Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay...

Tài liệu Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay

.PDF
26
478
104

Mô tả:

Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ .............. TIỂU LUẬN MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Đề tài: Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tình hình thế giới tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó lường về ngoại giao giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế hàng đầu của mỗi quốc gia, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Sau khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh, có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, môi trường hoà bình. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong tiến hành công cuộc Đổi mới với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy,… Những nỗ lực của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hợp tác quốc tế, độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc… Chính vì những lý do trên nhóm chúng em chọn đề tài nghiên cứu: “Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay”. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục đích Thông qua quá trình xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính sách đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội 2 và xu thế thời đại để hội nhập với cộng đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. 2.2. Nhiệm vụ  Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi mới.  Trình bày các giai đoạn phát triển của đường lối đối ngoại đổi mới, cái mới, cái sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đổi mới.  Thông qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ trương “độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá” quan hệ quốc tế là quyết sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từ đó bước đầu nêu lên những kinh nghiệm thực hiện chính sách đối ngoại. 3. Phương pháp nghiên cứu Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật những thắng lợi trong đường lối chính sách đối ngoại của Đảng gần 20 năm qua. 4. Phạm vi nghiên cứu Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng khoá luận đề cập tới những vấn đề sau.Thời gian và không gian đề cập là từ năm (1986 – đến nay) ở Việt Nam. Đây là thời kỳ Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại. 3 NỘI DUNG 1. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI. 1.1. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 1.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính sách đối ngoại Giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới, tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu. Chủ động và 4 tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, châu Á – Thái Bình Dương… Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến thương mại đầu tư, phát triển thị trường, sản phẩm và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân; chính trị và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin trong và ngoài nước. 1.1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam luôn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, gian khổ. Qua những thăng trầm ấy, ngoại giao Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, vừa mang đậm bản sắc dân tộc, vừa kết tinh những tinh hoa của nhân loại để tạo nên một bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam. Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ ý chí đấu tranh kiên cường cho độc lập, tự do của dân tộc với nhiều tấm gương điển hình như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi… và nhiều bài học sâu sắc và bổ ích về quan hệ với lân bang, ứng xử trong đối ngoại… Đó còn là lòng mong muốn hòa bình, hòa hiếu, thủy chung, xuất phát từ bản chất nhân văn sâu sắc và truyền thống yêu chuộng hòa bình vốn có của người Việt… Lịch sử đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã mang lại cho ngoại giao Việt Nam 5 tính chiến đấu cao, bản chất hòa bình, hòa hiếu, nhân nghĩa, thủy chung, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Tư tưởng đối ngoại và phong cách ngoại giao của Người là sự kết tinh truyền thống của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, trong đó ngoại giao nhân dân là một “binh chủng” đa kênh và đa năng quan trọng, cùng với ngoại giao Đảng và Nhà nước hợp thành nền ngoại giao tổng hợp của quốc gia Trong lịch sử quan hệ quốc tế, các nước tiến hành các hoạt động ngoại giao dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng quy tụ lại thành hai loại chính là ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Ngoại giao nhà nước là mối quan hệ giữa chính phủ với chính phủ của các nước có chủ quyền, giữa các nhà lãnh đạo của các nước. Các quan chức làm việc trong các đại sứ quán hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của một nước ở nước ngoài là những người đại diện cho chính phủ ở nước sở tại. Ngoại giao nhân dân là một hình thức hoạt động quan hệ đối ngoại do các tổ chức, các đoàn thể, hoặc cá nhân thuộc nhiều lĩnh vực tiến hành, không mang tính chất chính thức của Chính phủ. Hoạt động của ngoại giao nhân dân là phát huy “sức mạnh mềm” của một nước, hỗ trợ cho ngoại giao nhà nước để thực hiện chính sách đối ngoại mà chính phủ nước đó đề ra. Ngoại giao nhân dân là lực lượng quan trọng của mặt trận ngoại giao và ưu thế của ngoại giao nhân dân là có thể đi đầu, có thể đi trước tại những nước, những khu vực và về một số vấn đề mà ngoại giao chính thức của nhà nước chưa có điều kiện triển khai. Hồ Chí Minh chủ trương đối ngoại rộng mở, mở rộng lực lượng theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tránh đối đầu “không gây thù oán với một ai”, tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể nhằm tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều tầng, nhiều nấc. Người từng nói: “Đường lối tấn công vào lòng người, chinh phục bằng đạo lý, chuyển hóa bằng nhân tình, thuyết phục lòng người để nhân lên sức mạnh của chính nghĩa”. Như vậy, với Hồ Chí Minh, ngoại giao không chỉ là sự nghiệp của toàn dân, mà còn phải lôi kéo, thuyết phục bằng chính nghĩa để nhân dân và bạn bè thế giới ủng hộ, giúp đỡ mình. Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (1945) và vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dẫn dắt và rèn luyện. Ngoại giao Việt Nam hiện đại là sự kết hợp tài tình giữa ngoại giao truyền thống Việt Nam với những tư 6 tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh được vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ thể. Trải qua những giai đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời bình, ngoại giao Việt Nam hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha ông, góp phần không nhỏ vào bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh. 1.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới 1.2.1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước Năm 1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, tổ quốc hòa bình, thống nhất cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Chiến tranh vừa kết thúc thì nước ta phải tập trung vào công cuộc khắc phục hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh, thì lại xảy ra hai cuộc chiến là chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, và cuộc chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này đã làm suy giảm tiềm lực của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng lần V (3-1982) nhận định “Nước ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Mặt khác do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế xã hội. 1.2.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoãn của các nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mạnh. Tuy nhiên, đến giữa thập kỉ 70, tình hình kinh tế – xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện những mâu thuẫn bất đồng, Đông Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới. Sau năm 1975, Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự SEATO tan rã; ngày 7 24/02/1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp ước Bali), mở ra cục diện hòa bình hợp tác trong khu vực. 2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI 2.1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới. 2.1.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng: Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982)xác định: Công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đăc biệt Việt NamLào-Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại; nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình và ổn định; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương 8 thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Thực tế cho thấy ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (19751986) là xây dựng quan hệ hợp tác.Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Qũy tiền tệ quốc tế (IFM); ngày 21-9-1976, tiếp ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB); ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-177, tiếp nhận ghế thành viên Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong trào không liên kết… Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Những kết quả đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước hệ thống chủ nghĩa đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh; việc trở thành thành viên chính thức của Qũy tiền tệ quốc tế; Ngân hàng thế giới; Ngân hàng phát triển châu Á và thành viên chính thức của Liên hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước , các tổ chức quốc tế đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác. 2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân Nhìn tổng quát, từ năm 1975- 1986, quan hệ hợp tác của Việt Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cộ lập trong đó đặc biệt từ cuối thập kỷ 70 đến thế kỷ XX, lấy cớ “sự kiện campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam… Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chay đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mối quan hệ đối 9 ngoại phù hợp với tình hình. Nguyên nhân những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975 -1986) đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”. 2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995) 2.2.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991) Hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam được bắt đầu từ năm 1986. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng nhấn mạnh: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ hòa bình ở Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc…”. Hòa bình ở khu vực và thế giới có quan hệ gắn kết với nhau, thế giới có hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và ngược lại. Đổi mới toàn diện, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng đề ra chính sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại hội khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị”. Về quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác”. Đại hội VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “… Tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”… và “cần hoà bình để phát triển kinh tế”. Nghị quyết của Đại hội VI và các Nghị quyết của Trung ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập ASEAN của Việt Nam. Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu và những chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc này là hòa bình và phát triển. Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ. 10 Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đi vào hòa hoãn, hợp tác giải quyết các vấn đề khu vực, trong đó có vấn đề Campuchia. Đại hội VI đã khẳng định “chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác”. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) là mốc khởi đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị quyết khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội lớn để có thể giữ hòa bình và phát triển về kinh tế” và xác định “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10 năm trước tăng cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN. Ngược lại, chúng ta khẳng định không đối lập nhóm 3 nước Lào, Việt Nam, Campuchia, xã hội chủ nghĩa với nhóm ASEAN, tư bản chủ nghĩa. Nghị quyết nêu rõ chúng ta cần có chính sách toàn diện với Đông Nam Á, trước hết là tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt với Indonexia, phá vỡ bế tắc trong quan hệ với Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu vực, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt nghị quyết cũng nhắc lại lời cảnh báo của nghị quyết 32 khóa V về nguy cơ tụt hậu xa hơn “nếu chúng ta lại để lỡ những cơ hội lớn đó thì sẽ gặp những thách thức mới và sẽ bị thua kém về mọi mặt so với nhiều nước trên thế giới”. Ra sức tranh thủ sự đồng tình của thế giới, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; lợi dụng sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế. Thực hiện chủ trương trên, ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang thăm và ký Thông cáo chung Việt Nam – Indonexia tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29/07/1987, vừa khai thông quan hệ song phương, mở đường cho xu thế đối thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia. Việt Nam đã từng bước rút quân khỏi Campuchia từ 1984 - 1989. Như vậy vấn đề Campuchia đi dần vào giải pháp hòa bình. Trước những tiến triển mới đó, các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 họp tại Manila (Philipin) Tổng thống Philipin C.V.Akinô tuyên bố không coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin. 11 Tiếp đó tháng 2/1989, Bộ trưởng Ngoại giao Philipin tuyên bố: “Không chống lại việc Việt Nam gia nhập ASEAN”. Còn Thủ tướng Thái Lan Chatichai, khi lên cầm quyền tháng 8/1988, đã đưa ra chủ trương: “Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”. Chính sách trên của Thái Lan đã được thủ tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ (6/1989). Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI, Nhà nước ta cũng luôn khẳng định lập trường của Việt Nam là được chung sống hoà bình với các nước trong khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình, ổn định và phát triển. Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh: “Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực”. Tại Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”. Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN. Quan hệ Việt Nam – ASEAN đã được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên đó là Tổng thống Indonexia Xuhacto, nguyên thủ của một nước ASEAN đầu tiên, thăm hữu nghị chính thức Việt Nam tháng 10/1990. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng lần lượt thăm hữu nghị chính thức Indonexia, Vương quốc Thái Lan và Cộng Hòa Singapore từ ngày 24/10 đến ngày 01/11/1991. Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của Trung Quốc về vấn đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam để đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam - Đông Dương. Buôn bán hai chiều Việt Nam - ASEAN đã tăng từ 107 triệu đô la Mỹ năm 1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991. Chúng ta đã giải quyết được vấn đề Campuchia trên cơ sở giữ vững một số thành quả của cách mạng Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, khai thông quan hệ với các nước ASEAN tạo dựng tiền để để ta tham gia tổ chức này nhằm xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định, hợp tác để phát triển, từng bước cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ từ đó có điều kiện tăng cường quan hệ với Nhật Bản và các nước phương Tây khác. Những thành tựu đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới này sẽ tạo đà cho những thắng lợi lớn hơn thời kỳ tiếp theo. 12 2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995) Quan hệ Việt Nam - ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực, và việc Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết tháng 10/1991 đánh dấu chấm dứt của “thời kỳ Campuchia trong quan hệ Việt Nam - ASEAN , mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ hợp tác của cả hai bên”. Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên lợi ích lớn nhất của đất nước lúc này là duy trì hòa bình, ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất nước đi lên theo kịp với nhịp độ phát triển chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa…, trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc… Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Lãnh đạo ta và lãnh đạo các nước ASEAN liên tiếp tiến hành các chuyến viếng thăm lẫn nhau, góp phần gia tăng sự hiểu biết và tin cậy. Ta và các nước này đã ký hàng chục hiệp định cấp chính phủ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật. Các nước ASEAN trở thành bạn hàng quan trọng, chiếm khoảng 30% hàng xuất – nhập khẩu của ta, kim ngạch buôn bán hai chiều tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1991 lên 2,7 tỷ USD năm 1994. Các nước thành viên ASEAN cũng chiếm hơn 20% tổng số đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Giữa Việt Nam và các nước này cũng từng bước thương lượng giải quyết những vấn đề tồn tại. Chúng ta đã thỏa thuận với Malaysia cùng khai thác vùng chồng lấn và hồi hương người Việt di tản. Thái Lan tiếp tục giải quyết thuận lợi việc cho Việt kiều ngập quốc tịch, khai thông sự hợp tác về sông Mekong, lập quỹ khu vực, duy trì viện trợ linh hoạt hơn trong đàm phán về vùng chồng lấn, thỏa thuận về lập lại trật tự trên Vịnh Thái Lan. Chúng ta cũng kiên trì thúc đẩy đàm phán phán về thềm lục địa với Indonexia. Tháng 07/1992, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Bali, trở hành quan sát viên của ASEAN. Với tư cách là quan sát viên ASEAN, từ năm 1992 ,Việt Nam đã được mời tham dự các cuộc họp hàng năm Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN. Từ tháng 2/1993, Việt Nam 13 đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp”. Điều này đã được các nước ASEAN, dư luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại ,các nước ASEAN tuyên bố “ muốn Việt Nam sớm gia nhập ASEAN”. Tháng 10/1993, chúng ta tuyên bố chính sách 4 điểm định hướng quan hệ với ASEAN . Tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc 1994, các nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố sẵn sàng công nhận Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN. Ngày 28/07/1995, tại Banda Xeri Beegaoan (Vương quốc Bruney) lễ kết nạp Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thành thành viên thứ 7 của ASEAN đã được tổ chức trọng thể. Quốc Hội nước ta cũng gia nhập Liên minh Quốc hội ASEAN (AIPO).Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trên mặt trận đối ngoại, Việt Nam đã giữ vững được môi trường hòa bình, phá được thế bị bao vây cấm vận về kinh tế và cô lập về chính trị, đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc – nước láng giềng lớn và Hoa Kỳ – cường quốc số 1 thế giới, gia nhập ASEAN và đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nước ở khắp năm châu ( riêng từ 1991 – 1995 Việt Nam đã lập thêm quan hệ ngoại giao với 42 nước , nâng tổng số các nước có quan hệ ngoại giao với ta lên 160 nước ). Điều này cho thấy, vị trí, vai trò và uy tín của Việt Nam ngày một nâng cao ở khu vực và thế giới. 2.3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay) 2.3.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004) Tại đại hội lần thứ VIII (6-1996), Đảng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhiều mặt với nhiều nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với đại hội VII như:  Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác  Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. 14  Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương: “Thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (12-1997), đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Đại hội lần thứ IX (4-2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hế là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phài đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”. Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; “thế” và “lực” của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện. Tuy nhiên, chúng ta còn phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt”. Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Ngoài ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới. 15 Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới trong chính sách và hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực của đất nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt: “Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước; đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước, trung tâm chính trị – kinh tế lớn trên thế giới”. Chúng ta đã tạo được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với tất cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào không ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa hoàn toàn và nâng lên tầm cao mới theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông – Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đoàn kết, duy trì những nguyên tắc cơ bản, tăng cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của của hiệp hội ở khu vực và trên trường quốc tế. Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ; các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung – Đông Âu trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, chúng ta đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc. Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế – chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai nước thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác với Mỹ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật 16 Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công nghệ. Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)… Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-1-2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt cá điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát triển đất nước thông qua việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Đặc biệt là công tác nghiên cứu, tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư; tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước khác. Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt chẽ với các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời đóng góp bảo vệ hòa bình và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về nhận thức, Đảng khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã được ban hành, nhằm xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở nước ngoài và người Việt ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và tham gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại. 17 2.3.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – đến nay) Đại hội lần thứ X (6-2006), Đảng nêu quan điểm: thự hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời để ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối,chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng, phân tích lực chọn phương án hành động đúng, dự báo được tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoành chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải có ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; nhiều cơ hội song cũng đầy thách thức, vì vậy ta cần có kế hoạch và lộ trình thích hợp, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức quốc tế mà ta tham gia. Sau hơn 11 năm chuẩn bị và đàm phán, tháng 11-2006, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việc gia nhập tổ chức quốc tế này là một cột mốc hết sức quan trọng, mở ra nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế. Đó là ta được hưởng sự đối xử bình đẳng trong quan hệ thương mại với 150 thành viên WTO, những hàng rào thuế quan phi WTO mà ta phải chịu trước đây đều được bãi bỏ tạo điều kiện cho ta tăng khả năng xuất khẩu. Cơ hội để Việt Nam thu hút đầu tư của các nước cũng tăng lên. Hiện nay ta có quan hệ đầu tư với khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Một nét mới khác của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới là ngoại giao văn hóa được đẩy mạnh và nâng lên thành một trụ cột chính cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Năm 2009 được lấy làm năm Ngoại giao văn hóa. Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ban, ngành và nhiều địa phương triển khai nhiều hoạt động văn 18 hóa đối ngoại đa dạng, phong phú, mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều hoạt động văn hóa đối ngoại được tổ chức trong và ngoài nước, góp phần quảng bá rộng rãi hình ảnh một nước Việt Nam hòa bình, phát triển và thân thiện với cộng đồng quốc tế. UNESCO đã ra Nghị quyết kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, trao giải thưởng cho Hà Nội là “Thành phố vì hòa bình”. Nhiều di sản của đất nước, như quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Kho mộc bản triều Nguyễn… và nhiều thắng cảnh, như Cù Lao Chàm, Mũi Cà Mau v.v.. đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tháng 10-2009, Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2009 – 2013. Qua 25 năm thực hiện đổi mới trên mặt trận đối ngoại, ngoại giao phối hợp với các cơ quan liên quan khác đã đạt được những thành tựu to lớn, ghi đậm dấu ấn của trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh trên thế giới. Một là, hình ảnh và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế đã được cải thiện. Việt Nam không những là đất nước hòa bình hữu nghị mà còn là một nước đã ra khỏi đói nghèo và đang phát triển đầy ấn tượng. Chúng ta đã hoàn thành xuất sắc trọng trách ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và đang hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2010. Hai là, đã làm công tác ngoại giao kinh tế, là thành viên của ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, ngoại giao đã chủ động và tích cực tham gia công tác tham mưu về chính sách kinh tế đối ngoại, nhất là kinh nghiệm của các nước về chính sách thị trường, đối tác, kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, và luật chơi quốc tế. Đã tranh thủ được một số nước và các tổ chức quốc tế giúp ta công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại v.v.. Ba là, ngoại giao đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh biên giới lãnh thổ. Các hiệp định biên giới trên đất liền với Trung Quốc cũng như với Lào và Campuchia đã tạo cơ sở cho việc xây dựng một khu vực biên giới hòa bình và phát triển với các nước láng giềng. Bốn là, thế giới đã đánh giá cao những cố gắng của Việt Nam trong việc thúc đẩy và bảo về quyền con người ở Việt Nam. Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc đã chính thức thông qua Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện quyền con người ở Việt Nam và hoan nghênh các cố gắng của Việt Nam trong việc trao đổi, đối thoại cởi mở với nhiều nước về vấn đề này. Với chính sách “người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam” và với tinh thần hòa hợp dân tộc, Nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho 19 người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc. Ngoài ra, ta tiếp tục thảo luận với các nước ASEAN cũng như với các quốc gia đối tác để sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông có tính chất ràng buộc thay cho Tuyên bố về cách ứng xử (DOC) hiện nay. Trong chặng đường 65 năm qua, nhất là trong gần 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển của đất nước, những thành tựu đó của ngoại giao Việt Nam đã góp phần cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. 3. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Chủ trương, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới Cụ thể hóa chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện của Đại hội XI theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục là ưu tiên hàng đầu; tham gia hội nhập về an ninh – chính trị thông qua việc tham gia các diễn đàn và cơ chế an ninh – chính trị khu vực, quốc tế; phấn đấu trở thành thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong các sinh hoạt quốc tế vì hòa bình, hữu nghị. Tích cực xây dựng và củng cố ASEAN hướng tới xây dựng Cộng đồng vào năm 2015. Ở cấp độ toàn cầu, tiếp tục và nâng cao vai trò thành viên tích cực của Liên Hiệp Quốc, hoàn thiện đội ngũ cán bộ để đảm nhận vai trò Ủy viên không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ sau (phấn đấu 2020-2021). Đồng thời, cần phát huy vai trò ở các liên kết khu vực và quốc tế… Trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế cần chuyển từ “chiều rộng, gia nhập, ký kết” sang “chiều sâu, tham gia, thực hiện”, nhằm tạo dựng môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển kinh tế trong nước. Ngoại giao kinh tế cần làm tốt vai trò thúc đẩy việc hoàn tất cam kết gia nhập WTO và các Hiệp định tự do thương mại (FTA) đã ký; tham gia đàm phán các FTA mới với EU và các đối tác khác, Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đổi mới tư duy tiếp cận trong triển khai công tác hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển từ tư duy “phục vụ” nhu cầu hội nhập sang “triển khai” hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với ngoại giao đa phương, triển khai ngoại giao toàn diện, đưa quan hệ song phương với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và hiệu quả: Làm sâu sắc các mối quan hệ hiện có, thực hiện và mở rộng quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện trên cơ sở giữ vững độc lập 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan