Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại.
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực
lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên
phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích
tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về
kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị
của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của
nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự
thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và
nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất
thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay
cũng như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ
trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường
quốc tế. Hơn nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc,
ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần
thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng
với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị
trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học
công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và
tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao
giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất
nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng
theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” chúng
ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc
tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.Chúng em xin chọn đề tài: "Hội nhập
kinh tế quốc tế và những vấn đề đặt ra với Việt Nam". Đây là đề tài rất sâu rộng,
mang tính thời sự. Đã có rất nhiều nhà kinh tế đề cập đến vấn đề này. Bản thân
chúng em, những sinh viên năm thứ nhất, khi được giao viết đề tài này cũng cảm
thấy rất hứng thú và say mê. Tuy nhiên do sự hiểu biết còn hạn chế nên chúng
em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ suy nghĩ của mình. Bài viết còn có rất nhiều
sai sót,chúng em kính mong cô giúp đỡ chúng em hoàn thành bài viết tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
PHẦN NỘI DUNG
I.
Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế:
1.Khái niệm:
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc
gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách
có hiệu quả.
2.Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
2.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế:
Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực
cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó
nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung.
Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập:
Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước, cạnh
tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết,
dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển.
Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt.
2.2. Nội dung của hội nhập (chủ yếu là nội dung hội nhập WTO):
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau,
thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư:
- Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như
QUOTA, giấy phép xuất khẩu..., biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và
giảm dần theo lịch trình thoả thuận...
- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn
phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông
qua liên doanh, hiện diện.
- Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ
nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ,
khuyến khích tự do hoá đầu tư...
3. Tầm quan trọng của Hội nhập kinh tế quốc tế:
Bất cứ một quốc gia nào, khi đặt mục tiêu xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh và
mạnh thì quốc gia đó đồng thời phải xây dựng một hệ thống thanh toán hiện đại với
những tiêu chuẩn cao về mức độ an toàn, bảo mật, nhanh chóng chính xác… Để đáp
ứng được những tiêu chuẩn này, việc sử dụng một hệ thống thanh toán không dùng
tiền mặt là bước đầu tiên để tiến tới xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử giữa
ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân, Chính phủ cũng như các thành phần kinh tế khác”.
Hội nhập là tất yếu bạn àh, vì trong xu hướng phát triển rất nhanh của thế giới nếu ko
hội nhập ta sẽ bị tụt hậu và kém phát triển hơn các nước khác. Hội nhập là xu hướng
chung của toàn cầu.
Một là, sự phân công lao động quốc tế và hợp tác quốc tế giữa các quốc gia, các
khu vực ngày càng phát triển cả bề rộng và bề sâu, bao quát nhiều lĩnh vực với tốc độ
nhanh. Ngày nay, rất nhiều sản phẩm quan trọng dù được đăng ký ở một nước nhưng
có hàng trăm công ty của hàng chục nước cùng tham gia chế tạo ra chúng. Thí dụ, sản
xuất máy bay Boing có tới 650 công ty trên thế giới đặt ở 30 nước tham gia.
Hai là, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước ngày càng tăng. Chính
sự chuyên môn hóa, hiệp tác Bất cứ một quốc gia nào, khi đặt mục tiêu xây dựng nền
kinh tế phát triển nhanh và mạnh thì quốc gia đó đồng thời phải xây dựng một hệ
thống thanh toán hiện đại với những tiêu chuẩn cao về mức độ an toàn, bảo mật,
nhanh chóng chính xác… Để đáp ứng được những tiêu chuẩn này, việc sử dụng một
hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt là bước đầu tiên để tiến tới xây dựng một hệ
thống thanh toán điện tử giữa ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân, Chính phủ cũng như
các thành phần kinh tế khác”.
Ba là, hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất quốc tế và giá cả quốc tế. Ngày nay,
khi xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất như đường giao thông, sân bay, bến cảng, kho
bãi, hệ thống thông tin liên lạc và cả các lĩnh vực khác như dịch vụ, khách sạn... các
quốc gia đều dựa theo tiêu chuẩn quốc tế. Hệ quả của nó là tạo ra điều kiện thuận lợi
hơn cho mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế
còn biểu hiện ở sự hình thành giá cả quốc tế. Ngày nay, các sản phẩm phổ biến (như
xăng dầu, gạo, sắt thép, cà phê...) đều có giá cả quốc tế. Sự xuất hiện giá cả quốc tế lại
giúp cho các quốc gia tìm ra lợi thế của mình, tập trung sản xuất những sản phẩm có
thế mạnh để xuất khẩu và mua những sản phẩm mà chưa sản xuất được hoặc chất
lượng chưa cao, giá cả lại đắt. Chính vì vậy, trong những thập niên gần đây, thương
mại quốc tế phát triển rất mạnh mẽ và có những xu hướng mới.
Tóm lại, thời đại ngày nay toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, là xu thế khách
quan và không một quốc gia nào có thể đứng ngoài dòng xoáy của nó. Toàn cầu hóa
kinh tế vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức cho mỗi quốc gia. Vì vậy, mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trở thành tất yếu khách quan và là một trong các
nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta và được nhấn mạnh nhiều lần
trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế
đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực
và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
II.Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế:
1.Mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước quốc tế:
Cho đến nay, nước ta đã đặt quan hệ ngoại giao và buôn bán với tất cả các nước
trong khu vực.
Quan hệ láng giềng thân thiện Nam, Lào và Campuchia đã hình thành trong quá
trình lịch sử lâu dài, được phát triển trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của
mỗi nước và trong công cuộc xây dựng nền kinh tế bị tàn pha nặng nề trong chiến
tranh. Việc kí kết các Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Lào
(năm 1977), giữa Việt Nam và Campuchia (năm 1979) là sự thể hiện sáng ngời các
mối quan hệ thân thiện giữa ba nước này.
Quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á bị gián đoạn trong suốt thời
gian có cuộc chiến tranh Đông Dương và do chính sách can thiệp của các nước lớn
vào việc giải quyết các vấn đề của khu vực. Hiện nay, quan hệ giữa Việt Nam với các
nước Đông Nam Á đang được cải thiện, nhằm xây dựng một khu vực Đông Nam Á
hoà bình, ổn định và phát triển.
Quan hệ thương mại giữa nước ta và các nước Đông Nam Á được tăng cường
và đa dạng hơn kể từ năm 1986, khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới về kinh tế,
chính trị, đối ngoại.Việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước Đông Nam Á gắn liền
với việc nước ta thực hiện đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi
quốc gia trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
Hiện nay Việt Nam đã đạt quan hệ ngoại giao với 172 quốc gia thuộc tất cả các
châu lục.Đồng thời Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh
thổ.
2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam:
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là 1
trong những vẫn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa với thế
giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu. Trái
lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu
tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những tiến bộ trên lĩnh vực
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông và tin học, thì giữa các
quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xu
hướng toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế
giới.
Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày càng gia
tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá trị trao đổi buôn bán trên thị
trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công
nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ.
Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng gấp
3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức kinh tế
quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các
nước phát triển mạnh hơn nữa.
Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có những lợi thế về
lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu
kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập.
Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn
phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc
với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. Nhưng không
vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận thức
được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một bộ phận
của cộng đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội nhập Việt Nam
mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra những thuận lợi phát
triển kinh tế.
Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1991
đã đề ra đường lối chiến lược: “Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết
TW4 đã đề ra nhiệm vụ: “giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa
nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập với khu vực và thế
giới”.
3. Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế:
3.1 Lợi thế cơ bản của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế:
- Vị trí địa lý thuận lợi
Bản chất kinh tế của vị trí địa lý là địa tô chênh lệch. Vị trí địa lý thuận lợi
sẽ cho phép thu được địa tô chênh lệch cao và ngược lại, vị trí địa lý không thuận
lợi chỉ đem lại địa tô chênh lệch thấp. Vị trí địa lý thuận lợi là lợi thế “ so sánh “ – là
một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế.
Nước ta có một lợi thế đó là Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa
Đông Nam á, là nơi gặp gỡ của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn
bao quanh tạo nên tự nhiên Việt Nam phong phú và đa dạng. Điều này có tác
động sâu sắc đến cơ câu, quy mô và hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, trở thành một đầu mối
giao thông quan trọng từ ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương. Vị trí này cho phép
nước ta có thể dễ dàng phát triển các kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kĩ thuật
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động
nhất thế giới. Điều này tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam nâng cao năng lực
cạnh tranh, chủ động phát triển kinh tế. Việt Nam có điều kiện giao lưu với những
thị trường sôi động, học hỏi được những kinh nghiệm quý báu của các “ con rồng
Châu á”.
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng:
Việt Nam có nhiều loại tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều loại có giá
trị kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hoặc khai thác ở mức độ thấp, sử dụng
chưa hợp lý. Đây là nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời là đối tượng
đầu tư của Tư Bản nước ngoài.
Tài nguyên nhân văn phong phú: bao gồm lực lượng lao động dồi dào và
những hệ thống giá trị do con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử của dân
tộc. Đây là đối tượng đầu tư phát triển rất quan trọng của Tư Bản nước ngoài
Những lợi thế trên đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiến vào
thế giới.
3.2. Nhiệm vụ cần phải thực hiện khi tham gia hội nhập:
Trong nghị quyết, bộ Chính Trị đã nêu 9 nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế:
-Tuyên truyền, giải thích rộng rãi để đạt được nhận thức và hành động thong nhất
trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ,doanh nghiệp và nhân dân.
-Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể.
-Chủ động và khẩn trương sử dụng cơ cấu kinh tế.
-Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nên kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
-Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, có đạo đức trong
sáng, tinh thông nghiệp vụ.
-Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại.
-Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố quốc phòng
an ninh.
-Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới
-Kiện toàn uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
4.Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế:
4.1 Cơ hội:
Tham gia hội nhập kinh tế sẽ đem lại cho Việt Nam các cơ hôi như:
Một là, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và
các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã
hội.Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành
viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân
biệt đối xử.
Ha là, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu
hút đầu tư vào nền kinh tế. Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên
khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh
nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo
vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Ba là, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học
công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các
nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao
công nghệ từ các nước tiên tiến.
Tư là, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị
trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Năm là, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được
tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và tìm
kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Sáu là, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt
hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển
phù hợp cho đất nước và không bị lề hóa.
Bảy là, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh
của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Tám là, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây
dựng một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.
Chín là, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp
trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng duy
trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.
Mười là, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các
nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và
nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và
thế giới.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vự và thê giới sẽ tạo điều kiện cho Việt
Nam phát triển một cách nhanh chóng.Những cơ hội mà hội nhập đem lại nếu được
tận dụng một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế nước nhà sớm sánh vai cùng
các cường quốc năm châu.
4.2 Thách thức:
Những lợi ích của hội nhập kinh tế đã rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt
thuận lợi ấy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra 6 thách thức to lớn.
Một là, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh
nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu
hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Điều đó gây sức
ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự
trợ giúp của Nhà nước, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu
kém mà tình trạng này lại khá phổ biến ở doanh nghiệp nước ta.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu
tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụtiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả
những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng
đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả
năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an
sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được môi
trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn
sẻ, với chi phí thấp.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho
việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để
hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng
ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh
doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế.
Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi
trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hộp nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế
trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên.
Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh
nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành
chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo hội nhập là minh bạch hóa
nên khi hội nhập, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo
hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì
quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân,
lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu
hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như
vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế đem lại mà
cũng không chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực.
Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về chủ
trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ
mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của
ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố
nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành
những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa.
Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông
tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp
lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống
lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản…
Bảy là, trong quá trình hội nhập, do cơ cấu lại nguồn nhân lực cộng với lao
động dôi dư từ các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, sẽ tạo ra các áp lực lớn
về việc làm cho người lao động. Một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp
sẽ mất việc làm do trình độ chuyên môn không đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra.
Điều này gây tác động xấu về mặt xã hội, làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, người lao
động mất việc làm, giảm thu nhập…
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước. Tuy
nhiên, không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích và gánh
mọi bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm năng và đối
với mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về điều kiện, hoàn cảnh, trình
độ phát triển… Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách thức
thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực của mỗi
nước, trước hết là chiến lược/chính sách, biện pháp hội nhập và việc tổ chức thực
hiện. Thực tế, nhiều nước đã khai thác rất tốt các cơ hội và lợi ích của hội nhập để đạt
được tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cao, ổn định trong nhiều năm liên tục,
nhanh chóng vươn lên hàng các nước công nghiệp mới và tạo dựng được vị thế quốc
tế đáng nể, đồng thời xử lý khá thành công các bất lợi và thách thức của quá trình hội
nhập, đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc,
Malaixia, Mêhicô, Braxin… Một số nước tuy vẫn gặt hái được nhiều lợi ích từ hội
nhập, song xử lý chưa tốt mặt trái của quá trình này, nên phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức lớn, có thể kể tới trường hợp Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđônêxia, Việt
Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… Mặc dù vậy, suy cho cùng lợi ích mà
hầu hết các nước đã thu được trên thực tế từ quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái giá mà
họ phải trả cho những tác động tiêu cực xét trên phương diện tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Điều này giải thích tại sao hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của
hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.
III.Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
1.Các vấn đề đặt ra với Việt Nam:
Hội nhập kinh tế tạo điều kiện phát triến rất lớn.Tuy nhiên bên cạnh đó,việc hội
nhập kinh tế quốc tế lại kéo theo nhiều vấn đề như sau:
5.1 Vấn đề độc lập tự chủ của quốc gia:
Không ít ý kiến cho rằng nước ta với xuất điểm kinh tế quá thấp, nền kinh tế
đang trong quá trình chuyển đối, thị trường chưa ổn định,một bộ phận kinh tế chưa
thoát khỏi lối sản xuất hàng hóa nhỏ, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh kém.Trong
khi đó các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn nhiều
mặt. Do đó, nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì nước ta không tránh
khỏi bị lệ thuộc vào kinh tế.Từ chỗ lệ thuộc về kinh tế có thể đi đến không giữ vững
về quyền độc lập tự chủ.
Về độc lập tự chủ thực chất mỗi nước cần tự lựa chọn con đường và mô hình
phát triễn của mình, tự quyết định các chủ trương chính sách kinh tế xã hội,từ đề ra
mục tiêu chiến lược và kế hoạch tron từng thời kì và mục tiêu thực hiện chiến lược
đó.Nhưng độc lập tự chủ không có nghĩa đóng cửa với thế giới.Nếu đóng của với thê
giới là đi ngược với thời đại, đẩy đất nước đi vào sự chậm phát triển.Khi tình trạng
chậm phát triển về kinh tế không được sớm khắc phục sẽ làm xoái mòn lòng tin của
nhân dân sẽ tạo ra nhiều vấn đề nan giải, tạo ra nguy cơ từ bên trong đối với vấn đề an
ninh xã hội.Trái lại hợp tác quốc tế các bên cùng có lợi, các tổ chức quốc tế đan xen
với nhau chúng ta sẽ có them động lực để củng cố đất nước: “Quốc gia nào muốn giàu
mạnh thì phải buôn bán với nhiều nước, còn các quốc gia chỉ buôn bán với một nước
duy nhất thì khó tránh khỏi bị phụ thuộc vào nước duy nhất ấy.” ( Jose Marti ).
5.2 Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc:
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế thong qua “siêu lộ” thong tin với mạng
internet,một mặt tạo điều kiện chưa từng có để các dân tộc, cộng đồng ở mọi nơi có
thể nhanh chóng trao đổi với nhau hàng hóa,dịch vụ, kiến thức…Qua đó góp phần
phát triển kinh tế, phát triển khoa học, công nghệ, tạo điều kiện mở mang sự hiểu biết
về văn hóa của nhau.Mặt khác, quá trình làm nảy sinh mối nguy cơ to lớn về sự đồng
hóa các hệ thống về tiêu chuẩn, đe dọa suy kiệt khả năng sang tạo của nền văn hóa,
nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của nhân loại.
Nguy cơ trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cương nào đó tự xem giá trị
văn hóa của mình là ưu việt.Từ đó nảy sinh sự ngạo mạn và áp đặt các giá trị văn hóa
của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách gọi là xâm lược văn hóa với
nhiều biện pháp trắng trợn tinh vi. Trước tình hình đó chúng ta không thể lui về chính
sách đóng cửa giao lưu trao đổi với các nước bên ngoài. Ngược lại chúng ta với bản
kĩnh vốn có của dân tộc : “Hòa nhập chứ không hòa tan” tiếp thu các yếu tố nhân bản
hợp lý khoa học tiến bộ của các nước đẻ làm giàu bản sắc văn hóa của dân tộc.Đây là
nhân tố khơi dậy tìm năng sáng tạo, làm nên các giá trị mới trong quá trình hội nhập
kinh tế của đất nước.Tuy nhiên chúng ta cũng phải tỉnh táo phân biệt các văn hóa
ngoại lai tốt hay xấu dẫn đến mất gốc lai căng về văn hóa gây hậu quả xấu đến các
tầng lớp dân cư.
Nói như vậy chỉ trên cơ sở giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của
dân tộc đi đôi với tiếp thu văn hóa nhân loại thì văn hóa Việt Nam mới giữ được vai
trò mục tiêu động lực điều tiết sự phát triễn kinh tế xã hội.
5.3 Vấn đề bảo vệ môi trường:
Hội nhập kinh tế,đất nước ta phát triển thêm rất nhiều,giao lưu buôn bán rộng
rãi nên phương tiện giao thông thải ra một số lượng lớn khí tải,các nhà máy thải ra
nhiều chất độc hại,tài nguyên khai thác nhiều hơn để phục vụ cho việc phát triển kinh
tế sẽ trỏ nên nhiều hơn.Tuy nhiên,việc phát triển kinh tế đồng thời phải đi kèm với
việc bảo vệ môi trường.Có như vậy sự phát triển của mỗi quốc gia mới trở nên bền
vững.Cần phải nhận thức rõ những nguy cơ thách thức của tình trạng ô nhiễm môi
trường đối với sự phát triễn của đất nước để có những biện pháp thích hợp.
2. Những chính sách của Đảng,Nhà nước và ý kiến của bản thân nhằm thúc
đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1 . Những chính sách của Đảng.
Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã ban
hành những chính sách nhằmm thúc đẩy tiến trình hội nhập.
- Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luật lao động,
luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn thông, luật
xây dựng, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên...Sửa đổi và bổ sung pháp
luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam...Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật...
- Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài
chính, tiền tệ, đầu tư...để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp...tạo điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2Ý kiến của bản thân:
Trong quá trình hội nhập quốc tế, sinh viên cần:
- Trang bị đầy đủ kiến thức chuyên ngành, ngoại ngữ cũng như kỹ năng, tác
phong làm việc công nghiệp, hiệu quả, mang tính thực hành, thực tế, thực dụng
cao;
- Rèn luyện tính chuyên nghiệp trong quá trình học làm việc;
- Rèn luyện tinh thần và bản lĩnh tự tôn dân tộc để không bị choáng ngợp trước
sự phát triển vượt bậc về khoa học kỹ thuật công nghệ cũng như kinh tế, văn
hóa của các nước phát triển;
- Cần say mê học hỏi, tìm tòi để có sáng tạo riêng khi ra trường và làm việc;
- Cần có ý thức đóng góp vào sự phát triển, xây dựng nền kinh tế, văn hóa nước
nhà tiên tiến, hội nhập nhưng không hòa tan.
PHẦN KẾT LUẬN
Thế kỉ 21 đang bước những bước đi đầu tiên. Quá trình hội nhập của Việt
Nam trong thế kỉ 21 – thế kỉ của công nghệ thông tin cũng đang dần được mở
rộng. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thực sự là điều kiện tiên quyết để Việt
Nam có thể phát triển kinh tế và hoàn thành sứ mệnh “ sánh vai với các cường
quốc năm châu “. Bởi Việt Nam không chỉ là đi theo xu hướng chung của thời đại
mà còn tìm kiếm những thời cơ cho đất nước.
Việt Nam hộ nhập với thế giới sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi. Đó
không chỉ đơn thuần là mở rộng giao lưu với các nước mà còn là minh chứng cho
sự khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ việc mở rộng thị trường,
thu hút vốn đầu tư...làm cho doanh nghiệp có thị phần ngày càng rộng lớn trên thế
giới.
Tuy nhiên trong quá trình hội nhập cũng không tránh khỏi những khó khăn,
thử thách như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe doạ đến sự tồn tại
của một số doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới chính trị, văn hoá của một
quốc gia...Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ đi thời cơ của mình. Trái lại, chúng
ta “ hoà nhập chứ không hoà tan ”, các doanh nghiệp Việt Nam không tự chôn
mình mà tìm những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh. Nói một cách chung
nhất, chúng ta hãy tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh quá trình chủ
động hội nhập hơn nữa.
Chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước phải thấy được tầm quan
trọng của vấn đề hội nhập đối với sự phát triển của quốc gia. Từ đó thực
hiện tôt trách nhiệm của mình để góp phần vào sự tiến bộ của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện đại hội đảng VII, VIII, IX.
2. Nguyễn Luyện: “ Việt Nam trên đường hội nhập kinh tế thế giới “ (Tạp chí
xây dựng số 6 - 2000).
3. Nguyễn Thanh Mai: “ Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt Nam trước
thiên niên kỉ mới “ (Thương mại số 7 - 2000).
4. Phạm Bình Mân: “ Hội nhập kinh tế quốc tế: cơ hội và thánh thức “ (Tạp chí
công nghệ Việt Nam số 3 - 2001).
5. Phạm Thị Tuý: “ Toàn cầu hoá và những tác động “ (Nghiên cứu kinh tế số 290
– tháng 7/2002).
6. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/05/07/h%E1%BB%99i-nh
%E1%BA%ADp-kinh-t%E1%BA%BF-qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF-vv%E1%BA%A5n-d%E1%BB%81-vi%E1%BB%87c-lm-%E1%BB%9F-vi
%E1%BB%87t-na
- Xem thêm -