nhà trƣờng cùng các thầy cô giáo bộ môn ngành Văn hóa du lịch đã tận tình chỉ bảo, dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho chúng em nên ngƣời. Và em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến cô gáo CN. Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình em làm bài khóa luận này Bên cạnh đó, em cũng vô cùng biết ơn gia đình đã động viên, ủng hộ em khi lựa chọn mái trƣờng Dân Lập Hải Phòng là ngôi nhà thứ hai của mình. Do kiến thức bản thân còn hạn chế nên bài khóa luận của em vẫn còn nhiều sai sót, vì vậy em mong nhận đƣợc sự góp ý kiến của các thầy, cô để bài khóa luận của em đƣợc hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hải Phòng, ngày 30 tháng 06 năm 2014 Sinh viên Đoàn Thị Diệu 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội mức sống của ngƣời dân cũng đƣợc nâng cao, nhu cầu vật chất ngày càng hoàn thiện, và con ngƣời đƣợc thỏa mãn nhu cầu về tinh thần cao hơn, vì vậy nhu cầu đi du lịch đang là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống mỗi ngƣời - du lịch gắn liền với việc vui chơi giải trí, thƣ giãn nhằm phục hồi sức khỏe, phục vụ nghiên cứu, học tập... Sản phẩm du lịch là sự sáng tạo đƣợc xây dựng bởi tiềm năng trí tuệ và sự năng động, nhạy bén của mỗi địa phƣơng trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài nƣớc mà phát hiện ra những lợi thế của địa phƣơng mình. Từ đó tạo ra những sản phẩm hết sức độc đáo có giá trị kinh tế và văn hóa cao. Vĩnh Bảo đƣợc biết đến với rất nhiều di tích lịch sử văn hóa nhƣ khu di tích Ðền Trạng, thờ Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm - vị trạng nguyên lỗi lạc, một danh nhân văn hóa lớn của đất nƣớc; cụm đền chùa Thái Bình; đình Nhân Mục; miếu Cựu Điện… Đây là những công trình kiến trúc xƣa kia nhƣng để lại nhiều giá trị to lớn cho con cháu đời sau. Ngoài ra Vĩnh Bảo còn đƣợc biết đến với làng nghề tạc tƣợng làng Bảo Hà (xã Đồng Minh) với những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho phong cách tạc tƣợng Việt Nam. Bên cạnh đó, một loại hình nghệ thuật đã có từ rất lâu đời nhƣng đến nay vẫn còn tồn tại và đƣợc giữ gìn ở làng Nhân Mục,xã Nhân Hòa, huyệnVĩnh Bảo - vùng quê đồng bằng châu thổ, đó chính là nghệ thuật múa rối nƣớc - loại hình nghệ thuật đặc sắc của văn hóa lúa nƣớc. Cùng với tuồng, chèo, múa rối nƣớc đƣợc coi là môn nghệ thuật có vị trí cao trong nghệ thuật sân khấu dân tộc. Nói đến múa rối thì hầu nhƣ dân tộc nào cũng có nhƣ: Rối bóng ở Bali, Indonesia; Bunraku, Nhật Bản; Rối dây, Trung Quốc; Rối đen, Mỹ nhƣng múa rối nƣớc thì chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Tinh hoa của nghệ thuật múa rối nƣớc ngày càng nhận đƣợc nhiều sự ngƣỡng mộ của bạn bè quốc tế, trở thành một sản phẩm nghệ thuật độc đáo của Việt Nam. Nghệ thuật múa rối nƣớc là một loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thống lâu đời của cƣ dân nông nghiệp vùng châu thổ sông Hồng. 6 Có thể nói múa rối nƣớc nói chung và múa rối ở làng Nhân Mục nói riêng là một loại hình nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn nếu biết bảo tồn và khai thác sẽ có giá trị rất lớn để thu hút khách du lịch và phát triển. Hiện nay công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối này đã bƣớc đầu đƣợc quan tâm. Tuy nhiên loại hình nghệ thuật truyền thống này vẫn chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi, còn ít ngƣời biết đến và đang đứng trƣớc nguy cơ bị lãng quên, mai một cũng nhƣ chƣa đƣợc khai thác thực sự hiệu quả cho hoạt động phát triển du lịch. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Giải pháp bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống tại làng Nhân Mục, xã Nhân Mục, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng cho phát triển du lịch” với mong muốn đề xuất một số giải pháp để bảo tồn, lƣu giữ và khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống tại làng Nhân Mục cho phát triển du lịch. Hơn nữa việc gắn kết và khai thác hiệu quả nghệ thuật rối nƣớc trong phƣờng rối sẽ góp phần rất lớn trong công tác bảo tồn loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo này. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu của đề tài là đề xuất giải pháp bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống tại làng Nhân Mục, xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng cho phát triển du lịch. Căn cứ vào mục tiêu đặt ra, khóa luận tiến hành giải quyết những nhiệm vụ: Tổng quan về nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống. Khảo sát, phân tích thực trạng công tác bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục, xã Nhân Hòa, Vĩnh Bảo, Hải Phòng cho phát triển du lịch, so sánh đặc điểm nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục với các làng/ vùng lân cận (phƣờng rối nƣớc làng Nguyễn,Thái Bình). Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục, xã Nhân Hòa cho phát triển du lịch. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động công tác bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống tại làng Nhân Mục, xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng cho phát trển du lịch. 7 Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu tại làng Nhân Mục, xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ngoài ra trong bài khóa luận cũng có so sánh nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nhân Mục với nghệ thuật múa rối cạn tại làng Bảo Hà, xã Đồng Minh và nghệ thuật múa rối nƣớc tại làng Nguyễn, Thái Bình. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. Phương pháp thu thập và xử lí tài liệu: Đây là phƣơng pháp chủ yếu trong quá trình làm khóa luận. Tác giả có tham khảo thông tin trong các giáo trình, các đề tài nghiên cứu khoa học, tài liệu chuyên đề, các tạp chí chuyên ngành cùng nguồn tài liệu có đƣợc tại các phòng ban về du lịch, trên internet. Phương pháp thực địa: Tác giả đã dành thời gian trong quá trình làm khóa luận, đi tới làng Nhân Mục, tìm hiểu về nghệ thuật múa rối nƣớc của làng. Phương pháp phỏng vấn: Khi thực hiện đề tài, tác giả đã tìm tới Phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch huyện Vĩnh Bảo, cũng nhƣ xã Nhân Hòa, phỏng vấn chính quyền địa phƣơng, ngƣời dân địa phƣơng cùng những ngƣời tham gia vào công tác tổ chức múa rối nƣớc để tìm hiểu. 5. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chƣơng: Chương 1: Tổng quan về nghệ thuật múa rối nước truyền thống Chương 2: Thực trạng bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục, xã Nhân Hòa, Vĩnh Bảo, Hải Phòng cho phát triển du lịch Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục, xã Nhân Hòa cho phát triển du lịch. 8 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƢỚC TRUYỀN THỐNG 1.1. Các hình thức sân khấu dân gian Việt Nam 1.1.1 Chèo Cái nôi của sân khấu chèo là đồng bằng Bắc Bộ, địa bàn phổ biến là từ Nghệ Tĩnh trở ra. Khởi đầu chèo bằng hình thức trò nhại, trò diễn xƣớng dân gian từ thế kỷ 11. Lúc đầu xuất hiện ở các làng quê, dần trở thành một loại hình sân khấu tiêu biểu của ngƣời dân đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong tích trò. Văn chèo đậm màu sắc trữ tình của ca dao, tục ngữ, tràn đầy tính lạc quan trong những cái cƣời dân dã, thông minh, hóm hỉnh và không kém phần trí tuệ. Tính nhân văn trong các vở chèo rất rõ nét. Quyền con ngƣời, thiện thắng ác luôn đƣợc đề cập, đƣợc khẳng định. Các vở chèo cổ bao giờ cũng kết thúc có hậu theo truyền thống phƣơng Ðông. Nhiều vở đƣợc xếp vào vốn quý của sân khấu cổ truyền dân tộc. Từ khi ra đời đến nay, tiếng trống chèo vẫn có ma lực cuốn hút bao thế hệ khán giả, không kể tuổi tác, địa vị xã hội hay hay quốc tịch. Nhƣng có giai đoạn sân khấu chèo đã trải qua những khó khăn tƣởng chừng không đứng vững nổi. Giờ đây, sân khấu chèo đang đƣợc khôi phục nhằm giữ gìn và bảo tồn một loại hình nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc. Đã có một thời, hội chèo đôi khi kéo dài cả tuần lễ, mặc dầu còn lâu mới đến hội nhƣng trong mỗi gia đình nông dân đều đã có sự chuẩn bị tham gia kỳ hội với những vai chèo yêu thích. Đã từ lâu, nghệ thuật chèo đối với ngƣời nông dân Việt Nam vừa là sân khấu, vừa là thơ ca và âm nhạc và là nguồn duy nhất trong đời sống tinh thần của mình. Trong các vở chèo cổ thƣờng vạch mặt bọn quan lại phong kiến và thực dân áp bức giống nòi. Ở các vỡ diễn, ngƣời nông dân thấy đƣợc sự phản ánh đời sống của mình với những mặt tích cực và phản diện, những ƣớc mơ và ý niệm của mình về cái thiện và cái ác. Mọi ngƣời đã yêu và càng yêu nghệ thuật chèo bởi tính nhân đạo và sự tƣơi mát của nó, và bởi nó mang màu sắc dân tộc độc đáo. Những vở chèo - đó là các mẩu chuyện sân khấu của những tiểu thuyết thi ca, nó đặc trƣng bởi chất thơ mộng, hành văn nhuần nhuyễn, nó có những truyền thống lâu đời của thi ca phƣơng Đông. 9 Ngoài việc chèo là một nghệ thuật đƣợc nảy sinh từ quần chúng nông dân, nó còn đƣợc sử dụng rất nhiều tục ngữ và ca dao dân gian do nhân dân sáng tạo ra qua hàng ngàn năm. Nghệ thuật cơ bản trong các vai của diễn viên là múa mà qua đó nó có thể hiện đƣợc tất cả sự uyển chuyển nhịp nhàng của con ngƣời. Những nghệ nhân lớp trƣớc thƣờng nói rằng: "Múa hình tƣợng đẹp đẽ của nội tâm". Song song với cái đó, điệu múa trong chèo không hoàn toàn mang tính trừu tƣợng và tƣợng trƣng, ƣớc lệ nhƣ một số loại hình nghệ thuật thông thƣờng khác bởi một lẽ nguồn gốc của nó là những hình ảnh sinh hoạt, lao động qua các buổi diễn ở nông thôn. Một vai trò quan trọng trong chèo là âm nhạc. Ở Việt Nam ngƣời ta thƣờng nói "đừng diễn chèo" mà phải là "hát chèo". Âm điệu trong nghệ thuật chèo ngày càng hấp dẫn, nó có cả màu sắc âm nhạc dân tộc và hiện đại độc đáo. Nghệ thuật chèo ngày nay vẫn đƣợc nhân dân ƣa thích. Trong chèo mỗi ngƣời Việt Nam đều thấy đƣợc sự phản ảnh của những giá trị đạo đức cao quý nhƣ: lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình, sự trung thành, sự từ thiện. Do vậy, ở các vở chèo cổ, nội dung của nó ta tƣởng nhƣ khác xa thực tế ngày hôm nay; vậy mà nó vẫn làm xúc động lòng khán giả của nhiều thế hệ già cũng nhƣ trẻ. Điều đó nói lên tính tƣơi trẻ và sức sống của nghệ thuật chèo, đồng thời cũng đặt ra trƣớc nghệ thuật chèo những vấn đề mới phức tạp. 1.1.2 Tuồng Tuồng là một loại hình nghệ thuật sân khấu mang tính cổ điển khá độc đáo của Việt Nam. Ngôn ngữ của tuồng là văn chƣơng bác học kết hợp nhuần nhuyễn văn chữ Hán với văn Nôm. Theo một số tƣ liệu thì tuồng ảnh hƣởng của hí khúc (Trung Quốc) do quân lính nhà Nguyên bị giữ làm tù binh dƣới thời nhà Trần (thế kỷ XIII) biểu diễn. Nhƣng tuồng Việt Nam có nét riêng của nó. Lúc đầu, tuồng chỉ xuất hiện ở miền Bắc, sau đó theo binh lính chúa Nguyễn vào Đàng Trong và phát triển cực thịnh ở đó. Tuồng phát triển mạnh vào thế kỷ XVII -XVIII. Sang triều Nguyễn (thế kỷ XIX) tuồng vẫn giữ vị trí xứng đáng trong đời sống văn hoá ở cung đình và trong dân dã. Kho tàng các vở diễn tuồng cổ ƣớc có đến vài trăm nhƣng lâu dần bị thất lạc phần lớn, trong đó có thể kể vài 10 vở đặc trƣng nhƣ Sơn Hậu, Tam nữ đồ vƣơng, Đào Phi Phụng, Trƣng nữ vƣơng... Tuồng đã trở thành vốn quý của sân khấu truyền thống và mãi mãi là viên ngọc trong kho tàng văn hoá của dân tộc. Nguồn gốc và lịch sử phát triển của nghệ thuật tuồng, cũng nhƣ của nghệ thuật sân khấu cổ đại Việt Nam nói chung hiện nay vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu lâu dài. Vẫn còn rất nhiều ý kiến tranh luận khác nhau về thời điểm ra đời của loại hình nghệ thuật sân khấu này. Nhà nghiên cứu Hồ Lãng cho rằng tuồng chỉ có thể có từ thế kỷ thứ XVIII (trong bài "Để tìm hiểu về lịch sử tuồng" đăng trong tạp chí "Nghiên cứu văn học" số 1 năm 1971). Nhà nghiên cứu Văn Tân thì lại định nghĩ chữ "tuồng" trong "Từ điển tiếng Việt" nhƣ sau: "nghệ thuật sân khấu cổ của Trung Quốc, truyền vào Việt Nam". Giáo sƣ Phan Huy Lê có quan điểm: "Về nghệ thuật sân khấu thì thế kỷ XV, tuồng và chèo khá phát triển. Vấn đề nguồn gốc của tuồng và chèo lâu nay vẫn có nhiều kiến giải khác nhau, nhƣng theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật gần đây thì tuồng và chèo là những nghệ thuật cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ rất sớm. Tuồng và chèo là những nghệ thuật sân khấu kết hợp ca kịch với vũ đạo, mang nhiều bản sắc dân tộc. Trong buổi đầu thời Lê sơ hát tuồng vẫn đƣợc biểu diễn trong cung đình, không những để mua vui cho vua quan trong những buổi yến tiệc hội hè, mà còn dùng cả trong những buổi tế lễ, thiết triều nữa" . Còn Hoàng Châu Ký trong cuốn sách "Sơ khảo lịch sử nghệ thuật Tuồng" của mình, trang 50 đã bác bỏ ý kiến Tuồng xuất hiện vào thời Lê sơ do tác giả nhận thấy "Nếu chỉ dựa vào những điểm nhƣ phong cách tự sự, loại sân khấu có hát và múa, thậm chí dựa vào các chi tiết hơn một chút nhƣ hát có ngâm thơ, phú, hoặc hát có vãn via, múa sử dụng cả tay, chân nhƣ tuồng hiện nay mà nói là tuồng thì chƣa thực sự xác đáng, vì những đặc điểm này không chỉ tuồng mới có". 1.1.3 Múa rối nước Múa rối nƣớc ra đời sớm nhất trong số nghệ thuật dân gian của dân tộc, nhƣng là nghệ thuật xuất hiện muộn trong số các nghệ thuật truyền thống hôm nay. Ở sân khấu tuồng, chèo, cải lƣơng, dân ca kịch, kịch nới, xiếc, ca 11 múa…những con ngƣời thật dùng cơ thể, hành động, lời nói, tình cảm…của mình đem ra biểu diễn, thì ở múa rối nƣớc đây chỉ những pho tƣợng gỗ nhỏ bé, sơ sài. Tuy nhiên các tƣợng gỗ mộc mạc ấy trong bàn tay điều khiển của nghệ nhân, kết hợp với khung cảnh mỹ thuật sân khấu với thủy đình, trở nên có tâm hồn, tình cảm. Đặc biệt hơn nữa là sự cảm thụ nghệ thuật này ở khán giả nảy sinh và phát triển trong quá trình thƣởng thức và nhận thức diễn ra một cách tự nhiên, dễ dàng, dung dị, thoải mái, có tác dụng nhƣ đƣợc tiếp thu một hình thức giải trí nhẹ nhàng mà sâu lắng, khó quên. Múa rối nƣớc là một sáng tạo độc đáo của cƣ dân vùng châu thổ sông Hồng, đƣợc manh nha từ công cuộc chế ngự, cải tạo nƣớc. Rối nƣớc thƣờng đƣợc diễn vào những ngày nông nhàn, ngày xuân, trong các lễ hội. Thông qua các câu chuyện đƣợc nghệ sỹ rối nƣớc thể hiện, ngƣời xem sẽ cảm nhận đƣợc sắc thái của hội làng, gửi gắm vào đó những mơ ƣớc bình dị cho cuộc sống. Giữa thiên nhiên thơ mộng, khán giả có cơ hội chiêm ngƣỡng một loại hình nghệ thuật trong đó có đất, nƣớc, cây xanh, mây, gió, có lửa, có khói mờ vƣơng tỏa, có cả mái đình với những hàng ngói đỏ. Thật sự là một sự hòa hợp độc đáo của nghệ thuật, thiên nhiên và con ngƣời. Trƣớc khi chính thức trở thành nghệ thuật sân khấu, múa rối nƣớc là hoạt động nằm trong các phƣờng hội dân gian rải rác khắp thôn xóm, đƣợc "nuôi lớn" bằng nhiệt huyết của ngƣời dân. Ngâm bùn lội nƣớc để làm nghệ thuật không phải là một công việc bình thƣờng thích thú với mọi ngƣời. Nếu không phải là ngƣời sống ân tình với nƣớc nhƣ cƣ dân trồng lúa nƣớc, thì khó có đƣợc sự truyền cảm nồng nhiệt vào hành động của nhân vật rối nƣớc. 1.1.4 Một số loại hình khác Cải lương là loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam, hình thành trên cơ sở dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long và nhạc tế lễ. Nghệ thuật sân khấu cải lƣơng là một hiện tƣợng văn hóa, sự hình thành và phát triển của nó có những nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất định. Cải lƣơng là một hình thức ca kịch dân tộc nên ít nhiều mang tính chất ƣớc lệ. Ca ra bộ là buổi sơ khai của sân khấu cải lƣơng, xuất phát từ ca ra bộ mà các động tác múa 12 cơ bản, trình thức ra đời. Lúc đầu do đáp ứng nhu cầu của ngƣời xem ngƣời diễn viên đã biết tìm tòi sáng tạo thêm các động tác ngoại bộ để minh họa cho lờ ca thêm phong phú. Về sau các động tác ngoại bộ đó đã đƣợc các nghệ sĩ đúc kết và nâng cao trên cơ sở kế thừa tinh hoa của nghệ thuật hát bội. Khi hìh thàn sân khấu cải lƣơng, những vở tuồng đầu tiên cũng chịu ảnh hƣởng của hát bội về mặt cấu trúc kịch bản. Tính ƣớc lệ trong cải lƣơng phụ thuộc vào ngôn ngữ kịch bản, tiết tấu âm nhạc và múa – qua các động tác cách điệu với phƣơng pháp vô hiện vật, bằng sự tƣởng tƣợng và những động tác cách điệu bằng dáng ngƣời, điệu đi kiểu đứng có kết hợp với diễn xuất để nhấn mạnh đặc điểm của bộ môn. Võ thuật cũng đƣợc các nghệ sĩ nâng cao và đƣa lên sân khấu trong những đoạn đánh nhau. Tính ƣớc lệ còn đƣợc thể hiện trong cách hóa trang, có kế thừa của hát bội nhƣng đƣợc biết tiết chế bớt cách điệu để gần gũi với cuộc sống hơn. Kịch dân ca là loại hình sân khấu mới xuất hiện ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8, dựa trên nền tảng âm nhạc là các làn điệu dân ca ở địa phƣơng, ví dụ nhƣ kịch dân ca Bài chòi, kịch dân ca Huế, kịch dân ca Nghệ Tĩnh... Đây là loại hình nghệ thuật mới, tƣơng tự nhƣ tuồng, chèo và cải lƣơng. 1.2. Nghệ thuật múa rối 1.2.1. Khái quát chung về nghệ thuật múa rối Một số nhận định cơ bản về nghệ thuật rối: Bắt nguồn từ những trò chơi ngẫu nhiên, tự phát đến có chủ định, truyền cảm. Con rối là nhân vật chính, nhƣng phụ thuộc sự phối hợp giữa nghệ thuật điêu khắc, kỹ thuật lắp ráp, bài trí sân khấu và nghệ thuật điều khiển con rối. Có khả năng tập trung, quy tụ nhiều loại hình nghệ thuật (điêu khắc, hội họa, chèo, tuồng…) Phụ thuộc vào tài điều khiển của diễn viên điều khiển con rối. Theo nhƣ Tô Sanh: Múa rối là loại hình nghệ thuật sân khấu có khả năng truyền cảm một cách cao độ; sự phối hợp giữa kỹ thuật và nghệ thuật tạo hình, kỹ thuật và điều khiển, con rối là phƣơng tiện chủ yếu. Nó có khả năng tập trung 13 nhiều hình thức nghệ thuật sân khấu khác; phục vụ mọi tầng lớp múa rối có rất nhiều loại. Nhân vật rối là trung tâm. Ngƣời diễn viên điều khiển đƣợc che giấu kín. Sân khấu cần phù hợp với kích thƣớc của cả ngƣời và rối. Múa rối chủ yếu dùng tài năng của ngƣời diễn viên điều khiển con rối. 6, Tr.32 1.2.2. Các loại hình múa rối ở Việt Nam và trên thế giới Theo P.L Mi-nhon (Mignon ) trong cuốn Bách khoa phổ thông, từ Ma-rion-net Marionnette – múa rối) là một từ giảm nhẹ của (Mariole) thời trung cổ dung để chỉ những bức tƣợng Đức Mẹ đồng trinh nhỏ. Ngƣời ta không thấy từ này trong ngôn ngữ khác, từ pupe trong tiếng Đức và Puppet (pupe) trong tiến anh đƣợc dùng để gọi con rối, vì về ngoại hình con rối giống con pupe. Múa rối bao gồm: Múa rối cạn Rối tay ít dùng trên sân khấu, còn gặp nhiều trong trò nghi lễ chùa chiền. Rối tay thƣờng đƣợc chế tạo đầu bằng gỗ, mình khâu vải (không tay), khi điều khiển nghệ nhân lồng bàn tay vào trong lòng khoét rỗng của đầu hoặc cầm một đoạn cán nối dài. Loại hình này xuất hiện ở nhiều quốc gia nhƣ: loại ghi-nhôn (guinol) và bu-ra-ti-ri (burattini) của Pháp. Rối que rất phổ biến, nhỏ cỡ 30-35 cm. Đầu tạc liền với mình bằng gỗ, gồm cả tóc, tai, khăn, mũ, bàn tay bằng gỗ gọt liền cổ tay. Điều khiển bằng que tre, que sắt cắm vào mình và cổ tay luồn trong áo. Không có chân, cần tạc thêm đính ngoài. Cũng có nơi, có quân tạo hình cỡ lớn, kiểu hình nhân, đầu mình đang bằng nan dùng diễn thờ, xong đem đốt. Đặc biệt đồng bào Bana tạc hình nhân khá lớn bằng gỗ dùng trong lễ bỏ mả và sau lễ bỏ lại trong nhà mồ. Trên sân khấu, nhiều quân thì dùng thêm dây mềm điều khiển bộ phận chi tiết phối hợp với que. Loại hình này rất thông thƣờng ở các nƣớc nhƣ: Oa-yănggô-lách (wayanggolek) của Indoneisa. Trong nƣớc ta cũng có nhiều mục bằng rối que rất hay nhƣ đoàn nghệ thuật múa rối TP Hồ Chí Minh, đoàn nghệ thuật múa rối Hải Phòng. Rối máy rất thông dụng cả trong đồ chơi, trò chơi và sân khấu. Toàn thân đƣợc tạc bằng gỗ riêng từng bộ phận, nối với nhau bằng khớp lỏng. Thƣờng 14 dùng sơn vẽ mầu thay trang phục vải. Điều khiển bằng que, dây. Nhiều quân là trò riêng. Dùng xen với rối tay, rối que. Chuyên dùng trong rối nƣớc, đồ chơi trẻ em, rối diều, rối gió, rối pháo. Rối điều khiển ngang: loại bunraku (Nhật) mỗi con rối rất to, từ 8 tấc đến 1 thƣớc ba bề cao, do ở điều khiển: 1 ngƣời lo về động tác của cái đầu (kể cả mắt và miệng) và tay mắt, 1 ngƣời lo tay trái, và ngƣời thứ ba lo điều khiển hai chân. Rối dây chỉ thấy xuất hiện ở vùng biên giới Cao Bằng với tên Mộc thầu hí, Slƣơng pất lạp. đầu rối bằng gỗ, mình nan đan, bàn tay gỗ, bàn máy điều khiển bằng tre, dây tơ, dây gai mềm, không có chân. Rối dùng để diễn trò và tích trò. Sân khấu thƣờng dựng trên chòi làm sẵn ở các chợ, sòng bạc, … Rối dây hiện có ở Hợp Dƣơng, Trung Quốc, đã ra đời cách đây hơn 2000 năm; hay loại Fan-tô-chi-ni (fantocini), Ca-tha-ta-li (Kathaputali) của Rajassthan (một tiểu bang của Ấn Ðộ). Rối bóng mới phát hiện, xƣa có ở tỉnh Kiên giang, có thể từ Campuchia truyền sang. Loại hình này cũng rất đƣợc phổ biến, nhất là ở các nƣớc Ðông Nam Á nhƣ Nang-shek ở Campuchia và Wa-yang-ku-lit ở Indonesia hay Mã Lai. Múa rối nước Nghệ thuật múa rối nƣớc ra đời và kết tinh từ sự tìm tòi, sáng tạo và liên tƣởng của cha ông ta trƣớc cuộc sống bình dị, gắn liền với nghề nông nghiệp trồng lúa nƣớc ở đồng bằng Bắc Bộ. So với múa rối thông thƣờng, múa rối nƣớc mang nhiều đặc điểm khác nhƣ: dùng mặt nƣớc làm sân khấu, buồng rối nƣớc hay còn gọi là thủy đình với cấu trúc cân đối, tƣợng trƣng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam là sân khấu biểu diễn trò rối nƣớc. Thông qua những tiết mục múa rối, khán giả sẽ đƣợc dẫn dắt vào một thế giới tƣởng tƣợng phong phú. Những chú rối rực rỡ sắc màu, nét mặt vui tƣơi, trình diễn những động tác linh hoạt trên mặt nƣớc, kết hợp với yếu tố âm thanh đặc sắc đã làm nên một nghệ thuật múa rối độc đáo của vùng đồng bằng Bắc Bộ, trở thành một nét sinh 15 hoạt văn hóa không thể thiếu đối với ngƣời dân trong các dịp lễ hội từ đời này sang đời khác. Theo Tô Sanh: Múa rối nƣớc là một loại hình nghệ thuật sân khấu múa rối, mà chỗ diễn con rối là mặt nƣớc (ao, hồ hay bể rộng). Buồng trò của ngƣời biểu diễn là một cái nhà đƣợc cất giữa ao, hồ hoặc sát một mé hồ. Ngƣời điều khiển ngâm mình dƣới nƣớc, nấp sau tấm mành điều khiển con rối (thông thƣờng đƣợc làm bằng gỗ hoặc chất liệu không thấm nƣớc) bằng cách khua sào có dính con rối ở dây và đầu sào. Nƣớc che kín các loại que, dây, máy. Có nhiều loại rối nƣớc: rối ao, rối bể, rối nƣớc kết hợp với rối cạn v.v… Sân khấu hoặc nhà hát cố định của múa rối nƣớc truyền thống là hệ thống nhà hai tầng tám mái xây bằng gạch, có từ lâu đời. Múa rối nƣớc là một bộ môn nghệ thuật kỳ lạ chỉ thấy ở Việt Nam. 6, Tr.37 1.3. Nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống ở Việt Nam 1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển 1.3.1.1. Tên gọi và nguồn gốc Theo Tô Sanh (ngƣời đã tận tụy nghiên cứu về rối nƣớc Việt Nam hơn hai mƣơi năm) cũng tìm kiếm những bản ghi chép về "văn bia" mặc dù Trƣờng Viễn Ðông bác cổ cũng nhƣ các nhà khảo cổ Nhật Bản đều cho rằng bia đã mòn "không còn đọc rõ chữ". Nhƣng Tô Sanh đã tìm đến núi Ðọi và đã xách từng thùng nƣớc từ chân núi lên đến chùa Long Sơn để rửa tấm bia: khi sạch những màng rêu phủ, còn lấy kim băng cậy từng chữ cho sạch những cát bụi đã đóng vào đấy từ mấy thế kỷ, để nhờ cụ Tuấn, một ngƣời giỏi chữ Nho của làng Ðọi đọc qua, rồi cho chụp ảnh bia. Trên văn bia có viết “ở giữa sông (sông Lô), một con rùa vàng nổi, lƣng đội ba hòn núi. Rùa lôi rờ rợ trên mặt nƣớc, lộ vân trên vỏ và rẽ bốn chân chuyển, mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun nƣớc lêu bêu. Quay đầu hƣớng tới ngai vua, mà cúi đầu chào" hay "các nàng tiên hoa tay mềm mại múa điệu hội phong - nhíu đôi lông mài biếc, mà hát bài ca hƣu văn". Nhƣ thế, múa rối nƣớc, dƣới thời đời nhà Lý đã tinh vi đến đỗi có thể đem diễn cho vua xem , đáng ghi lại vào văn bia và ông cũng khẳng định múa rối nƣớc ra đời năm 1121. 16 Các thƣ tịch cổ khẳng định rằng múa rối nƣớc rất thịnh hành trong cung đình thế kỷ 11 vì trên bia đá có viết: “sau khi thể nghiệm lâu đời, thấy cái đó rất hay nên mới dâng cho nhà vua xem ở tại sông Lô”. Đã thể nghiệm lâu đời thì múa rối nƣớc có thể có trƣớc thế kỷ 11, 12. Các văn bản này cho thấy múa rối đã tồn tại trƣớc đó ở các làng quê, nơi ngời ta đã biểu diễn trƣớc tiên. Cầu nguyện thần thánh phù hộ cho mùa màng tƣơi tốt là hính thức tín ngƣỡng đầu tiên trong các lễ hội nông nghiệp ở các vùng trồng lúa vì kết quả lao động của ngƣời nông dân phụ thuộc vào mùa mƣa. Các làng vẫn duy trì đƣợc hầu hết những hình thức độc đáo của các nghi lễ rƣớc nƣớc với các đồ vật và hoạt đọng có liên quan đến nƣớc bao gồm: các bƣớc chuẩn bị (tắm tƣợng thần Phật, lau dọn chùa) và các nghi lễ (nhƣ cầu mƣa, phóng sinh vật sống dƣới nƣớc về môi trƣờng tự nhiên và các trò chơi dƣới nƣớc nhƣ thi bơi, múa rối nƣớc). Có thể nói múa rối nƣớc xuất phát từ vùng nông thôn của châu thổ sông Hồng, nơi đã giữ gìn và nuôi dƣỡng nghệ thuật sân khấu độc đáo và truyền thống này qua nhiều thế kỷ. Trên thự tế ở nhều địa phƣơng từ “rối” đã trở thành tên riêng của một cái ao, một ngôi chùa nhƣ chùa Rối ở Phú Xuyên (Hà Tây cũ) hay làng Rối ở huyện Ý Yên (Nam Định). Các tác phẩm văn học của Phan Tƣờng Nguyên (thế kỷ 12) và các ghi chép của vua Trần Thái Tông (1225-1258) cùng khẳng định múa rối nƣớc là một hình tức giải trí cung đình dƣới thời LýTrần. Lịch sử Việt Nam trải qua bao cuộc chiến tranh tiếp nối nhau đã hủy hoại biết bao công trình của đất nƣớc. Chỉ có các nhà hát múa rối nhỏ bé là còn tồn tại đƣợc, nhƣ thủy đình ở chùa Thầy đƣợc xây dựng thời Hậu Lê (1533-1708) và thủy đình ở chùa Đông xây dựng năm 1775. Cái nôi của rối nƣớc đƣợc bắt nguồn từ hơn mƣời làng tập trung trong một khu vực tƣơng đối hẹp ở vùng châu thổ sông Hồng. Suốt thời phong kiến trƣớc năm 1945, các phƣờng rối ít khi mang con rối ra khỏi kho của đình làng. Họ thƣờng chỉ biểu diễn trong các lễ hội xuân hằng năm hay trong ngày giỗ vị thần bảo hộ nghề rối của làng. Các phƣờng rối nổi tiếng ít khi đi biểu diễn ở các làng lân cận và các tỉnh ngoài bởi vì ngƣời biểu diễn là ngƣời diễn nghiệp dƣ của làng vốn chỉ tập luyện trong lúc rỗi rãi. Tuy nhiên các phƣờng rối nƣớc 17 trong làng cũng có tổ chức thành hội. ngƣời biểu diễn múa rối phải tuân theo các quy định chặt chẽ và phải giữ bí mật các thao tác điều khiển con rối. Các thành viên trong nghề và uống máu ăn thề. Theo lời nghệ sĩ múa rối Đinh Văn Tiêu, thuộc phƣờng Đào thục, xã Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội, trƣớc kia những ai muốn học nghề múa rối đều đƣợc ông tổ nghề đích thân dạy bảo ngay từ đầu. Chỉ những ai thật sự xuất sắc mới đƣợc nhập phƣờng. Ngƣời mới đƣợc chấp nhận ăn mặc chỉnh tề, mang lễ vật gồm: trầu cau, xôi, rƣợu dâng lên ông tổ nghề. Nghề múa rối cứ tuần tự truyền từ đời cha sang con. Con gái và con rể không bao giờ đƣợc nhập phƣờng. Nếu cả phƣờng đồng ý kết nạp thêm thành viên mới thì tất cả sẽ uống máu ăn thề” Suốt đời suốt kiếp chúng tôi phải giữ bí mật của nghề. Nếu không, chúng tôi và ba đời con cháu sẽ phải chết.” Khi biểu diễn mỗi ngƣời chỉ biết riêng phần của mình và không đƣợc hé lộ bí mật cho ngƣời biểu dễn khác. Ngƣời ngoài không đƣợc phép xem diễn viên luyện tập. Bí quyết quan trọng nhất là về cấu tạo con rối và kỹ thuật điều khiển dây. Bất cứ ai làm lộ bí mật đều phạt một con lợn 50 cân và khai trừ ngay ra khỏi phƣờng rối. 1.3.1.2. Một số vị thần bảo hộ của múa rối nước ở các phường rối Phường rối Ra (Hà Tây) Phƣờng rối làng Ra là một trong những phƣờng rối lâu đời nhất ở Hà Tây. Truyền thống phƣờng rối bắt nguồn từ 10 thế kỉ trƣớc từ khi pháp sƣ Từ Đạo Hạnh sáng lập nên phƣờng rối. Từ Đạo Hạnh quê ở huyện Bƣởi. Khi còn trẻ, Từ Đạo Hạnh dành thời gian để tu hành và giảng đạo Phật. Ông bỏ nhà sang Trung Quốc và Ấn Độ để học tập sau khi trở về, ông muốn mang những gì đã học đƣợc ra áp dụng. Ông tìm một nơi thích hợp để dựng chùa và đã chọn Sài Sơn do nơi đây phong cảnh đẹp tự nhiên và làng mạc trù phú. Từ Đạo Hạnh dựng nên chùa Thầy và từ đó nghiên cứu kinh Phật cho đến lúc qua đời. Ông thƣờng xuyên tiếp xúc gần gũi với cộng đồng, khuyến khích các nghệ thuật truyền thống và dạy dân làng Ra hát chèo và múa rối nƣớc. Ông cũng cắt ba mẫu ruộng (1 mẫu = 3600 m2) ở Đồng Vai cho phƣờng rối. Lễ hội chùa Thầy kéo dài ba ngày, bắt đầu từ mùng 5 tháng 3 Âm lịch. Phƣờng rối dâng cúng lễ vật và biểu diễn để tỏ lòng tôn kính ngƣời sáng lập – pháp sƣ Từ Đạo Hạnh. 18 Phường rối làng Bùi (Hải Dương) Truyền thuyết kể rằng múa rối nƣớc ở làng Bùi, Hải Dƣơng ra đời thế kỷ 11, dƣới thời nhà Lý giặc Tống xâm lƣợc bao vây kinh thành và đe dọa giết tƣớng Trần Bình và binh lính của ông. Tƣớng Trần Bình ra lệnh cho lính tƣớc cỏ dại thành sợi nhỏ sau đó dán lên các quả cầu gỗ giả làm đầu ngƣời. Họ thả các binh lính giả xuống các hào quanh thành rồi mở cổng thành. Quân giặc tràn vào song gặp đám binh lính giả thì kinh hãi, lợi dụng lúc địch đang bối rối rút chạy theo lối cổng sau tƣớng Trần Bình đã bao vây và tấn công giặc lúc này ở bên trong. Đến tuổi già khi đất nƣớc đã thanh bình, Trần Bình cáo quan và quay về làng Bùi. Ở đó ông dạy dân làng múa rối nƣớc, ngƣời dân làng Bùi tôn Trần Bình làm Thành Hoàng làng. Trƣớc khi mang rối ra biểu diễn các thành viên phƣờng rối dâng các lễ vật tạ ơn ông tổ của nghề rối nƣớc của làng Bùi. 1.3.3. Đặc điểm của nghệ thuật múa rối nước 1.3.3.1. Con rối Con rối đƣợc các nghệ nhân làm bằng gỗ, gỗ tốt sẽ nặng và chìm, nên gỗ sung là chất liệu thông dụng để tạo con rối, loại gỗ này nhẹ, dai, rất dễ điều khiển trong khi biểu diễn dƣới nƣớc. Sau đó đƣợc sơn một lớp sơn không thấm nƣớc. Để tạo một con rối hoàn chỉnh, các nghệ nhân phải trải qua nhiều giai đoạn tỉ mỉ, công phu từ đục cốt đến trang trí. Con rối đƣợc tạo bởi hai phần chính, phần thân và phần đế: Phần thân là phần nổi bên trên thể hiện nhân vật. Thân gồm đầu, mình, 2 tay, 2 chân. Rối đƣợc tạc thân với đế là một khối liền, khi chuyển động là chuyển động toàn thân, các cử động của rối đƣợc thiết kế theo yêu cầu của trò diễn nhƣ cử động đầu thì tạo khớp ở cổ, cử động tay thì tạo khớp ở vai, ở khuỷu tay, cử động thân thì tạo khớp ở bụng… Máy điều khiển rối sẽ đƣợc lắp ở bụng rối. Rối phụ thuộc vào cấu tạo và yêu cầu cử động để tạo khớp. Ví dụ nhƣ trâu, bò, ngựa cũng đƣợc đục rỗng ở bụng để giảm trọng lƣợng cho rối. Phần đế là phần chìm bên dƣới, là phần tiếp liền với thân rối có vai trò nhƣ phao giúp rối đứng đƣợc khi diễn trò trên mặt nƣớc. Đế đồng thời cũng là điểm tựa để luồn các giấy từ máy điều khiển đóng bên trong thân rối đến tay 19 cầm của sào. Điều khiển biểu diễn múa rối nƣớc dân gian có 2 loại máy: máy sào và máy dây. Máy sào thì đơn giản hơn, chuyển động của rối trên sàn diễn rất linh hoạt.Trò diễn sinh động, không khí sân khấu sôi động song nhƣợc điểm là không đƣa quân trò đi xa khối buồng trò. Máy dây bao gồm một hệ thống dây và các cột, các fu-li, nhờ đó các trò diễn có thể đƣa ra rất xa khỏi buồng trò gây nên sự tò mò, kỳ lạ cho ngƣời xem. Máy điều khiển và kỷ xảo điều khiển con rối là yếu tố chính để tạo nên hành động của con rối. Phƣờng rối Yên ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây dùng gỗ cây yến để làm rối. Con rối đƣợc sơn 4 hoặc 5 lần bằng một loại vecni truyền thống có phủ lớp bạc, do vậy các con rối rất bền. Hình tƣợng rối : ngƣời nông dân dình dị, phụ nữ, cô thiếu nữ….hoặc những nhân vật lịch sử : Bà Trƣng, Bà Triệu, Lê Lợi… nhiều nhân vạt gàn gũi với ruộng đồng : đàn trâu, đàn vịt, đàn cá, con mèo, con chuột. Nhân vật quan trọng nhất trong múa rối nước Trải qua nhiều năm, ngƣời Việt từ chốn cung đình cho đến các làng mạc nông nghiệp ai ai cũng yêu mến chú Tễu và coi Tễu chính là linh hồn của rối nƣớc, là cầu nối giữa ngƣời biểu diễn và ngƣời xem. Tễu đƣợc làm to hơn tất cả các con rối khác mặc dù dựa vào cách để tóc trái đào của chú thì Tễu mới chỉ bảy, tám tuổi. Chú Tễu thân hình tròn trĩnh, da trắng hồng và lúc nào cũng tƣơi cƣời, chú đóng khố để lộ bộ ngực và bụng phệ. Tay vung vẩy, cái đầu quay nghiêng quay ngửa mỗi khi trêu chọc khán giả. Trong chữ Nôm “Tễu” có nghĩa là “ tiếng cƣời” Tễu là nhân vật táo bạo, luôn diễu cợt, chế nhạo. Trong các vở diễn Tễu là ngƣời mở màn, ngƣời bình luận, ngƣời kể chuyện, và là ngƣời chỉ trích quan lại tham nhũng. Ở một số phƣờng rối, chú Tễu lại là ngƣời phất cờ hoặc châm pháo. Một số ngƣời coi Tễu là tên mõ làng hay giúp đỡ các cụ già, có ngƣời lại nghĩ Tễu là ngƣời đi mổ bò, mổ trâu. Tất cả các phƣờng rối đều dùng Tễu làm nhân vật để mở màn buổi biểu diễn. Theo nhƣ ông Nguyễn Văn Tƣớc thuộc phƣờng rối Chàng, xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây cũ là con trai của cựu trƣởng phƣờng múa rối. Ông sở hữu một bộ sách bằng chữ Hán về phƣờng Chàng do cha ông truyền lại. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng