BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN ĐÌNH THI
DỰ BÁO KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH BẰNG MÔ
HÌNH KẾT HỢP CÁC YẾU TỐ TÀI CHÍNH,
VĨ MÔ VÀ THỊ TRƯỜNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN ĐÌNH THI
DỰ BÁO KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH BẰNG MÔ
HÌNH KẾT HỢP CÁC YẾU TỐ TÀI CHÍNH,
VĨ MÔ VÀ THỊ TRƯỜNG
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Dự báo kiệt quệ tài chính bằng mô hình kết hợp các
yếu tố tài chính, vĩ mô và thị trường” là công trình nghiên cứu của chính tác giả. Số
liệu và nội dung là hoàn toàn trung thực. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 10 năm 2016.
Tác giả
TRẦN ĐÌNH THI
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ..................................................................................... 2
1.1.
Lý do chọn đề tài ........................................................................................2
1.2.
Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................3
1.3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................3
1.4.
Phương pháp nghiên cứu............................................................................3
1.5.
Bố cục bài nghiên cứu ................................................................................4
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
TRƯỚC ĐÂY VỀ KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH .......................................................... 5
2.1.
Tổng quan lý thuyết ...................................................................................5
2.1.1.
Các tiếp cận về kiệt quệ tài chính ........................................................5
2.1.2.
Nguyên nhân gây ra kiệt quệ tài chính: ...............................................8
2.2.
Các nghiên cứu trước đây về kiệt quệ tài chính ......................................11
2.2.1.
Các nghiên cứu sử dụng biến tài chính .............................................11
2.2.2.
Các nghiên cứu sử dụng biến thị trường ...........................................16
2.2.3.
Các nghiên cứu sử dụng kết hợp biến tài chính và biến thị trường...18
2.2.4.
Các nghiên cứu sử dụng biến chỉ tiêu kinh tế vĩ mô .........................22
2.2.5. Các nghiên cứu sử dụng kết hợp biến tài chính, biến thị trường và
biến kinh tế vĩ mô ...........................................................................................22
2.3.
Các phương pháp phân tích sử dụng trong nghiên cứu.........................25
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................. 27
3.1.
Mô hình nghiên cứu .................................................................................27
3.1.1.
Mô hình hồi quy Logit.......................................................................27
3.1.2.
Độ phù hợp của mô hình Logit .........................................................28
3.2.
Dữ liệu nghiên cứu ...................................................................................30
3.2.1.
Lựa chọn mẫu và dữ liệu ...................................................................30
3.2.2. Xác định tình trạng kiệt quệ tài chính - Biến phụ thuộc của mô hình
(FD.......... ........................................................................................................31
3.2.3. Xác định các yếu tố tác động khả năng kiệt quệ tài chính của một
doanh nghiệp ...................................................................................................32
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 43
4.1.
Thống kê mô tả các biến ..........................................................................43
4.1.1. Thống kê mô tả cho các biến số sử dụng trong mô hình 1-gồm các
biến số tỷ số tài chính......................................................................................43
4.1.2. Thống kê mô tả cho các biến số sử dụng trong mô hình 2 – gồm các
biến số tỷ số tài chính và chỉ báo kinh tế vĩ mô ..............................................44
4.1.3. Thống kê mô tả cho các biến số sử dụng trong mô hình 3 – gồm các
biến số tỷ số tài chính, chỉ báo kinh tế vĩ mô và thị trường ............................46
4.2.
Phân tích mối tương quan giữa các biến. .................................................50
4.3.
Kết quả mô hình hồi quy logit..................................................................51
4.3.1.
Thảo luận kết quả hồi quy mô hình 1 ................................................53
4.3.2.
Thảo luận kết quả hồi quy mô hình 2 ................................................54
4.3.3.
Thảo luận kết quả hồi quy mô hình 3 ................................................54
4.3.4.
Thảo luận kết quả hồi quy mô hình 4 ................................................55
4.3.5.
Thảo luận kết quả hồi quy mô hình 5 ................................................56
4.3.6.
Thảo luận kết quả hồi quy mô hình 6 ................................................56
4.4.
Tổng kết các biến trong các mô hình hồi quy ..........................................57
4.5.
Kết quả các mô hình hồi quy hiệu chỉnh ..................................................59
4.6.
Đo lường mức độ phù hợp của các mô hình hiệu chỉnh ..........................62
4.6.1.
Các giá trị thống kê đo lường khả năng dự báo của mô hình............62
4.6.2.
Kiểm định sự khác nhau về mặt thống kê của các giá trị AUC ........65
4.6.3. Thông đạt kết quả hồi quy, đo lường hiệu ứng cận biên (marginal
effects)… .........................................................................................................68
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ...................................................................................... 71
5.1.
Tóm tắt kết quả nghiên cứu ......................................................................71
5.2.
Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ..................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
SGDCK
Sở giao dịch chứng khoán
HOSE
Sở giao dịch chứng khoán TPHCM
TSSL
Tỷ suất sinh lợi
MDA
Multiple Discriminant Analysis: phân tích đa biệt số.
ANN
Artificial Neural networks: mô hình mạng thần kinh nhân tạo
OLS
Ordinary Least Squares: phương pháp bình phương sai số bé nhất.
MLE
Maximum likelihood estimation
AUC
Area Under the ROC Curve
CĐKT
Cân đối kế toán
HĐKD
Hoạt động kinh doanh
EBITDA
Earnings before interest, taxes, depreciation và amortization
(Lợi nhuận trước thuế, trước lãi vay và khấu hao)
NĐT
Nhà đầu tư
TTCK
Thị trường chứng khoán
BCTC
Báo cáo tài chính
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 4.1 So sánh các đường ROC trong mô hình (t) ........................................................ 66
Hình 4.1 So sánh các đường ROC trong mô hình (t-1) ..................................................... 67
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Tổng kết tình trạng kiệt quệ tài chính theo năm quan sát ........................... 32
Bảng 3.2. Tổng kết các biến trong luận văn................................................................ 42
Bảng 4.1. Mô tả thống kê các biến sử dụng trong mô hình 1-gồm các biến tỷ số tài
chính ............................................................................................................................ 43
Bảng 4.2. mô tả cho các biến số sử dụng trong mô hình 2 – gồm các biến số tỷ số tài
chính và chỉ báo kinh tế vĩ mô .................................................................................... 45
Bảng 4.3. Mô tả các biến sử dụng trong mô hình 3-gồm các biến tỷ số tài chính, chỉ
báo kinh tế vĩ mô và thị trường ................................................................................... 47
Bảng 4.4. Ma trận hệ số tương quan và hệ số nhân tử phòng đại phương sai ............ 50
Bảng 4.5. Kết quả mô hình hồi quy chưa hiệu chỉnh với độ trễ t,t-1 và t-2 ............... 52
Bảng 4.6. Kết quả các mô hình hồi quy hiệu chỉnh .................................................... 61
Bảng 4.7. Các giá trị thống kê đo lường mức độ phù hợp của mô hình ..................... 62
Bảng 4.8. Hiệu ứng cận biên của từng biến trong các mô hình hồi quy hiệu chỉnh ... 69
1
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này tập trung xem xét các yếu tố tác động đến khả năng kiệt quệ tài
chính của 261 doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh
(HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong khoản thời gian từ năm
2008-2015. Hầu hết các dữ liệu này được tác giả thu thập từ sàn HOSE, HNX và
tổng cục thống kê (GSO). Dữ liệu được chia làm 2 nhóm: các doanh nghiệp có khả
năng kiệt quệ tài chính và các doanh nghiệp không có khả năng kiệt quệ tài chính.
Luận văn được tiến hành dựa trên nghiên cứu “Financial Distress And Bankruptcy
Prediction
Among
Listed
Companies
Using
Accounting,
Market
And
Macroeconomic Variables” của Tinoco &Wilson (2013). Đầu tiên tác giả xem xét
mô hình hồi quy Logit của các biến số tỷ số tài chính đến khả năng kiệt quệ tài
chính. Sau đó, lần lượt đưa các biến vĩ mô và thị trường để xem xét mức độ đóng
góp của các biến trong mô hình dự báo. Luận văn thu được các kết quả như sau:
-
Thứ nhất, các biến số tỷ số tài chính có khả năng dự báo tốt tình trạng kiệt
quệ tài chính của doanh nghiệp. Nhưng cần phải kết hợp với các biến số vĩ
mô và thị trường để tăng khả năng dự báo của mô hình. Trong đó các biến thị
trường có đóng góp cao nhất.
-
Thứ hai, các biến số vĩ mô có đóng góp nhất định vào trong mô hình dự báo
xác suất kiệt quệ tài chính, nó làm tăng thêm mức độ dự báo của mô hình.
-
Thứ ba, mô hình dự báo kiệt quệ tài chính các doanh nghiệp ngay tại thời
điểm quan sát (năm t) cho kết quả phù hợp cao nhất và chính xác nhất. Mô
hình dự với kiệt quệ tài chính với độ trễ 1 năm (t-1) chỉ mang tính chất gợi ý
còn mô hình dự báo kiệt quệ tài chính với độ trễ 2 năm (t-2) thì đa số không
mang nhiều ý nghĩa về mặt dự báo.
Như vậy, tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp ở Việt Nam chịu ảnh
hưởng không chỉ bởi các nhân tố bên trong doanh nghiệp được thu thập từ báo cáo
tài chính mà còn chịu ảnh hưởng từ các nhân tố bên ngoài như vĩ mô và thị trường.
2
CHƯƠNG 1:
1.1.
GIỚI THIỆU
Lý do chọn đề tài
Với một nền kinh tế có quá nhiều doanh nghiệp phá sản, đặc biệt đối với Việt Nam,
khi yêu cầu có một môi trường kinh doanh ổn định nhằm thu hút đầu tư, đặc biệt là
đầu tư từ nước ngoài thì việc có tới hàng chục nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục
giải thể, chấm dứt và tạm dừng hoạt động trong một quý gây ảnh hưởng không nhỏ
đến cái nhìn của các nhà đầu tư đối với môi trường kinh doanh trong nước. Mặt
khác, khi doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động cũng dẫn tới một loạt những
hệ lụy về mặt xã hội như người lao động bị mất việc làm, môi trường sinh thái bị
ảnh hưởng… Chính vì thế rất cần thiết có một công cụ dự báo để hỗ trợ phần nào
cho các chủ doanh nghiệp kịp thời để ra các chính sách, hoạch định để nhận thấy
được khả năng rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp mình trước khi
lâm vào tình trạng tạm ngừng họat động, giải thể hoặc phá sản, đồng thời cũng giúp
cho chủ nợ và nhà đầu tư đánh giá được mức độ rủi ro mình đang phải gánh chịu
khi công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính.
Các nguyên nhân dẫn đến kiệt quệ tài chính cuối cùng dẫn đến phá sản hoặc giải thể
rất phức tạp, nó không chỉ đơn thuần do các yếu tố nội tại doanh nghiệp mà còn do
các yếu tố bên ngoài tác động. Các nghiên cứu trước đây về kiệt quệ tài chính đa
phần sử dụng dữ liệu được thu thập từ các báo cáo tài chính, nguồn dữ liệu này đại
diện cho các yếu tố nội tại của công ty và các dữ liệu từ thu thập từ thị trường niêm
yết như: giá, tỷ suất sinh lời cổ phiếu, vốn hóa thị trường… để dự báo xác suất kiệt
quệ tài chính của các công ty. Bên cạnh việc sử dụng các yếu tố nội tại và yếu tố thị
trường trong dự báo xác suất kiệt quệ của công ty, một số nghiên cứu gần đây đã sử
dụng kết hợp thêm yếu tố kinh tế vĩ mô. Kết quả nghiên cứu và so sánh khả năng dự
báo của các mô hình cho thấy sự kết hợp ba nhóm yếu tố: yếu tố nội tại, yếu tố thị
trường và yếu tố kinh tế vĩ mô sẽ góp phần nâng cao độ chính xác trong mô hình dự
báo khả năng kiệt quệ tài chính của công ty.
Hầu hết các nghiên cứu nổi tiếng về kiệt quệ tài chính đều được thực hiện tại Mỹ và
các nước châu Âu. Tại Việt Nam, chủ đề nghiên cứu này vẫn còn mới và chỉ được
3
thực hiện bởi một số ít các nhà nghiên cứu trong nước. Xuất phát từ những thực tại
cấp thiết nói trên, tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm ra một mô hình dự báo
kiệt quệ tài chính chính xác và phù hợp cho các công ty niêm yết tại thị trường
chứng khoán Việt Nam.
1.2.
Mục tiêu nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về mô hình dự báo kiệt quệ tài chính. Tuy nhiên
chúng chỉ sử dụng dữ liệu tài chính hoặc dữ liệu thị trường và sử dụng các mô hình
cũng khác nhau gây ra rất nhiều tranh cãi về kết quả và ứng dụng của mô hình. Bài
nghiên cứu của tác giả thực hiện kết hợp các biến kế toán, biến thị trường và biến
kinh tế vĩ mô vào một mô hình dự báo kiệt quệ tài chính. Tác giả thực hiện bài
nghiên cứu này nhằm đi tìm một bằng chứng thực nghiệm cho thấy tính hiệu quả
của việc kết hợp các biến số tỷ số tài chính, biến số thị trường và biến số kinh tế vĩ
mô vào mô hình dự báo tình trạng kiệt quệ tài chính. Nghiên cứu này phát triển mô
hình dự báo tình trạng kiệt quệ tài chính cho các công ty niêm yết tại SGDCK Tp.
Hồ Chí Minh (HOSE) và SGDCK Hà Nội (HNX).
1.3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tác giả chọn mẫu nghiên cứu là các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở GDCK
TPHCM (HOSE) và Sở GDCK Hà Nội (HNX) để xem xét khả năng dự báo tình
trạng kiệt quệ tài chính của các công ty thông qua các biến số tỷ số tài chính, chỉ
báo kinh tế vĩ mô cũng như các biến số thị trường tại Việt Nam.
Bài nghiên cứu này tập trung xem xét các yếu tố tác động đến khả năng kiệt quệ tài
chính của 261 doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh
(HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong khoản thời gian từ năm
2008-2015.
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả phân loại các quan sát thành hai loại: những quan sát
rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính được gán giá trị biến phụ thuộc là 1, những
quan sát không bị kiệt quệ tài chính được gán giá trị biến phụ thuộc là 0. Để giải
4
quyết vấn đề biến phụ thuộc là biến nhị phân, tác giả sử dụng mô hình Logit trong
bài nghiên cứu này.
1.5.
Bố cục bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu bao gồm 5 phần:
Phần 1 – Giới thiệu. Trong phần này, tác giả trình bày tổng quan các vấn đề của
bài nghiên cứu như: lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và bố cục của bài nghiên cứu.
Phần 2 – Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước đây về kiệt quệ tài
chính. Tác giả xây dựng phần này với mục đích cung cấp một cái nhìn tổng quan và
xuyên suốt về quá trình phát triển của những nghiên cứu thực nghiệm về dự báo
tình trạng kiệt quệ tài chính trên thế giới. Từ đó có một sự định hướng rõ ràng hơn
trong việc xây dựng phương pháp nghiên cứu và lựa chọn các biến số trong mô hình
dự báo kiệt quệ tài chính cho trường hợp tại Việt Nam.
Phần 3 – Phương pháp nghiên cứu. Phần này cung cấp một chi tiết hóa về
phương pháp nghiên cứu, dữ liệu cũng như cách xác định các biến số được sử dụng
trong bài nghiên cứu của tác giả ngoài ra cũng đưa các kỳ vọng về dấu của các biến
số trong mô hình hồi quy.
Phần 4 – Kết quả nghiên cứu. Tác giả cũng tiến hành thống kê mô tả và phân tích
tương quan các biến số trong mô hình hồi quy. Cuối cùng, Tác giả trình bày các kết
quả từ mô hình hồi quy Logit, các kiểm định liên quan nhằm đánh giá mức độ chính
xác trong mô hình dự báo cho các công ty tại Việt Nam.
Phần 5 – Kết luận. Phần này tác giả tóm tắt kết quả kết quả nghiên cứu cũng như
nêu lên hạn chế của đề tài và những hướng mở rộng tiếp theo.
5
CHƯƠNG 2:
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
TRƯỚC ĐÂY VỀ KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH
2.1.
Tổng quan lý thuyết
2.1.1. Các tiếp cận về kiệt quệ tài chính
Cùng với thời gian, định nghĩa kiệt quệ tài chính từng bước được thay đổi và củng
cố. Trước đây và cho đến tận bây giờ, phá sản (bankruptcy) là một trong những khái
niệm phổ biến nhất được dùng cho tình trạng các công ty đang gặp những khó khăn
về tài chính và các mô hình dự báo trước đây đều sử dụng định nghĩa kiệt quệ tài
chính trên trạng thái cuối cùng mang tính chất pháp lý (tuyên bố phá sản) của doanh
nghiệp. Dần dần, định nghĩa về “kiệt quệ tài chính” thường được hiểu như không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán (default), thất bại (failure), mất khả năng thanh toán
(insolvency) hay phá sản (bankruptcy). Theodossiou (1993) thực hiện nghiên cứu
tại Mỹ cho thấy các doanh nghiệp các doanh nghiệp thường mất khả năng thanh
toán khoảng 2 năm trước ngày nộp đơn phá sản. Tinoco & Wilson (2013) thực hiện
nghiên cứu các công ty tại Anh cho thấy có một khoảng cách về mặt thời gian đáng
kể giữa ngày công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính cho đến ngày chính thức
phá sản về mặt pháp lý (từ 1.17 năm thậm chí lên đến 3 năm). Ngoài ra, trước khi
phá sản các doanh nghiệp còn thực hiện các biện pháp giải cứu hoặc bán tài sản và
giải thể chứ không phải là phá sản. Thuật ngữ “kiệt quệ tài chính” mang một ý
nghĩa tiêu cực và hàm chứa là một khoản thời gian, miêu tả tình hình tài chính của
công ty đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời, từ đó gây
ra những khó khăn trong việc thực hiện một phần hay toàn bộ các nghĩa vụ tài chính
của công ty theo kế hoạch và có thể dẫn đến phá sản. Chính vì thế, một công ty rơi
vào tình trạng kiệt quệ tài chính có thể không chắc chắn dẫn đến việc nộp đơn phá
sản.
William Beaver (1966) là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên chỉ ra rằng kiệt
quệ tài chính có thể xuất hiện dưới các hình thức khác nhau như: phá sản, không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán trái phiếu hay không thanh toán cổ tức cổ phần ưu
6
đãi. Andrade & Kaplan (1998) xác định hai hình thức của kiệt quệ tài chính: thứ
nhất là không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, và thứ hai là một nỗ lực cơ cấu lại
nợ để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ. Wruck (1990) định nghĩa tình trạng kiệt quệ là
tình huống mà dòng tiền của một công ty không đủ để trang trải các nghĩa vụ tài
chính hiện tại của nó. Brown, James & Mooradian (1993) phân loại công ty rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính là khi nó thực hiện các biện pháp tái cơ cấu với mục
đích để tránh vỡ nợ. Van Gestel cùng với các đồng sự (2006) mô tả kiệt quệ tài
chính là kết quả của sự thua lỗ kéo dài mà nguyên nhân là do sự gia tăng không cân
xứng về công nợ kèm theo sự sụt giảm trong giá trị tài sản. Aktan (2011) đã đưa ra
quan điểm cho rằng một công ty được xem là kiệt quệ tài chính khi: thua lỗ trong 3
năm liên tiếp, hoặc có vốn chủ sở hữu âm, hoặc bán hết tài sản để trả nợ rồi giải thể,
hoặc tòa án chấp thuận phá sản.
Ngoài ra, việc nhận biết dấu hiệu kiệt quệ tài chính có thể thực hiện được thông qua
việc phân tích các chỉ số tài chính của công ty. Đây là phương pháp được các nhà
nghiên cứu sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất, phương pháp này thể hiện tốt trong
việc dự báo kiệt quệ tài chính của công ty. Denis & Denis (1995) xác định kiệt quệ
tài chính xảy ra khi công ty rơi vào tình trạng hoạt động kinh doanh thua lỗ trong ít
nhất 3 năm liên tiếp. Kết quả nghiên cứu của họ chỉ ra rằng khi một công ty rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính, nó sẽ không có khả năng thanh toán cổ tức. Do đó, sự
sụt giảm cổ tức và hoạt động kinh doanh thua lỗ có thể được sử dụng như một dấu
hiệu xác định tình trạng kiệt quệ tài chính của công ty. Theo Platt & Platt (2002),
một công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính sẽ xuất hiện các dấu hiệu sau: thu
nhập từ hoạt động kinh doanh âm trong nhiều năm liên tiếp, trì hoãn việc thanh toán
cổ tức, tái cơ cấu tài chính và sa thải hàng loạt. Các công ty với sức khỏe tài chính
kém và có nhiều vấn đề về nợ vay thì có thể dễ dàng lâm vào kiệt quệ tài chính, và
hơn thế nữa một số sẽ phá sản (bankruptcy) khi khủng hoảng kinh tế xảy ra. Tuy
nhiên, ngay cả trong những nền kinh tế ổn định, có lợi nhuận tốt, việc quản lý
không phù hợp với xu hướng hiện tại thì cũng có thể xảy ra kiệt quệ tài chính. Bất
ngờ hơn, đôi khi ngay cả áp dụng phương pháp quản lý khoa học, cũng không thể
7
giúp công ty loại bỏ được khả năng phá sản (bankruptcy). Perold (1999) nhấn mạnh
rằng một công ty phòng ngừa bằng chứng khoán phái sinh thì cũng có thể phá sản,
ngay cả khi được quản lý bởi một nhà khoa học đoạt giải Nobel.
Asquith, Gertner, và Scharfstein (1994) phân tích các quyền chọn để dự báo phá sản
và xác định tình trạng kiệt quệ tài chính theo một cách tương tự. Định nghĩa của họ
về kiệt quệ tài chính là dựa trên tỷ số khả năng chi trả lãi vay. Một công ty được
phân loại là kiệt quệ tài chính nếu EBITDA ít hơn so với chi phí tài chính (chi phí
lãi vay) trong 2 năm liên tiếp, hoặc trong các trường hợp khác, EBITDA ít hơn 80%
chi phí lãi vay. Andrade & Kaplan (1998), xác định kiệt quệ tài chính xảy ra ngay
tại năm đầu tiên khi EBITDA của doanh nghiệp thấp hơn chi phí tài chính.
Whitaker (1999) định nghĩa kiệt quệ tài chính như là năm đầu tiên mà dòng tiền
doanh nghiệp thấp hơn các khoản nợ dài hạn đáo hạn. Do vậy, sẽ hợp lý hơn khi
xem xét trạng thái kiệt quệ tài chính dựa trên khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài
chính.
Sự kết hợp giữa biến sổ sách và biến thị trường nhằm xác định kiệt quệ tài chính
trong mô hình nghiên cứu đã và đang được sử dụng rộng rãi. Phương pháp này cho
phép các nhà nghiên cứu nắm bắt được bản chất phức tạp và không đồng nhất của
hiện tượng kiệt quệ bằng cách kết nối các yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Opler &
Titman (1994) sử dụng yếu tố tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình và tỷ suất
sinh lời cổ phiếu trung bình để xác định các công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài
chính. Tốc độ tăng trưởng doanh thu âm và lợi suất cổ phiếu âm là dấu hiệu cho
thấy những vấn đề trong hoạt động kinh doanh thường ngày của công ty. Hai yếu tố
trên đặc biệt hiệu quả trong thời kỳ suy thoái kinh tế bởi vì chúng không chỉ phản
ánh cơ cấu hoạt động của công ty có hiệu quả hay không mà còn phản ánh hành vi
tài chính của các nhà đầu tư vào cổ phiếu của công ty đó. Whitaker (1999) sử dụng
dòng tiền và giá trị thị trường của công ty nhằm xác định khi nào công ty rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính. Kiệt quệ tài chính được định nghĩa là một tình trạng
mà dòng tiền của công ty không đủ để trang trải các nghĩa vụ của nó và phải chịu
một sự suy giảm trong giá trị thị trường của nó. Việc chỉ sử dụng yếu tố dòng tiền
8
để xác định công ty có rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính hay không có thể không
chính xác bởi vì một công ty khi rơi vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời
nó có thể sử dụng các nguồn vốn khác ngoại sinh để khắc phục tình trạng trên. Do
vậy việc suy giảm giá trị thị trường của công ty có thể xem như là một yếu tố hỗ trợ
cho việc phân loại các công ty kiệt quệ tài chính vì nó phản ánh các vấn đề dài hạn
của dòng tiền và dẫn đến kết quả là sự suy giảm giá trị thị trường của công ty.
Tóm lại, theo Jie Sun 2013 có thể diễn đạt sự phát triển của định nghĩa về kiệt quệ
tài chính theo hai quan điểm chính là lý thuyết và thực nghiệm. Từ quan điểm của
phân tích lý thuyết, kiệt quệ tài chính có các mức độ khác nhau: kiệt quệ tài chính
mức độ nhẹ chỉ là khó khăn dòng tiền tạm thời, trong khi kiệt quệ tài chính ở mức
nghiêm trọng là khánh kiệt hay phá sản. Kiệt quệ tài chính là quá trình thay đổi linh
hoạt các trạng thái khác nhau giữa khó khăn tạm thời và phá sản; là kết quả của các
bất thường xảy ra đối với hoạt động kinh doanh trong suốt một khoảng thời gian.
Do yêu cầu về tính rõ ràng của tiêu chuẩn lấy mẫu nghiên cứu hoặc do những hạn
chế trong dữ liệu sẵn có nên quan điểm nghiên cứu thực nghiệm về kiệt quệ tài
chính có sự khác biệt. Kiệt quệ tài chính được xác định dưới quan điểm thực
nghiệm cho thấy khó khăn tài chính của công ty một cách rõ ràng, chẳng hạn như
tình trạng thông báo phá sản hoặc bị hủy niêm yết trên sàn chứng khoán. Những
nghiên cứu gần đây chỉ dùng các tiêu chuẩn riêng lẻ để xác định công ty có rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính hay không, điều này không thể hiện được sự biến đổi
linh hoạt về hình thái biểu hiện của kiệt quệ tài chính. Các nghiên cứu trong tương
lai cần phải tìm ra một tiêu chuẩn toàn diện hơn mà có thể phân loại các công ty
theo các mức độ kiệt quệ tài chính khác nhau như nhẹ, trung bình và phá sản.
2.1.2. Nguyên nhân gây ra kiệt quệ tài chính:
Kiệt quệ tài chính là một quá trình chuyển đổi linh hoạt và phức tạp. Sự không
thống nhất của các định nghĩa về kiệt quệ tài chính bắt nguồn từ các yếu tố khác
nhau gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính của công ty. Các yếu tố này được phân
thành hai loại: các yếu tố nội sinh và các yếu tố ngoại sinh. Các yếu tố nội sinh bao
gồm các vấn đề phát sinh từ nội sinh của công ty, do vậy chúng chỉ xuất hiện ở một
9
số công ty cụ thể hoặc trong một nhóm các công ty trong cùng ngành. Các yếu tố
ngoại sinh thường phổ biến hơn và tác động lên tất cả các công ty trên thị trường.
Yếu tố nội sinh đề cập đến các vấn đề nội bộ liên quan đến quản lý yếu kém của
công ty bao gồm: quản lý dự án không tốt hoặc để xảy ra gian lận; phẩm chất và kĩ
năng quản lý kém; hệ thống thông tin kế toán hoạt động không hiệu quả; lợi nhuận
biên và hiệu quả hoạt động thấp; quản lý nguồn vốn, thanh khoản kém; chuyển giao
quyền quản lý không phù hợp. Theo Zwaig & Pickett (2012), quản lý không thay
đổi kịp thời theo sự mở rộng nhanh chóng của hoạt động kinh doanh hoặc không
thích nghi với chiến lược mới của đối thủ cạnh tranh có thể kéo theo sự thất bại
công ty. Việc tuyển dụng đội ngũ quản lý không cân xứng và thiếu kỹ năng cần
thiết để quản lý công ty sẽ đẩy công ty rơi vào kiệt quệ tài chính, do các quyết định
đầu tư sai lầm với tổn thất kinh phí lớn mà không thể khắc phục được (Galloway &
Jones, 2006). Đối với các công ty mới thành lập, nguyên nhân quan trọng nhất gây
ra kiệt quệ tài chính là sự thiếu vốn ngay từ lúc khởi đầu kinh doanh. Nguồn vốn
trong kinh doanh có vai trò như một tấm đệm chống lại những thua lỗ bất thường
mà không thể bù đắp bởi thu nhập hiện tại (Adeyemi, 2012 ). Việc đổi mới cũng có
vai trò quan trọng trong thành công hay thất bại của công ty do những rủi ro gắn với
việc này (Chao và các cộng sự, 2012). Xác suất công ty rơi vào kiệt quệ tài chính do
đổi mới là đặc biệt cao khi đối thủ giới thiệu sản phẩm sáng tạo và cạnh tranh làm
giảm sự hấp dẫn của các sản phẩm và dịch vụ mới của công ty (Jahur & Quadir,
2012 ). Vì vậy, đổi mới có thể đem đến cho công ty một lợi thế cạnh tranh so với
các đối thủ hoặc kéo theo sự sụp đổ.
Các yếu tố ngoại sinh tác động lên toàn bộ thị trường bao gồm: sự cạnh tranh của
các đối thủ trong thị trường; sự vỡ nợ của các đối tác kinh doanh; biến động bất lợi
của tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng cao; thay đổi bất lợi trong chính sách của chính
phủ; khác biệt giữa lạm phát thực tế và kì vọng. Những yếu tố ngoại sinh thì không
phụ thuộc vào kỹ năng quản trị công ty (Karels & Prakash (1987)). Ngoài các
nguyên nhân trên, Moyer (2004) cho rằng chu kì kinh tế là một nguyên nhân quan
trọng dẫn đến kiệt quệ tài chính. Khi chu kì kinh tế đang ở giai đoạn suy thoái, dòng
10
tiền thu được từ được hoạt động kinh doanh thấp sẽ làm cho công ty không thể đáp
ứng hoặc đáp ứng khó khăn các nghĩa vụ nợ. Điều này xảy ra đối với toàn bộ các
công ty trong nền kinh tế, tuy nhiên mức độ tác động thì phụ thuộc vào đặc điểm
riêng biệt của ngành và công ty.
Việc xác định các nguyên nhân gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính thường được dựa
vào các nghiên cứu thực nghiệm. Karels & Prakash (1987), phân loại các yếu tố gây
ra kiệt quệ tài chính thành hai nhóm: nhóm các yếu tố rủi ro nội bộ và nhóm các yếu
tố ngoại sinh. Nhóm các yếu tố rủi ro nội bộ thông thường liên quan đến các kỹ
năng quản lý công ty, các quyết định tài chính mà qua đó gây tác động đến tình
trạng của công ty. Nhóm các yếu tố ngoại sinh tác động đến công ty thông thường
là sự biến động trong chính sách kinh tế, bất ổn của thị trường lao động hay thảm
họa tự nhiên.
Nghiên cứu của Bibeault (1983) chỉ ra rằng có 5 yếu tố ngoại sinh gây ra tình trạng
kiệt quệ tài chính của công ty là: biến động của nền kinh tế, biến động môi trường
cạnh tranh, thay đổi các yếu tố xã hội và thay đổi khoa học công nghệ. Kết quả
nghiên cứu của ông cho thấy 41% công ty phá sản là do sự tác động của các yếu tố
kinh tế vĩ mô, 31% là do môi trường cạnh tranh thay đổi, 13% là do những thay đổi
bất lợi trong chính sách của chính phủ và 15% là chịu sự tác động của thay đổi xã
hội và khoa học công nghệ. Tuy nhiên, 80% các công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ
tài chính là do sự tác động của các yếu tố quản lý, cụ thể là thiếu năng lực quản lý.
Theo nghiên cứu của Whitaker (1999), các công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài
chính do yếu tố nội bộ (yếu kém trong quản lý) chiếm 76,8%, các công ty rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính do chịu tác động của cả hai yếu tố nội sinh và ngoại
sinh là 37,5%. Cuối cùng chỉ có 9,4% trong các công ty là do ảnh hưởng của yếu tố
ngoại sinh.
Nghiên cứu của Andrade và Kaplan (1998) cho thấy tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao là
nguyên nhân chính đẩy công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính bởi vì đây là lý
do gây thiếu hụt tiền mặt trong công ty.
11
2.2.
Các nghiên cứu trước đây về kiệt quệ tài chính
2.2.1. Các nghiên cứu sử dụng biến tài chính
Các nghiên cứu từ những năm 60 của thế kỷ trước, đã sử dụng thông tin từ báo cáo
tài chính để dự báo kiệt quệ, phá sản của doanh nghiệp. Beaver (1966, 1968),
Altman (1968, 1977), Ohlson (1980) được xem là những tác giả tiên phong trong
việc sử dụng các tỷ số tài chính để dự báo phá sản trong các nghiên cứu thực
nghiệm. Cụ thể:
Beaver (1966) là người đặt nền móng cho việc xây dựng một mô hình thống kê
phân tích các tỷ số tài chính đơn lẻ để dự báo phá sản. Trong khi hầu hết các nghiên
cứu vào thời điểm đó chỉ xem xét các công ty vỡ nợ là các công ty phá sản, Beaver
đã mở rộng định nghĩa về sự vỡ nợ trong nghiên cứu của mình. Theo ông, vỡ nợ
được định nghĩa là sự không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ đến hạn của một
công ty. Bằng cách sử dụng phân tích biệt số đơn biến, ông tiến hành nghiên cứ
thực nghiệm trên 79 doanh nghiệp kinh doanh vỡ nợ và một số lượng tương ứng các
doanh nghiệp kinh doanh thành công trong giai đoạn từ 1954-1964. Beaver phân
loại 30 chỉ số thành 6 nhóm, sau đó chọn 1 chỉ số từ mỗi nhóm có sai số phần trăm
nhỏ nhất để phân tích và tập trung kiểm định vào 6 tỷ số sau: tỷ số dòng tiền trên
tổng nợ, tỷ số thu nhập ròng trên tổng tài sản, tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản, tỷ số
vốn luân chuyển trên tổng tài sản, tỷ số tài sản ngắn hạn trên nợ ngắn hạn, tỷ số tài
sản ngắn hạn trên chi tiêu hoạt động hằng ngày để phân loại nhóm công ty vỡ nợ và
nhóm công ty không vỡ nợ. Đối với mỗi tỷ số, Beaver suy ra một ngưỡng giới hạn,
mà những công ty ở bên trên ngưỡng này hoặc ở bên dưới ngưỡng này trong trường
hợp tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản thì được phân loại là không vỡ nợ tiềm năng, còn
những công ty ở dưới ngưỡng này hoặc ở bên trên ngưỡng này trong trường hợp tỷ
số tổng nợ trên tổng tài sản thì được phân loại là vỡ nợ tiềm năng. Ngưỡng giới hạn
này được suy ra từ việc phân tích sự khác biệt trong các tỷ số tài chính giữa các
công ty vỡ nợ và các công ty không vỡ nợ và được lựa chọn dựa trên phương pháp
thử và sai - sao cho xác suất của việc dự báo sai là nhỏ nhất. Beaver phân tích các tỷ
số tài chính dựa trên các định đề sau: Dòng tài sản thanh khoản ròng từ hoạt động
- Xem thêm -