Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Fdi với việt nam...

Tài liệu Fdi với việt nam

.DOCX
19
142
66

Mô tả:

Trường Đại Học Nha Trang Khoa Kinh Tế BÀI TIỂU LUẬN MÔN: TÀI CHÍNH TIỀN TỆ BÀI TIỂU LUẬN: FDI với VIỆT NAM A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.Giới thiệu về vấn đề: Đất nước ta đang trên đường hội nhập và phát triển. Để có thể đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đòi hỏi chúng ta cần một nguồn vốn rất lớn để phát triển trên tất cả lĩnh vực. Và thực tế việc gia nhập vào các tổ chức khu vực và quốc tế đã đem lại cho nước ta rất nhiều lợi thế trong việc tranh thủ thu hút các nguồn vốn từ các nước bên ngoài để phát triển như: nguồn vốn ODA, FDI... Đặc biệt trong thời gian gần đây, nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã gia tăng một cách nhanh chóng và tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, làm thay đổi diện dạo nền kinh tế và xã hội của nước ta. Chính vì những lí do trên nhóm chúng tôi đã chọn đề tài: “FDI và Việt Nam” nhằm mục đích phân tích, tìm hiểu, nhận thức rõ hơn về vấn đề này. B. NỘI DUNG VẤN ĐỀ I.KHÁI NIỆM VỀ FDI: 1.Định nghĩa về FDI Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm FDI: - Theo Tổ Chức Thương Mại Thế giới ( WTO) thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Direct Investment) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty" - Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ( IMF, international monetary fund) lại có một định nghĩa khác về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (foreign direct investment) là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp ( direct investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sỡ hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ( direct investment enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng chung quy lại có thể hiểu: đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. 2.Các đặc điểm của FDI: - Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định cuả dự án đạt mức tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định. - Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý dự án mà họ bỏ vốn đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định của dự án. - Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia cho các bên theo tỉ lệ góp vốn và vồn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần nếu có. - FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiếp với nhau. II.Phân tích tác động của FDI đối với VIỆT NAM Biểu đồ thể hiện vốn đầu tư FDI giai đoạn (1988-2008) Bảng đầu tư FDI vào VN (1988-2008) 1. Tình hình FDI ở Việt Nam: Sau đại hội VI đất nước tiến hành mở cửa đổi mới. Từ đó năm 1987 những dự án đầu tư FDI đầu tiên đã vào Việt Nam. Trải qua 20 năm FDI không ngừng biến động qua từng thời kì, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại WTO, FDI đã không ngừng tăng trưởng một cách mạnh mẽ và đỉnh điểm năm 2008 FDI đạt tới 64 tỷ USD. Sau đây chúng ta cùng điểm qua tình FDI vào Việt Nam trong 20 năm qua. Giai đoạn từ (1988- 1990): Đây là giai đoạn đầu tiên nên FDI vào Việt Nam rất khiêm tốn, tổng 3 năm chỉ đạt 1,79 tỷ USD và chưa có tác động rõ rệt đến nền kinh tế- xã hội Việt Nam. Giai đoạn (1991- 1996): Đây là giai đoạn FDI tăng trưởng nhanh và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Giai đoạn này đã thu hút 25,179 tỷ USD vốn đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm cao. Vốn đăng ký năm 1991 là 1,322 tỷ USD thì năm 1996 là 8,497 tỷ USD, bằng 6,43 lần. Giai đoạn (1997- 2003); Đây là thời kỳ suy thoái của FDI. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1997 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Năm 1996 vốn đăng ký là 8,498 tỷ USD, thì năm 1997 chỉ bằng 50%, còn 4,649 tỷ USD. Tồi tệ hơn là năm 1999 chỉ còn 1,568 tỷ USD và tiếp tục ngưng trệ cho đến năm 2003. Giai đoạn (2004- 2006):Đây là giai đoạn FDI phục hồi và phát triển. Năm sau tăng gấp đôi so với năm trước. Năm 2004 chỉ mới đạt 2,084 tỷ USD thì năm 2006 lên tới 10,200 tỷ USD tăng 400% so với 2004. Giai đoạn (2007-2008): Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại WTO các chính sách ngoại thương cởi mở hơn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, nhờ đó đã tạo ra một hiệu ứng rất tốt trong việc thu hút FDI, nó được phản ánh qua năm 2007, 2008. Năm 2007 Việt Nam đã thu hút 1544 dự án và 21,3 tỷ USD, tăng gần 2 lần năm 2006, đó mới chỉ là kết quả của 1 năm gia nhập WTO. Chưa dừng lại ở đó qua năm 2008 Việt Nam đã thu hút một con số cực kỳ ấn tượng với 64 tỷ USD gấp gần 3 lần so với năm 2007. Qua đó lọt vào top 10 nền kinh tế hấp dẩn vốn đầu tư FDI nhất. Các lĩnh vực thu hút đầu tư (1988-2007) TOP 10 TỈNH/THÀNH PHỐ THU HÚT FDI (1988-2007) BIỂU ĐỒ 10 TỈNH/THÀNH PHỐ THU HÚT FDI (1988-2008) 2, sức hút FDI của VN và các hạn chế: A.Sức thu hút: có thể nói trong thời gian vừa qua, VIỆT NAM được đánh giá là một nước có sức hút lớn đối với FDI. Vậy những sức hút đó là gì, chúng tôi đã nghiên cứu được là do như sau: Sự kiện gia nhập WTO của Việt Nam đã tạo hy vọng cho các nhà đầu tư vào một môi trường kinh doanh được cải thiện hơn. Việt Nam được công nhận là một quốc gia hấp dẫn về thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhờ có những lợi thế về hệ thống chính trị ổn định, có triển vọng kinh tế phát triển trong trung và dài hạn. Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng GDP ấn tượng ở mức trung bình hơn 7% trong suốt hai thập kỷ qua. Với một nền kinh tế đang dần dần tự do hóa và có một vị trí địa lý chiến lược đặc biệt ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam nhanh chóng trở thành điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam là nước có dân số đông nên có lực lượng lao động dồi dào, lao động Việt Nam cần cù sáng tạo trong công việc, nhân công giá rẻ. Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Trên thế giới dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng đổ vào các nước đang phát triển, nhất là các nền kinh tế mới nổi, có tốc độ phát triển cao, có môi trường đầu tư thuận lợi. Việt Nam đã tổ chức thành công các sự kiện văn hoá, chính trị trong thời gian vừa qua, góp phần nâng tầm vị thế và danh tiếng Việt Nam đến các nhà đầu tư nước ngoài, hứa hẹn là một điểm đến lý tưởng cho đầu tư. *Những hạn chế của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư. Chi phí sản xuất gia tăng do giá cả một số mặt hàng ,nhất là giá nguyên nhiên liệu (giá điện,than,dầu khí tăng đáng kể sẽ ảnh hưởng đến giá thành và tính cạnh tranh trong một số sản phẩm. Việt Nam chưa khắc phục được những hạn chế cố hữu về thể chế, luật lệ, tính dự báo của luật lệ. Hệ thống luật pháp chưa thống nhất, gây ra nhiều sự kiện đáng tiếc. Khả năng hấp thụ vốn của Việt Nam vẫn còn thấp do sự yếu kém về quy hoạch, hạ tầng, thiếu nhân lực chất lượng cao và sự chậm trễ trong giải quyết công việc...Việc thiếu nguồn cán bộ quản lý, khó kiếm đội ngũ kỹ thuật viên và kỹ sư. Công tác quy hoạch lại có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về bảo hộ sản xuất trong nước.. Những khó khăn trong việc quản lý và tài chính tạo ra những thách thức. Vấn đề tồn tại gây nhiều bức xúc là tiến trình giải ngân vốn FDI chậm.Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu: Một là, hệ thống hạ tầng như giao thông, cảng biển, thông tin liên lạc, nguồn nhân lực v.v… còn bất cập, làm hạn chế khả năng tiếp nhận lượng vốn đầu tư tăng ồ ạt vượt rất xa dự tính ban đầu. Hai là, bộ máy hành chính còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, chưa chuyển kịp với tốc độ tăng rất mạnh nguồn vốn đầu tư. Ba là, do việc bàn giao mặt bằng chậm, chẳng hạn, có những dự án nhà đầu tư phải chờ đợi từ 5- 10 năm mới được giao mặt bằng để xây dựng nhà máy. Nội dung xúc tiến đầu tư mới chỉ dừng lại ở quảng bá, giới thiệu tiềm năng, mà chưa đề ra được một chiến lược xúc tiến đầu tư dài hạn và có chiều sâu, nguồn nhân lực chưa chuyên nghiệp, trình độ còn hạn chế nên ảnh hưởng đến khả năng tiếp xúc trực tiếp, kinh phí thiếu, thông tin quảng bá đơn điệu, chậm được cập nhật, tính chủ động trong xúc tiến đầu tư còn yếu, bị động, vẫn còn nặng tâm lý chờ nhà đầu tư đến thay vì chủ động tìm kiếm, tiếp xúc, chào mời... Những lý do trên đã giải thích tại sao việt nam mặc dù được đánh giá cao là có triển vọng về thu hút đầu tư nhưng lượng đầu tư đổ vào vẫn chưa tương xứng . 3,Tác động của FDI đến VIỆT NAM: Trong hơn 20 năm qua, FDI đã có những ảnh hưởng rõ nét và quan trọng tới nhiều mặt của đất nứoc ta. Tuy nhiên, bất cứ vấn đề nào cũng có tính 2 mặt của nó. Sau đây chúng tôi xin đi sâu vào phân tích những mặt tích cực, tiêu cực nói chung cũng như các ảnh hưởng cụ thể tới từng lĩnh vực: a, Mặt tích cực nói chung: * FDI góp phần giải quyết các vấn đề liên quan tới vốn đầu tư để đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng cao và bền vững: Một là, tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư. Hiện nay, tỷ lệ huy động của Việt Nam khoảng 22% GDP, trong khi đó tỷ lệ vốn đầu tư phải 30-35% GDP. Khoản lệch này nếu không tìm được nguồn vốn nước ngoài thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hai là, tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước đã dẫn đến sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài. Cả hai vấn đó có thể được giải quyết bằng cách thu hút vốn nước ngoài, trong đó có FDI. * FDI là một nhân tố tích cực cho công cuộc CNH,HĐH ở nước ta có hiệu quả: đối với một nước có trình độ phát triển chưa cao, thu nhập thấp thì nguồn vốn FDI là vô cùng quan trọng + FDI góp phần nâng cao năng lực quản lý, tiếp thu công nghệ, trình độ tay nghề cho người lao động, thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. + tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người dân, cải thiện và đổi mới các hệ thống giáo dục và đào tạo để nân cao trình độ tay nghề cho người lao động phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. * FDI lại gắn với thương mại, thúc đẩy ngoại thương cũng như quan hệ ngoại giao đối với nhiều nước trên thế giới.. FDI giúp mở cửa thị trường xuất khâu, tạo điều kiện cho các sản phẩm nước ta ngày càng đạt đến chuẩn quốc tế. b, Mặt tiêu cực: + FDI gây bất bình đẳng và phân tầng xã hội Tăng trưởng kinh tế đã chia sẻ lợi ích cho đông đảo các tầng lớp xã hội, trong đó có cả người nghèo, các nhóm xã hội yếu thế. Tuy nhiên, vẫn còn những khác biệt, không công bằng, do có những nhóm xã hội được hưởng lợi nhiều hơn và những nhóm hưởng lợi ít hơn,thậm chí bị rủi ro, mất mát. Phân tầng xã hội trong 2 thập kỷ Đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, dù rằng xã hội Việt Nam đang phát triển tương đối công bằng so với các nước khác có cùng trình độ phát triển kinh tế. Đó chính là do sự quá tập trung nguồn vốn FDI, ODA vào các vùng kinh tế trọng điểm. Việc chuyển đổi sử dụng đất cho các dự và đầu tư nước ngoài cũng khiến cho hàng vạn lao động bị ảnh hưởng trực tiếp do bị mất đất sản xuất. + Góp phần gia tăng ô nhiễm môi trường: Cùng với những lợi ích do FDI mang lại, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là nạn "xuất khẩu" ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển trên thế giới đang ngày càng gia tăng. Theo Tổng cục Môi trường Vịêt Nam, hiện đang có tình trạng chuyển các ngành gây ô nhiễm môi trường nặng nề từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua FDI.Việc “xuất khẩu” ô nhiễm này mang lại cho các tập đoàn đa quốc gia một lợi thế cạnh tranh mới nhờ giảm chi phí sản xuất. Nguyên nhân của tình trạng này là do chi phí để khắc phục ô nhiễm môi trường tại các nước phát triển rất cao. Do vậy, chính phủ ta cần có những giám sát và quản lý chặt chẽ đối với các dự án đầu tư FDI, kiên quyết không chấp nhận các dự án FDI gây ô nhiễm môi trường. + “Bóc chết” các doanh nghiệp trong nước: Một trong những mặt tích cực như đã trình bày của FDI là thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Thế nhưng, nó còn là nguy cơ của sự phá sản của nhiều công ty nội địa với năng lực còn hạn chế. Các doanh nghiệp có vốn FDI thường có công nghệ khoa học tiên tiến hơn, tính hiệu quả cao hơn, dẫn đến giá thành có thể rẻ hơn và chất lượng lại được nâng cao. Nếu các doanh nghiệp Nhà nước không có sự điểu chỉnh đúng đắn và hợp lý thì sẽ bị “biến mất” trên thị trường. + Khánh kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên: Sự đầu tư, khai thác của những tập đoàn đa quốc gia đến từ nhiều nước có thể gây ra nạn cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước ta trong tương lai. Hiện tượng này có thể xảy ra nhất không chỉ ở tài nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản mà còn có cả nguồn lao động vốn được coi là dồi dào và rẻ tiền. Tuy nhiên cần nhận thấy rằng những tác động tiêu cực của FDI không phải là thuộc tính riêng của FDI và chúng thường là hệ quả của các chính sách và chất lượng quản lý kinh tế của nhà nước đã tạo kẽ hở, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng khai thác triệt để mà không phải bận tâm nhiều đến hậu quả pháp lý của các hành động của mình. Sau đây là những tác động cụ thể của FDI vào từng lĩnh vực: a, Về kinh tế: ● Nông nghiệp: *Bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Hiện nay, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài vào trong ngành nông nghiệp là chưa cao, chưa có những tác động đáng kể vào Nông- lâm – ngư nghiệp (chiếm tỷ trọng khoảng 6,7% tỷ trọng vốn đầu tư FDI đăng ký cả nước) nhưng vẫn là nguồn lớn hỗ trợ cho nông nghiệp nước nhà. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, điều này có 3 nhóm nguyên nhân chính. +Thứ nhất, chưa có chiến lược thu hút và quy hoạch sử dụng FDI cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. Chưa có cơ chế chọn lựa, đề xuất các dự án FDI ưu tiên trong ngành, mong muốn của ngành chưa thể hiện thành chính sách ưu đãi. Chưa có cơ quan của ngành theo dõi và giúp đỡ giải quyết vướng mắc trong quá trình xúc tiến và thực hiện các dự án FDI. Chưa có cơ chế phối hợp ngành - địa phương. + Cơ sở hạ tầng và tay nghề ở khu vực nông thôn chưa đủ để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro khi đầu tư vào nông nghiệp và khu vực nông thôn cao. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa đủ năng lực để chủ động kêu gọi FDI theo ý đồ phát triển sản phẩm và thị trường của riêng mình. + Những nguyên nhân bắt nguồn từ thủ tục hành chính, chính sách chung của Nhà nước. Chưa thực sự ưu đãi cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào khu vực nông nghiệp và nông thôn. Chính sách đất đai, thuế và các chế độ ưu đãi đầu tư trong nông nghiệp và các vùng nông thôn chưa rõ và chưa thống nhất. *FDI góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, đa dạng hóa và nâng cao giá trị sản phẩm. Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập. Với 758 dự án đã và đang triển khai, lĩnh vực FDI trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng năm khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong thời gian gần đây. *Các dự án đầu tư FDI vào nông nghiệp tuy không lớn nhưng đã tạo ra công ăn việc làm, thu nhập ổn định, giúp hàng vạn hộ nông dân tham gia lao động tạo nguồn nguyên liệu thường xuyên cho dự án hoặc theo mùa vụ (trồng mía đường, khoai mì… , góp phần quan trọng thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo. Tính trung bình, ĐTNN vào nông nghiệp nói chung tạo ra tỷ lệ việc làm gián tiếp so với việc làm trực tiếp rất cao 34,5/1. Đặc biệt, ở một số địa phương, dự án ĐTNN tạo việc làm cho khoảng 1/4 dân cư trên địa bàn. Tuy nhiên, dù số lao động trong nông nghiệp và nông thôn vẫn chiếm tỉ cao tới gần 60% so với lao động chung của cả nước nhưng số lao động qua đào tạo nghề trong lĩnh vực Nông - lâm - ngư nghiệp chỉ chiếm 13% trong số đó. Đòi hỏi trong thời gian tới phải tăng cường công tác đạo tạo lao động nông thôn đáp ứng nhu cầu phát triển ngành nông nghiệp và tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. ●Công nghiệp: Đầu tư FDI đem đến cho nền công nghiệp nước ta nhiều lợi ích: +Đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong cơ cấu công nghiệp cả nước đang ngày càng được củng cố. Điều này được thể hiện thông qua tỷ trọng của đầu tư nước ngoài trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng dần từ 16,9% (1991) lên 23,65% (1995), 26,5% (1996) lên tới 41,3% năm 2000, và 36,4% (2006) và 43,8% giá trị sản lượng công nghiệp (2007) tương đương với khu vực doanh nghiệp nhà nước. Tốc độ tăng trưởng cao của khu vực công nghiệp có vốn FDI đã đóng góp đáng kể vào việc nâng cao tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp. Chất lượng của các dự án FDI vào lĩnh vực công nghiệp đang có sự cải thiện rõ rệt. Có thêm nhiều dự án quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại, nhiều dự án đầu tư theo các nhóm liên kết ngành- đây cũng là cơ sở thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển trong thời gian tới. Vì với lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường ổn định, được khuyến khích bằng các cơ chế, chính sách ngày cáng thông thoáng, khu vực có vốn FDI trong công nghiệp đã và đang phát triển khá nhanh và ổn định, luôn có xu hướng tăng nhanh hơn các khu vực khác. +Việc đầu tư nước ngoài trong công nghiệp phát triển nhanh cũng đã tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp cũng được nâng cao thông qua việc áp dụng các công nghệ, máy móc và thiết bị sản xuất hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến từ các dự án FDI, tạo điều kiện ra đời và thay đổi diện mạo của nhiều ngành công nghiệp như khai thác dầu khí, sản xuất, lắp ráp ôtô, điện tử và công nghệ thông tin, thiết bị kỹ thuật điện và điện gia dụng, chế biến thực phẩm và đồ uống, các ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực như dệt may, giày dép... thu hút hàng hàng trăm ngàn lao động... Ngoài ra, đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp đã gián tiếp đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công nghệ mới, cũng như các kỹ năng quản lý tiên tiến, kỷ luật công nghiệp chặt chẽ. ● Dịch vụ: Ngành dịch vụ càng ngày càng chiếm một thị phần lớn của thương mại toàn cầu. Khu vực dịch vụ bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau từ du lịch, qua tài chính cho đến lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục... +FDI vào Việt Nam ngày càng nhiều va dòng vốn đang có sự chuyển dịch cơ cấu “chảy” mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước trong năm 2007 vừa qua, trong đó tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tảibưu điện (18%). Tổng cục Du lịch cho biết, đến cuối tháng 12/2008, cả nước đã có 190 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các khu du lịch và khách sạn, với tổng vốn đăng ký đầu tư là 4,46 tỷ USD.Tăng 140% so với năm 2007. Các chuyên gia cho rằng lĩnh vực du lịch-dịch vụ đang là "điểm nóng" thu hút đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Các nhà đầu tư nước ngoài dường như không muốn chậm chân trước những cơ hội kinh doanh lớn trong lĩnh vực này khi mà Việt Nam đã đứng trước cánh cửa rộng mở của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Cơ cấu đầu tư trong thời gian qua rất khả quan, các nhà đầu tư nước ngoài đang dành sự quan tâm rất lớn cho các dự án xây dựng khu vui chơi, nghỉ dưỡng, khách sạn, sân golf quy mô lớn và chất lượng dịch vụ cao. Các nước và vùng lãnh thổ dẫn đầu về vốn FDI vào các dự án du lịch là Singapore với 20 dự án và tổng vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD; Ðài Loan có 15 dự án với 784 triệu USD; Hồng Kông có 41 dự án với 642 triệu USD; tiếp đến là Hàn Quốc, Malaysia, Pháp, Nhật Bản. b, Về mặt xã hội: + xoá đói giảm nghèo Hội nhập quốc tế đã là một trong những động lực chính để giảm nghèo và phát triển xã hội nói chung ở Việt Nam trong suốt 2 thập kỷ qua.Các doanh nghiệp FDI đã đóng góp đáng kể vào nguồn ngân sách để Nhà nước có thể tăng chi tiêu ngân sách cho các lĩnh vực xã hội, cho các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, góp phần xoá đói giảm nghèo.Tuy nhiên kết quả giảm nghèo chưa bền vững. Nhiều nhóm dân cư vẫn cận kề ngưỡng nghèo, nguy cơ tái nghèo khá cao, nhất là ở các vùng thường xuyên bị thiên tai đe dọa. *Dân cư: Việc làm: Nguồn vốn FDI đã có tác động quan trọng trong tạo việc làm và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam. Đến nay, FDI đã tạo việc làm trực tiếp cho trên 1 triệu lao động và khoảng 3 đến 4 triệu lao động gián tiếp với thu nhập cao hơn; người lao động được đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật, rèn luyện tác phong công nghiệp. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một vấn đề là cơ hội việc làm này cũng được phân bố không đều do FDI chủ yếu chỉ tập trung vào một số ngành Việt Nam có ưu thế về lao động và thị trường Di cư: Hội nhập quốc tế cũng tạo ra lực hút mạnh mẽ làm xuất hiện các dòng di cư với hàng triệu lao động, từ nông thôn vào các khu vực đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, trong đó có một phần đáng kể ở khu vực FDI. Người nông dân di cư đến các khu vực đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm đã có thêm việc làm, cải thiện sinh kế, song vẫn còn gặp nhiều khó khăn khăn như thiếu chỗ ở và các điều kiện sống cơ bản như khám chữa bệnh và học hành của con cái. *Quan hệ lao động trong doanh nghiệp: Trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đã xuất hiện những quan hệ xã hội mới giữa giớ chủ nước ngoài và người lao động Việt Nam. Điều kiện làm việc và điều kiện sống của công nhân trong khu vực liên doanh FDI đang trở thành vấn đề nóng những năm qua.Người lao động Việt Nam còn thiếu hiểu biết về pháp luật lao động, cùng với những khác biệt văn hóa hoặc xung đột lợi ích giữa giới chủ và người lao động đã dẫn đến nhiều cuộc đình công tại các doanh nghiệp (đã có trên 1.500 cuộc trong thập niên vừa qua), mà đại đa số xảy ra tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, Bộ Luật Lao động dường như chưa đủ để điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ trương thu hút đầu tư, đặc biệt là FDI, và việc bảo vệ những quyền lợi hợp pháp và chính đáng của người lao động. Vì vậy chưa thể hoá giải những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các xung đột trong quan hệ lao động mới này. IV.TÌNH HÌNH FDI TRONG TƯƠNG LAI 1. Những khó khăn trước mắt Với cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng toàn cầu như hiện nay, có thể nói hầu hết các doanh nghiệp Mỹ và Châu Âu sẽ giảm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, nên việc thu hút FDI ở hai thị trường này của Việt Nam đều bị tác động đáng kể. Cuộc khủng hoảng này cũng dẫn tới giá nhiều loại nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh giảm, đặc biệt là dầu thô. Giá dầu thế giới giảm đã ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách do xuất khẩu dầu thô bị giảm sút. Ngoài ra, nhiều loại nguyên liệu khác phục vụ cho hoạt động của nền kinh tế như sắt, thép, phân đạm, giấy, xi măng cũng gặp khó khăn và hiện tại thị trường tiêu thụ của các ngành này đang bị thu hẹp. Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hoặc âm. Việt Nam cũng không thoát khỏi yếu tố này. Trong khi lạm phát vẫn là một vấn đề tiềm ẩn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế Việt Nam năm 2009. Ngoài ra, tiền gửi ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước sẽ bị giảm lợi tức do nhiều nước nới lỏng tiền tệ để tránh lâm vào suy thoái sâu rộng; dòng ngoại hối sẽ suy giảm; nhiều hoạt động kinh tế ở nước ta cũng gặp khó khăn, đặc biệt các hợp đồng đã ký kết với đối tác nước ngoài có thể bị ngưng trệ và có thể các hợp đồng này sẽ không còn được ký kết. 2. Và cũng nhiều cơ hội được mở ra: Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính đã gây ra một số tác động tiêu cực, nhưng nó cũng tạo ra cho Việt Nam một số cơ hội: +Việc thu hút vốn đầu tư có nhiều thuận lợi do dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nước có môi trường kinh doanh và chính trị ổn định - Việt Nam hội tụ đủ cả hai yếu tố này. +Hoạt động xuất khẩu có thể tăng do nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều lợi thế so sánh như hàng dệt may...; nhập khẩu có thể chọn lọc do nhiều nước trên thế giới phải bán các mặt hàng, công nghệ do kinh tế đi xuống. + Bên cạnh đó, việc giảm các loại nguyên vật liệu này tuy gây khó khăn cho nền kinh tế nhưng cũng tác động tích cực tới nền kinh tế như: Hạn chế lạm phát; xăng dầu giảm dẫn tới chi phí vận chuyển và giá của nhiều loại vật liệu xây dựng như sắt, thép, xi măng, cát, đá... cũng giảm, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản hồi phục sau một thời gian "đóng băng" một phần do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây nên. Các khả năng tăng trưởng Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2009 phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng kinh tế thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản, các nước EU, do đây là đối tác đầu tư và thương mại quan trọng của Việt Nam trong thời gian qua. Mức độ suy giảm cũng như triển vọng phục hồi của các nền kinh tế lớn trên thế giới sẽ là yếu tố quan trọng đến kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Kinh tế Việt Nam đã gặp phải nhiều khó khăn trong năm 2008. Mặc dù lạm phát cao đã được kiềm chế nhưng tác động của nó đang làm tăng trưởng suy giảm mạnh và đà suy giảm này sẽ còn tiếp diễn trong năm 2009. Bên cạnh đó, tác động sự suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ làm giảm lượng vốn FDI và xuất khẩu của nước ta. Vì vậy, triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2009 là khá khó khăn. Dựa trên các phương pháp định lượng kết hợp với phân tích định tính, các chuyên gia đã phác họa hai khả năng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. +Khả năng tăng trưởng thấp: Kịch bản này được xây dựng với giả thiết kinh tế thế giới chưa thể phục hồi ngay trong năm 2009 và điều này sẽ tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Vốn FDI và xuất khẩu của Việt Nam giảm sút, đặc biệt là xuất khẩu. Xuất khẩu sẽ bị tác động tiêu cực cả về giá và sản lượng. Kim ngạch xuất khẩu được dự kiến chỉ tăng 5%. Thu hút vốn FDI sẽ giảm mạnh so với năm 2008. Do đó, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 732 nghìn tỷ đồng, tương đương 41,9 tỷ USD theo tỷ giá 17.470 VND/USD. Tỷ lệ đầu tư trên GDP đạt 35%. Tăng trưởng GDP năm 2009 dự báo đạt 5,0%. +Khả năng tăng trưởng cao: Đây là kịch bản chủ đạo và có nhiều khả năng xảy ra nhất. Ở kịch bản này, giả thiết là kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi vào cuối năm 2009 và tác động của sự suy giảm vốn FDI và xuất khẩu của Việt Nam là không quá tiêu cực. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế vẫn giảm mạnh so với năm 2008, dự báo đạt 6,0%. Có hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự suy giảm tốc độ tăng trưởng. Thứ nhất, kim ngạch xuất khẩu giảm do giá giảm và nhu cầu tại các thị trường truyền thống giảm. nhưng nhờ Việt Nam đã đa dạng hóa cao thị trường xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn giữ được năng lực cạnh tranh nên tăng tốc độ xuất khẩu có khả năng đạt 11%. Thứ hai, việc thu hút vốn FDI giảm so với năm 2008, nhưng vốn FDI đăng ký và thực hiện vẫn đạt mức tương đương các năm 2006 và 2007. Nhờ đó, tổng vốn đầu tư phát triển có thể đạt 768.000 tỷ đồng, tương đương 44 tỷ USD. Ngoài ra, kịch bản này cũng giả thiết rằng các chính sách kích cầu, thúc đẩy tăng trưởng của Chính phủ sẽ sớm được thực hiện và tác động tích cực. V. Biện pháp khắc phục Với những dự báo về tình hình FDI trong tương lai như trên ,nhóm chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp để nâng cao sức hút và hiệu quả sử dụng nguồn vốn này như sau: 1.Về mặt chính sách +Tìm kiếm thị trường và đối tác mới: Trong khi vẫn coi trọng các thị trường và đối tác hiện nay, mà chủ yếu là châu Á và các doanh nghiệp vừa, cần mở rộng việc thu hút FDI từ thị trường mới, nhất là Mỹ - một nước có tiềm năng lớn và có quan hệ thương mại gia tăng mạnh mẽ với nước ta trong 3 năm vừa qua. Coi trọng việc đề ra các giải pháp để ngày càng có nhiều công ty đa quốc gia, nhất là 500 công ty hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao. +Tạo lập môi trường đầu tư tốt nhất: Trên cơ sở thường xuyên quan tâm đến việc xếp hạng của các tổ chức quốc tế về năng lực cạnh tranh trong đầu tư của từng nước, cũng như đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta để sửa đổi, bổ sung những nhân tố có liên quan, làm cho vị thế nước ngày càng cao hơn trong bảng xếp hạng của thế giới.Để giúp thực hiện tốt giải pháp này cần phải: -Bảo đảm tính minh bạch và ổn định của luật pháp -Cải cách cơ bản thủ tục hành chính theo nguyên tắc hoạt động đầu tư thuộc quyền của các doanh nghiệp; cơ quan nhà nước trước hết có chức năng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực hiện dự án đầu tư; trên cơ sở đó quy định các thủ tục hành chính thích hợp, cũng như việc giám sát kiểm tra đúng mức. -Bảo đảm tính thống nhất trong cả nước, một mặt vừa khuyến khích chính quyền địa phương cạnh tranh trong việc tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, mặt khác nghiêm cấm việc vi phạm luật pháp, giảm miễn thuế vượt quá khuôn khổ pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi quốc gia. 2.Cụ thể trên từng lĩnh vực *Đối với ngành nông nghiệp - Cần sớm khắc phục những nguyên nhân hạn chế của ngành. Chính phủ cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, nâng cao tính tiên liệu, minh bạch, đơn giản hoá thủ tục cấp phép, quản lý hoạt động đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng nông nghịêp, nông thôn. Sử dụng hợp lý các nguồn vốn khác để khuyến khích dòng chảy FDI. - Nhóm giải pháp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: xây dựng chiến lược thu hút, sử dụng FDI trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích về ưu đãi hỗ trợ đầu tư, phát triển thị trường, chính sách đất đai, phát triển vùng nguyên liệu, phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện hiệu quả công tác quản lý, sử dụng FDI. - Nhóm giải pháp của các hiệp hội ngành hàng: tham mưu cho Bộ, địa phương về xây dựng quy hoạch vùng và cơ cấu sản phẩm, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực hoạt động, tăng cường vai trò trong giải quyết tranh chấp thương mại. - Nhóm giải pháp của các doanh nghiệp: nâng cao năng lực hoạt động của doanh nghiệp, tích cực tham gia chương trình xúc tiến đầu tư của ngành, chú trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu. * Đối với dịch vụ: - Ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà Việt Nam có nhu cầu như: văn hóa - y tế giáo dục, bưu chính - viễn thông, hàng hải, hàng không, sẽ góp phần thúc đẩy đầu tư nhanh chóng hơn nữa vào cơ sở hạ tầng, trong bối cảnh suy giảm kinh tế cũng như suy giảm về nguồn FDI trên toàn cầu. - Tập trung nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nhất là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa, tránh gây khó khăn cho các nhà đầu tư. -Đối với ngành công nghiệp Bất kì một nền công nghiệp nào cũng cần có các ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ phát triển.Tuy nhiên ở nước ta ,ngành CNPT vẫn còn rất nhiều hạn chế .Do vậy yêu cầu đầu tiên và bức thiết đối với nước ta là phải ưu tiên phát triển ngành CNPT.Để giải quyết vấn đề này: -Chính phủ cùng các ngành liên quan cần có chiến lược đầu tư vào khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành CNPT. Trước hết, cần xây dựng cơ chế hợp tác đào tạo giữa trường đại học và DN, tiếp nhận sinh viên từ các trường đại học công nghiệp để đào tạo thực hành tại DN sản xuất. -Tiếp thu chuyển giao công nghệ từ các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài; đầu tư xây dựng khu công nghệ cao, công nghệ ứng dụng để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài trên lĩnh vực điện tử, tin học, lắp ráp...; liên doanh liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để cung cấp linh kiện, sản phẩm phụ trợ. -Cần có sự hỗ trợ mạnh, hiệu quả của Nhà nước với sự phát triển của ngành CNPT qua việc xây dựng quy hoạch, cơ sở hạ tầng và các chính sách khác đối với DN đầu tư CNPT; đầu tư vốn phát triển CNPT... *Đối với vấn dề dân sinh và môi trường: Chính phủ cần tránh cấp giấy phép cho các dự án có công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường ,cần thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất và tránh việc lập các dự án quá lớn, chiếm dụng đất, cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất. Đăc biệt cần ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường và hệ thống đường bộ cao tốc bắc-nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam - Trung Quốc, hệ thống đường sắt cao tốc bắc - nam, đường sắt kết nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. FDI hay FII – Đầu tư nước ngoài trên thị trường tài chính Việt Nam 30/06/2009 in Kinh te - Tai chinh Trên góc độ một nhà ĐTNN, vấn đề có lẽ sẽ không phải là chọn cách đầu tư nào mà trên thực tế là phói hợp ra sao để FDI hay FII của mình cùng mang lại hiệu quả tối đa. Đứng trên góc độ một người làm kinh doanh hay quản lý trong nước sẽ cần cân nhắc với một cơ hội kinh doanh cụ thể, nếu như việc FDI tham gia không mang lại những nhân tố căn bản cho thành công dự kiến thì có nhất thiết phải dành cho FDI hay nên để cho một doanh nghiệp trong nước khai thác, khi cần sẽ kêu gọi FII… FDI hay FII – câu hỏi nguyên lý? FDI (foreign direct investment) và FII (foreign Indirect Investment) là hại dạng thức mà chúng ta vẫn sử dụng để phân biệt các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam. Việc phân biệt cho phép ta so sánh và đong đếm những lợi và hại của hai dạng thức vốn này. Nhìn chung ở Việt Nam, Trung Quốc hay Ấn Độ, những quốc gia thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài, FDI vẫn có ý nghĩa quan trọng và được chăm sóc nhiều hơn FII. Nếu như với FDI, câu chuyện thường xoay quanh thu hút thế nào cho nhiều thì với FII, câu chuyện lại là quản lý thế nào cho tốt. Liệu khác biệt trong quan niệm này có căn cứ và có phải khi nào FDI cũng tốt hơn FII không, có khi nào nên nghĩ đến chuyện hợp nhất hai loại vốn này? Về nguyên lý, FDI như ông già Noel đi vào mang theo những túi quà lóng lánh. Những túi quà này điểm qua thì có đầu tư tài chính; khả năng tiếp cận công nghệ mới, tiên tiến; khai phá và kích thích xuất khẩu,… Những món quà vô giá với những cậu bé – những doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam vốn chỉ quen chơi những trò chơi nhỏ, manh mún. Chúng ta phần nào “ưa” FDI bởi tác động – ích lợi của nó rất hiện hữu, sờ – nắm – đo đếm – bình phẩm được. Đó là những nhà máy mới, to lớn hiện đại chưa từng thấy, những mạng lưới công nghệ thông tin cao cấp, những khu thương mại khổng lồ, sáng long lanh và lộng lẫy, những người lao động chất lượng cao nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ quốc tế,… – về góc độ xã hội là khả năng tạo việc làm lớn. Những ưu điểm này vượt trội nếu so với FII. Chưa hết, tác động của FDI không dừng lại ở một nhà máy hay một hệ thống, mỗi đơn vị đầu tư này lại có vai trò nhưng một hệ số nhân tác động – tức là sự xuất hiện của nó kéo theo một loạt các hiệu ứng phát triển quy mô vùng. Cùng với những dự án FDI được triển khai sẽ có hàng loạt các dự án lớn nhỏ ăn theo và một hệ thống các dịch vụ phụ trợ. Nhà máy Intel Việt Nam đi vào hoạt động chắc chắn sẽ làm cho cả một khu dân cư xung quanh thay đổi, kèm theo là một loạt các dịch vụ ăn uống, giải trí, vận chuyển,… – một hệ số nhân thực sự. Câu hỏi là FDI có phải luôn tốt như vậy? Rất nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước thực sự băn khoăn về câu hỏi này. Xã hội Mỹ tăng trưởng không phải chỉ nhờ có những Microsoft, Intel, Apple, Goldman Sachs,… mà phần rất lớn động lực tuôn trào từ những người đang từng ngày nỗ lực để trở thành những Bill Gates mới và Steve Jobs mới. Giáo sư Nancy Napier, nhà nghiên cứu hàng đầu về chiến lược tại ĐH Boise State, trong một lần trao đổi với chúng tôi đã chia sẻ mối lo lắng của những người làm chiến lược về sức sáng tạo và năng động trong các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ đang ngày càng giảm, làm cho nước Mỹ ngày càng già và kém vận động. Sức sáng tạo, tính năng động đó chính là những người khởi nghiệp. Nó quan trọng đến nỗi Jack Welch huyền thoại của GE từng tuyên bố muốn chẻ nhỏ, tái cơ cấu tập đoàn này để có thể tiến lên với tinh thần của một doanh nghiệp nhỏ. Những doanh nghiệp nhỏ – những doanh nghiệp khởi sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sức tăng trưởng và khả năng đổi máu của toàn nền kinh tế. Bằng chứng với những người chủ khởi nghiệp đầu tiên của Trung Nguyên hay FPT có lẽ cũng đủ – họ định nghĩa lại sức mạnh của Việt Nam. Thế thì FDI, nguồn vốn luôn được ta tôn sùng có một hạn chế: sự xuất hiện của nó giống như sự xuất hiện của những doanh nghiệp lớn đã trực tiếp cạnh tranh những khoảng đất màu mỡ có thể nuôi mầm những tinh thần khởi nghiệp. Phía nào yếu thế hơn, câu trả lời dành cho độc giả. Nhà máy ViBird của tập đoàn Nguyễn Hoàng – người chủ sau 8 năm vẫn tự cho rằng “Tôi đang khởi nghiệp” – sẽ ra sao nếu Dell đầu tư xây dựng nhà máy lắp ráp máy tính ở Việt Nam. Chỉ là câu hỏi “nếu như” nhưng cũng có thể khiến NHG Group rùng mình. Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng – miễn là bắt được chuột Quay trở lại, mối đe dọa của FDI có thể làm triệt tiêu đi các nguồn lực tự thân ở quốc gia sở tại đã được cụ thể hóa thành các yêu cầu như đảm bảo hàm lượng “chất xám nội” trong những nhà máy FDI, những cam kết xuất khẩu và chuyển giao công nghệ cùng hàng loạt các quy định về giao dịch ngoại hối cùng các quy định có tính cưỡng bức khác. Nguồn vốn ngoại nếu ở dạng FII lại là nguồn dinh dưỡng rất lớn nuôi dưỡng tinh thần khởi nghiệp trong nước, đưa những doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận đến nguồn vốn dồi dào kèm theo các điều kiện nâng chuẩn công bố thông tin, yêu cầu minh bạch hóa và hàng loạt các chuẩn mực quốc tế khác. Có thể khó khăn, nhưng cơ bản là cần thiết. Rõ ràng ngoài việc đưa vốn đến, những lợi ích không trực tiếp của những nguồn vốn không trực tiếp này là đưa dần chuẩn mực kinh doanh trong nước tiếp cận với các chuẩn mực hành vi quốc tế về giao dịch, quản trị rủi ro, quản trị chiến lược, các công cụ mới,… Thực tế với thị trường tài chính và thị trường chứng khoán cho thấy sự tham gia của các tổ chức và quỹ đầu tư quốc tế đã đẩy tính thanh khoản, chiều sâu thị trường, tính hiệu quả cùng các yêu cầu chuẩn mực lên rất cao và rất nhanh chỉ trong một thời gian rất ngắn. Giai đoạn 2006-2007 có bước tiền dài bằng cả 5-6 năm vận hành trước đó của thị trường tài chính – thị trường chứng khoán Việt Nam. Quá trình này ngược lại giúp tăng cường hiệu quả hoạt động phân bổ vốn quốc tế và trong nước. Có lý do cụ thể để giải thích vì sao nhiều quốc gia không thực sự thích FII. Nếu như FDI là những khoản đầu tư có đặc tính ổn định, giống như đã có gạch và vữa để xây lên bức tường và việc phá đi cũng không giúp người bỏ tiền xây thu lại được nhiều; thì, FII khác ở chỗ họ đặt một bức tường và khi cần thì nhấc cả bức tường đi. Thảm họa tài chính cuối những năm 1990 với các nước Châu Á luôn là nỗi ám ảnh vô cùng lớn, Việt Nam không là ngoại lệ. Việt Nam và Trung Quốc đều đang có những đặc điểm kinh tế – tài chính – xã hội rất giống với các nước Châu Á kia trước khủng hoảng. Rủi ro lớn nhất của FII là khi các danh mục đầu tư được vẽ ra rất đẹp với điểm nhấn là các tài sản trong nước chợt bị gấp lại, bán hết và rút đi trong chớp nhoáng. Tuy nhiên, rủi ro luôn là rủi ro, đối mặt và có các biện pháp phòng vệ sẽ tốt hơn là bỏ đi và chọn cách khác. Trong điều kiện kinh tế – tài chính khu vực và thế giới hiện nay, sau bài học 1997 thì mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam đều cố gắng xây dựng nhũng khung chính sách rất nhạy cảm và linh hoạt điều chỉnh theo các biến động của kinh tế thế giới. Việc hợp tác cùng giải quyết là giải pháp mà các quốc gia đều thống nhất. Bên cạnh đó, luôn tồn tại những lượng vốn rất lớn trong thị trường vốn toàn cầu đi tìm những khu vực thị trường có thể hứa hẹn tăng trưởng đầu tư tốt. Rủi ro vẫn là rủi ro nhưng rủi ro ở mức độ nào và khả năng đe dọa ra sao cấn sẽ cần được tính toán cụ thể. Một đặc điểm khác giúp ta phân biệt tốt FDI và FII là tính chấp nhận rủi ro. Việt Nam hay bất kỳ nền kinh tế mới nổi nào cũng đều có chung đặc điểm rủi ro cao và hiện diện trong mọi lĩnh vực. Ở một khía cạnh nào đó, có thể thấy FDI sẽ chỉ được rót vào nếu các cơ hội làm kinh doanh và mang lại lợi nhuận là rất cụ thể, có thể tính toán và dự báo với độ chính xác cao. Điều này dễ hiểu vì nếu mất, nhà đầu tư FDI mất rất nhiều. Ngược lại, FII dám theo đuổi những cơ hội đầu tư nhiều rủi ro nhưng với lợi suất kỳ vọng cũng lớn không kém. Trên góc độ một nhà đầu tư nước ngoài, vấn đề có lẽ sẽ không phải là chọn cách đầu tư nào mà trên thực tế là phối hợp ra sao để FDI hay FII của mình cùng mang lại hiệu quả tối đa. Đứng trên góc độ một người làm kinh doanh hay người làm quản lý trong nước sẽ cần cân nhắc với một cơ hội kinh doanh cụ thể, nếu như việc FDI tham gia không mang lại những nhân tố căn bản cho thành công dự kiến thì có nhất thiết phải dành cho FDI hay nên để cho một doanh nghiệp trong nước khai thác, khi cần sẽ kêu gọi FII. Nhìn chung, khó có thể nói FDI hay FII tốt hơn hay thậm chí có nhất thiết phải phân FDI và FII trong một số trường hợp. Mỗi hình thức đầu tư có những lợi thế và hạn chế. Ở góc độ quản trị và điều hành vốn, không chỉ các doanh nghiệp FDI mà các nhà đầu tư FII cũng có những giải pháp tăng cường quản trị, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ kinh doanh để tối đa hóa giá trị cho khoản đầu tư của mình. Việt Nam – FDI vẫn rất được quan tâm Tăng trưởng FDI 1988 – 2006 (Nguồn: Vietpartners) Biểu đồ tăng trưởng FDI trong nước cho thấy sau giai đoạn 1988-2004, những năm 2005, 2006 có tăng trưởng đột biến về FDI. FDI năm 2006 đã vượt rất nhanh, cao hơn đỉnh 1996 và cao nhất trong 19 năm gần nhất. Dự kiến cuối năm 2007, FDI có thể đạt đến 12 tỉ USD. Những con số cho thấy tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ. Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, năm 2007, GDP ước đạt 8,5% (kế hoạch 8,2-8,5%), phấn đấu năm 2008 đạt 8,5-9%; kim ngạch xuất khẩu tăng 20,5% (kế hoạch 17,4%); kim ngạch nhập khẩu 27% (kế hoạch 15,5%); Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt 40,6% (kế hoạch 40%), tổng thu ngân sách 287.000 tỷ đồng, tổng chi ngân sách 368.000 tỷ đồng. Theo Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư, trong 9 tháng đầu năm, các DN FDI đã đạt tổng doanh thu 25,8 tỉ USD, trong đó xuất khẩu tới hơn 14 tỉ USD, tăng gần 32% so với cùng kỳ. Những dự báo này cho thấy sức tăng trưởng mạnh nhất trong 10 năm trở lại đây (theo lời Thủ Tướng. Cơ sở này là điểm cân nhắc cho nhà đầu tư nước ngoài hiện tại và tiềm năng ra quyết định đổ thêm vốn vào Việt Nam, cả FDI lẫn FII. Nguồn: www.saga.vn Trong giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/2007, đã có 8.058 dự án FDI được triển khai ở Việt Nam. Lượng vốn đầu tư trong gần 20 năm đạt đến con số 72,86 tỉ USD nhưng cho đến thời điểm 9/2007 mới chỉ thực hiện được khoảng 42,5% – một hiệu suất không hề cao. Nếu bổ ra theo các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì càng thấy rõ. Bảng trên cho thấy có rất ít vốn đổ vào ngành nông nghiệp, nhiều nhất và vượt trội là vốn đầu tư vào ngành công nghiệp. Lượng vốn đầu tư vào mảng dịch vụ chỉ bằng một nửa. Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam – góc nhìn từ thị trường tài chính Nguồn: www.saga.vn Trong biểu đồ tình hình sử dụng vốn của ngành dịch vụ, ta thấy rất rõ hiệu suất sử dụng thấp thể hiện qua các cột xanh rất thấp so với các cột da cam. Có một điểm tương phản: lĩnh vực tài chính-ngân hàng tuy có lượng vốn đầu thấp nhưng hiệu suất thực hiện rất cao, đạt xấp xỉ 91% – trái ngược với hầu hết các lĩnh vực khác của ngành dịch vụ và cả nền kinh tế. Tuy nhiên lượng FDI đổ vào hoạt động tài chính – ngân hàng chỉ khoảng 840 triệu USD. Trong khi chỉ riêng lượng vốn của các quỹ đầu tư đang hoạt động ở Việt Nam đã đạt mức xấp xỉ 6 tỉ USD. Rõ ràng hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng là một câu chuyện khác, cần kể riêng. Những ngân hàng ngoại thấu hiểu người nội Giấy phép chi nhánh của HSBC ở Tp. Hồ Chí Minh ghi ngày 22/03/1995, vốn điều lệ là 15 triệu USD nhưng rất nhiều người trong chúng ta đều biết câu chuyện họ đã có mặt ở Việt Nam từ năm 1870. Hoạt động đầu tư trực tiếp tồn tại từ rất sớm. ANZ tuyên ngôn là một trong những ngân hàng nước ngoài đầu tiên hoạt động tại Việt Nam với hơn 15 năm vận hành. Ngân hàng này còn nhanh tay thiết lập một hệ thống 24 điểm đặt máy ATM và hiện đang được rất nhiều người có thu nhập cao, người có người thân đi học, công tác và cư trú ở nước ngoài sử dụng. Bên cạnh ANZ và HSBC, những ngân hàng Nhật cũng có mặt tại Việt Nam từ rất sớm. Những tên tuổi như Mitsubishi Tokyo, Sumitomo-Mitsui, Mizuho,… đều nổi tiếng ở Nhật và thế giới. Họ cũng có mặt ở Việt Nam từ những năm 1990. Hiểu rồi thì mua … Cùng với nguồn vốn và trợ lực từ HSBC, Techcombank trở thành một trong những ngân hàng tư nhân phát triển nhanh và mạnh nhất ở khu vực miền bắc, đang ráo riết mở rộng phạm vi của mình ở khu vực phía Nam. Chỉ trong vòng 3 năm 2005, 2006, 2007, Techcombank liên tục nhận những giải thưởng danh giá từ Wachovia, Bank of Newyorks, CitiBank,… nhận giải thưởng thương hiệu mạnh và là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam nằm trong danh sách xếp hạng tín nhiệm ngân hàng của Moody’s. Một sức sống hoàn toàn mới và bản thân HSBC cũng thể hiện sự “phấn khích” khi tháng 10 vừa rồi quyết định mua thêm 5% cổ phần Techcombank với giá cao gần gấp 2 lần mức giá họ mua 10% của Techcombank hai năm trước. Họ đang chứng tỏ những mối quan hệ bền chặt và rõ ràng FDI hay FII không còn nhiều ý nghĩa, thành công mới là câu chuyện để mừng. ANZ cũng khẳng định mình biết làm đầu tư. Khoản đầu tư 27 triệu USD vào Sacombank cách đây hơn 2 năm bây giờ đã có giá trị thị trường trên 3 nghìn tỉ, lãi 2,6 nghìn tỉ, một thương vụ đầu tư cực kỳ thành công. STB hiện nay đang là một trong những cổ phiếu được ưa thích nhất trên sàn giao dịch TP. HCM. Nó được ưa thích không chỉ nhờ tính thanh khoản cao mà còn nhờ hiệu quả vận hành rất tốt của Sacombank, thương hiệu được ghi nhận và được tín nhiệm, đặc biệt của người dân phía Nam. Sàn HoSE chỉ có hai cổ phiếu nhóm tài chính – ngân hàng, cả hai đều là những tên tuổi hàng đầu, ngoài STB vừa nhắc đến còn có SSI. SSI cũng lại là một đối tượng đầu tư của ANZ. Với 88 triệu USD để mua 10% SSI, sau hơn 3 tháng, giá trị tính theo giá thị trường là 130 triệu USD, lãi 50% sau 3 tháng. Chỉ FII mới có thể làm lên những khoản lãi khổng lồ trong khoảng thời gian rất ngắn. Tuy nhiên việc so sánh FDI và FII không nên chỉ nhắm vào số lãi trên thời gian. Hãy nhìn vào cách làm của ANZ, ngoài việc thực hiện đầu tư vào SSI, ANZ còn tham gia hỗ trợ với các tiêu chí về kĩ thuật và quản trị kinh doanh. Những thành công vượt bậc của SSI trong khoảng thời gian ngắn gần đây không thể không có phần đóng góp của ANZ và Daiwa Securities. FII đang thực sự minh chứng hiệu quả của mình. Câu chuyện đương nhiên sẽ không dừng lại, ngoài ANZ và HSBC còn có Standard Charter, Deustch Bank hay Paribas. Tiếp theo các ngân hàng là thế lực vô cùng hùng hậu và có sức mạnh còn vượt trội hơn nữa của các quỹ đầu tư quốc tế, các ngân hàng đầu tư hàng đầu như Morgan Stanley hay G.Sachs. Mới đây trong một cuộc trao đổi với các đối tác từ Mỹ, chúng tôi được biết có đến 200 quỹ đầu tư của họ đang chờ tín hiệu tốt để cùng tham gia vào thị trường Việt Nam. FII có thể tăng chóng mặt, vốn sẽ bỗng chốc chảy ào ạt. Nhưng cũng đồng nghĩa với rủi ro đang đạt đến mức cần báo động và phải có biện pháp phòng vệ. Tương lai là gì Ai cũng muốn nhìn vào tương lai tốt đẹp. Mặt tốt đẹp của những điều chúng ta trao đổi là lượng vốn khổng lồ chảy vào sẽ kích thích nền kinh tế vọt lên nhanh chóng. Xu thế kết hợp cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp sẽ được nhiều nhà đầu tư nước ngoài áp dụng. Đầu tư trực tiếp để chủ động tìm hiểu, nắm bắt thị trường, còn đầu tư gián tiếp để mở rộng hoạt động, đa dạng kinh doanh, danh mục đầu tư. Đầu tư trực tiếp sẽ có ý nghĩa mở đường cho đầu tư gián tiếp. HSCB đưa ra các khuyến cáo định hướng cho khách hàng của mình đầu tư vào Việt Nam. Khi đó, họ vừa làm dịch vụ cho chính họ, đồng thời khuyến khích hoạt động đầu tư gián tiếp khác vào Việt Nam. Hội nhập WTO và hấp dẫn của thị trường 80 triệu dân đang tăng trưởng mở đường cho sự xuất hiện ngày một đông đảo hơn đội ngũ các ngân hàng và định chế tài chính quốc tế tại Việt Nam dưới hình thức FDI. Tuy nhiên với tốc độ tăng quá nhanh của số lượng các tổ chức tài chính như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty tài chính, ngân hàng… thì xu thế thâu tóm và mua lại đối tác Việt Nam của các tổ chức tài chính nước ngoài dường như được báo trước sẽ đến thời điểm rất thuận lợi và khi diễn ra sẽ rất ào ạt.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất