DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................................3
PHẦN I: KHUNG PHÁP LÝ – CƠ CHẾ GIÁM SÁT NỢ XẤU TRONG HỆ
THỐNG CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM .............................................4
1.
Khung pháp lý .............................................................................................4
1.1. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (được sửa đổi, bổ sung bằng
quyết định 18/2007/QĐ-NHNN) .....................................................................4
2.
1.2.
Quyết định 780/QĐ-NHNN ..................................................................4
1.3.
Thông tư 02/2013/TT-NHNN (đã hoãn thi hành) ..............................4
Cơ chế giám sát nợ xấu tại các ngân hàng thương mại ...........................5
PHẦN II: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG VIỆT NAM HIỆN NAY .....................................................................5
1.
Nguồn số liệu từ phía Ngân hàng nhà nước ..............................................6
1.1.
Quy mô nợ xấu ......................................................................................6
1.2.
Cơ cấu nợ xấu ........................................................................................9
1.3.
Loại và giá trị tài sản đảm bảo ..........................................................12
2.
Tỉ lệ nợ xấu theo đánh giá của các tổ chức độc lập ................................12
3.
Nguyên nhân hình thành nợ xấu..............................................................14
4.
3.1.
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp ..................................................14
3.2.
Nguyên nhân từ cơ chế xử lý nợ xấu .................................................15
Kết luận ......................................................................................................15
PHẦN III: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH Ý TƯỞNG THÀNH LẬP VAMC .15
1. Các phương thức xử lý nợ xấu hiện hữu ở Việt Nam và mô hình công
ty quản lý tài sản quốc gia(AMCs) ...................................................................15
1.1.
Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu về phía các tổ chức tín dụng ............16
1.2.
Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu về phía Ngân hàng Nhà nước ..........16
1.3.
Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu về phía Bộ Tài chính ........................16
1
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
1.4.
Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu về phía các doanh nghiệp .................17
1.5. Về sự cần thiết của mô hình công ty quản lý tài sản quốc gia
(AMC)..............................................................................................................17
2. Thực tiễn từ sự hình thành và hoạt động của các AMC ở một số nước
trong khu vực Châu Á- Hàm ý cho Việt Nam ................................................18
2.1.
Các loại mô hình công ty quản lý tài sản ..........................................18
2.2.
Một số điểm nổi bật của các công ty xử lý nợ ở châu Á ..................20
2.3.
Hiệu quả của các công ty quản lý tài sản ..........................................21
2.4. Công ty quản lý tài sản và hành vi rủi ro đạo đức – Trường hợp
Thái Lan ..........................................................................................................22
2.5.
Hàm ý cho Việt Nam ...........................................................................23
3. Từ ý tưởng đến thực tế thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam VAMC .................................................................................................................24
PHẦN IV: MÔ TẢ CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC ...25
1.
Tổ chức – quản trị - điều hành VAMC ...................................................25
2.
Phương thức hoạt động VAMC ...............................................................26
2.1.
Nguyên tắc hoạt động .........................................................................26
2.2.
Quyền và Nghĩa vụ của VAMC .........................................................26
2.3.
Các hoạt động VAMC tham gia ........................................................27
2.4.
Hoạt động mua nợ xấu của VAMC ...................................................27
2.5.
Hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC ..................................................30
3.
Kỳ vọng tích cực về hiệu quả của VAMC đối với việc xử lý nợ xấu ....32
4.
Những vấn đề đáng lo ngại .......................................................................33
PHẦN V: KẾT LUẬN ...........................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................36
2
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BĐS
DNNN
NHTM
NHNN
NHTMCP
NHTMNN
TCTD
AMC
VAMC
DATC
Bất động sản
Doanh nghiệp Nhà nước
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại Nhà nước
Tổ chức tín dụng
Asset Management Company
Viet Nam Asset Management Company
Debt and Asset Trading Corporation
3
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
PHẦN I: KHUNG PHÁP LÝ – CƠ CHẾ GIÁM SÁT NỢ XẤU
TRONG HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM
1. Khung pháp lý
Rủi ro từ hoạt động tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu và quản trị rủi ro tín dụng
tốt hay xấu sẽ quyết định đến sự thành bại trong hoạt động ngân hàng của các TCTD. Một biện
pháp đang được các NHTM áp dụng là chú trọng công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi
ro để hạn chế và bù đắp rủi ro trong hoạt động tín dụng. Hiện nay, hoạt động này đang được các
TCTD thực hiện trong khuôn khổ của các văn bản quy phạm pháp luật sau:
1.1.
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (được sửa đổi, bổ sung bằng quyết định
18/2007/QĐ-NHNN)
Đây là văn bản pháp lí đang được các TCTD tuân thủ trong việc phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Trong đó, quan trọng nhất là hướng dẫn về phân loại nợ vào các nhóm tương ứng với mức độ rủi
ro (điều 6); và hướng dẫn sử dụng phương pháp định tính, xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm
nội bộ để phân loại nợ và trích lập dự phòng (điều 7).
1.2.
Quyết định 780/QĐ-NHNN
Ngày 23/04/2012, Ngân hàng nhà nước đã ban hành quyết định 780/QĐ-NHNN về việc
phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, theo đó cho phép các TCTD
khi cơ cấu lại nợ cho các khách hàng có triển vọng tốt, có khả năng phục hồi thì không cần thay
đổi nhóm nợ so với trước khi điều chỉnh kỳ hạn - gia hạn.
Nhờ có "chiếc phao" này, nhiều doanh nghiệp đã được cơ cấu lại thời gian trả nợ. Các
khoản nợ được giữ nguyên nhóm, tạm thời chưa bị đưa vào nhóm nợ xấu cao hơn. Điều này đã
giúp giảm áp lực trả nợ, giảm chi phí trả lãi phạt cho doanh nghiệp, kéo theo đó là giảm mức
trích lập dự phòng cũng như là tỉ lệ nợ xấu trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Theo NHNN,
tính đến cuối tháng 4/2013, đã có 284.400 tỷ đồng dư nợ tín dụng đã được cơ cấu lại thời hạn trả
nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Quyết định 780.
1.3.
Thông tư 02/2013/TT-NHNN (đã hoãn thi hành)
Ngày 21/01/2013, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 02 về “Quy định về phân
loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử
lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”.
So với những quy định hiện hành về trích lập dự phòng, xử lý rủi ro trong hoạt động của các
TCTD (quyết định 493/2005/QĐ-NHNN), Thông tư 02 có sự thay đổi quan trọng với các qui
định tiếp cận gần với chuẩn mực quốc tế như mở rộng phạm vi “tài sản có” phải phân loại, định
giá tài sản bảo đảm, sử dụng thông tin tín dụng, tiêu chuẩn phân loại nợ, phản ánh đầy đủ hơn
chất lượng tài sản của TCTD. Do đó, kết quả tính toán lại các khoản nợ và tiến hành phân loại nợ
theo thông tư này của các TCTD cho thấy sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu ở một số ngân hàng
thương mại. Việc thực hiện phân loại lại nhóm nợ theo Thông tư 02 sẽ khiến nhiều khách hàng
vay vốn tụt hạng theo thang điểm xếp hạng tín dụng nội bộ, và rơi vào nhóm nợ xấu hơn.
4
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
Tuy nhiên, chỉ 4 ngày trước khi thông tư này có hiệu lực, NHNN đã ban hành thông tư điều
chỉnh 12/2013/TT-NHNN, theo đó lùi thời điểm có hiệu lực của Thông tư 02 thêm một năm.
2. Cơ chế giám sát nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
Công tác quản lý nợ và khai thác tài sản luôn được các NHTM dành sự quan tâm đặc biệt.
Mỗi NHTM đều có chính sách, hệ thống và quy trình quản lý rủi ro. Tuy nhiên với tốc độ tăng
trưởng về quy mô cũng như dư nợ tín dụng ngày càng tăng, việc xử lý nợ đòi hỏi phải có bộ máy
chuyên nghiệp hơn, với tính chất hoạt động như một doanh nghiệp nhằm hỗ trợ ngân hàng cả về
công tác quản lý nợ và khai thác tài sản. Nhiều NHTM đã thành lập các Công ty Quản lí Tài sản
(Asset Management Company – AMC) để tận thu nợ tồn đọng, hạn chế tối đa tổn thất tài sản,
làm lành mạnh hoá tình hình tài chính.
Theo thống kê của PG Bank, hiện nay có 27 AMC trực thuộc NHTM. Bên cạnh đó, có một
số NHTM đã được NHNN chấp thuận thành lập AMC nhưng chưa chính thức đi vào hoạt động
(Habubank, VietABank, Vietbank, Seabank). Các AMC trực thuộc NHTM hoạt động theo mô
hình công ty TNHH một thành viên. Phần lớn các AMC có vốn điều lệ vào khoảng 50-100 tỷ
đồng. Có thể kể đến một số các AMC hiện đang hoạt động như: Công ty TNHH một thành viên
Quản lý nợ và Khai thác tài sản (VietinBank AMC), Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
Ngân hàng Á Châu (ACBA), Sacombank AMC ( SBA), MBAMC Ngân hàng Quân đội ... Các
công ty này đều tập trung thực hiện một số nghiệp vụ chính sau:
Định giá tài sản
Tiếp nhận và xử lý nợ, tài sản
Mua bán nợ
Bán đấu giá tài sản
Cho thuê tài sản : gồm có cho thuê kho bãi và cho thuê xe ô tô.
Quản lý và khai thác tài sản, quản lý kho hàng, tài sản bảo đảm.
PHẦN II: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM HIỆN NAY
Nợ xấu là một trong những vấn đề được dư luận và cả nền kinh tế quan tâm nhất hiện nay.
Trên các phương tiện thông tin truyền thông, chủ đề về nợ xấu và tái cấu trúc ngân hàng xuất
hiện dày đặc. Và cả trong các phát biểu của các quan chức và tại Quốc hội, nợ xấu cũng thường
xuyên được nhắc đến trong suốt một thời gian dài.
Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu trở nên hết sức khó khăn bởi ngay cả số liệu về nợ xấu cho
đến nay vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Thực tế, nợ xấu ngân hànglà một biến số nhạy cảm,
gắn chặt với tình hình kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh và diễn biến của thị trường. Nó thay
đổi hàng giờ và phụ thuộc đáng kể vào góc nhìn của người báo cáo hay đánh giá, loại ra yếu tố
chủ quan tiêu cực. Do đó, để có được nhận xét tương đối chính xác và khách quan, nhóm sẽ dựa
5
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
trên hai nguồn số liệu chủ yếu sau: nguồn số liệu chính thức công bố từ phía NHNN và những
đánh giá của các tổ chức độc lập.
Dựa trên việc tổng hợp nhiều ý kiến tranh luận khác nhau, nhóm sẽ đưa ra đánh giá về tình hình
nợ xấu trong hệ thống ngân hàng hiện tại.
1. Nguồn số liệu từ phía Ngân hàng nhà nước
Thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng sẽ được đánh giá thông qua các chỉ tiêu về quy mô,
cơ cấu nợ xấu và tài sản đảm bảo cho các khoản nợ.
1.1.
Quy mô nợ xấu
Đây là chỉ tiêu nhận được nhiều đánh giá khác nhau. Ngay cả trong nội bộ ngành ngân
hàng, các số liệu báo cáo mà các TCTD cung cấp cho NHNN cũng có khác biệt đáng kể so với
kết quả giám sát của cơ quan thanh tra của NHNN.
Cụ thể, theo báo cáo của các TCTD vào cuối năm 2012, nợ xấu khoảng 135.000 tỷ đồng,
tương đương 4,86% tổng dư nợ. Còn theo kết quả giám sát của NHNN, nợ xấu của hệ thống các
TCTD đến cuối năm 2012 là 7,8% tổng dư nợ. Trong khi nợ xấu bình quân toàn hệ thống khá
cao, thì báo cáo tài chính của từng TCTD lại khá thấp. Cụ thể, đến cuối năm 2012, BIDV có tỷ lệ
nợ xấu 2,7% trên tổng dư nợ, tương tự Vietcombank là 2,26%, Vietinbank là 1,46%, Sacombank
1,89%, Eximbank 1,2% và Ngân hàng Quân đội là 1,85%. Duy có 2 trường hợp, dù không nằm
trong nhóm 9 ngân hàng thuộc diện tái cơ cấu nhưng nợ xấu cao là Agribank 5,8%, và SHB đang
dẫn đầu 8,53%. SHB lý giải nợ xấu tăng mạnh chủ yếu do phải lo gánh khoản nợ nần lớn từ
Habubank từ khi sáp nhập.
Giải thích cho sự khác biệt trong số liệu thống kê của các TCTD và cơ quan thanh tra, có thể
xem xét đến các nguyên nhân sau:
i) Cách thức phân loại nợ.
Theo quy định hiện hành về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của TCTD, “nợ xấu” là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5.
Thông thường ở các nước đang phát triển, nếu nợ xấu của các ngân hàng được phân loại theo các
chỉ tiêu định lượng và định tính phù hợp với thông lệ quốc tế, thì tỷ lệ này dưới 5% cũng là bình
thường. Tuy nhiên, ở Việt Nam còn có sự khác nhau về năng lực quản trị rủi ro và việc xếp hạng
tín dụng nội bộ. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại các NHTM Việt Nam hiện nay đều xây
dựng các yếu tố cơ bản của hệ thống xếp hạng (bộ chỉ tiêu, trọng số của từng chỉ tiêu) theo quan
điểm chủ quan thay vì dựa trên dữ liệu thống kê lịch sử và phân tích mô hình kinh tế lượng. Kết
quả xếp hạng tín dụng nội bộ chưa là cơ sở xây dựng các thước đo lượng hóa rủi ro, hỗ trợ tính
toán chuẩn xác tổn thất dự tính và yêu cầu vốn tối thiểu bù đắp rủi ro. Điều này dẫn đến hạn chế
trong quản trị rủi ro danh mục, định giá tín dụng và xác định khẩu vị rủi ro… của từng ngân
hàng.
Hiện nay, quản trị rủi ro tín dụng tại mỗi ngân hàng thường theo những khẩu vị rủi ro riêng.
Vấn đề này đã dẫn đến một số bất cập trong việc so sánh, đánh giá cùng một đối tượng khách
hàng nhưng lại có kết quả khác nhau, nhiều khi xung đột (cùng 1 khách hàng, có ngân hàng phân
6
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
loại vào nhóm nợ cao, có ngân hàng lại phân loại vào nhóm nợ thấp). Mặt khác, việc triển khai
xếp hạng khách hàng đòi hỏi đội ngũ chuyên gia nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng như am hiểu
sâu sắc mô hình xếp hạng tín dụng, trong khi thị trường nhân lực hiện tại của Việt Nam còn rất
thiếu.
ii) Thông tin về khách hàng vừa thiếu, vừa không chuẩn xác. Điều này gây không ít khó
khăn cho ngân hàng trong việc thiết lập quan hệ tín dụng.
Ở Việt Nam, trên 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, không ít doanh nghiệp có báo cáo tài
chính không chuẩn xác, lại không qua kiểm toán. Ngay cả đối với các doanh nghiệp lớn được
kiểm toán thì sự chậm trễ trong công bố báo cáo tài chính cũng như chất lượng kiểm toán chưa
cao cũng gây nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Vì thế, việc dựa vào một số thông tin đầu vào
để cấp tín dụng, đã dẫn đến một số khoản vay vừa ra khỏi ngân hàng đã khó có khả năng thu hồi.
Đặc biệt, khi ngân hàng và doanh nghiệp lại có mối quan hệ “mật thiết”, phụ thuộc lẫn nhau (sở
hữu chéo) thì nguồn lực dễ bị phân bổ sai lệch, bất hợp lý, cho vay bất chấp các quy định về an
toàn vốn, nợ xấu tất yếu sẽ tăng lên.
iii)
Hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo trong
ngân hàng... đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền.
Đây cũng là những hoạt động tiềm ẩn nhiều nợ xấu nhưng rất khó chỉ ra để xử lý, khi tính minh
bạch và giải trình còn hạn chế. Hậu quả là nợ xấu sẽ ngày một phình to và càng khó xác định,
DN sản xuất kinh doanh càng khó tiếp cận được vốn.
iv) Nợ xấu còn có nguyên nhân từ đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng và
khách hàng.
Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo đức kinh doanh
không chỉ cần thiết mà còn mang tính bắt buộc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà một số cán
bộ ngân hàng đã cấu kết với khách hàng để che giấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của
NHNN. Mặc dù chưa có số liệu công bố nhưng chính cơ quan thanh tra của NHNN cũng thừa
nhận là có một bộ phận không nhỏ các TCTD đã cố ý trong việc vi phạm phân loại nợ và trích
lập dự phòng theo quy định, không ghi nhận đầy đủ nợ xấu theo quy định để giảm chi phí dự
phòng, cho báo cáo tài chính tốt hơn.
Để đảm bảo tính khách quan và chính xác cho phân tích, nhóm quyết định xem số liệu báo
cáo của cơ quan thanh tra NHNN là nguồn số liệu chính thức để đánh giá thực trạng nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng. Như vậy, trong giai đoạn 2008 – 2012, nợ xấu có sự gia tăng khá nhanh về
quy mô.
7
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
Tốc độ gia tăng nợ xấu
80%
74%
66%
64%
60%
41%
40%
20%
27%
0%
2008
2009
2010
2011
2012
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Tốc độ tăng nợ xấu chậm lại trong năm 2012 có thể được giải thích phần nào nhờ vào
quyết định 780/QĐ-NHNN cho phép các TCTD giữ nguyên nhóm nợ của các khoản nợ đã được
điều chỉnh kỳ hạn, gia hạn nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có chiều
hướng tích cực. Thống đốc NHNN cũng thừa nhận việc áp dụng Quyết định 780 đã giúp các
doanh nghiệp và hệ thống tổ chức tín dụng cơ cấu lại khoản nợ tới 284,4 nghìn tỷ đồng ( tính đến
tháng 4/2013), mà đáng lẽ, theo chuẩn mực phân loại nợ hiện tại, phần lớn khối nợ này sẽ phải
chuyển thành nợ xấu.
Xét về tỉ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ, đến hết tháng 4 năm 2013, nợ xấu chiếm 4,67% trong
tổng dư nợ 3.159.403 tỷ đồng của toàn hệ thống (tức khoảng 147.544 tỷ đồng), có sự sụt giảm
đáng kể từ mức 7,8% vào cuối năm 2012.
Tỉ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ ngành ngân hàng
8.82%
7.8%
6%
3.5%
2.0%
2.2%
2.5%
4.67%
3.2%
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
8
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
1.2.
Cơ cấu nợ xấu
Cơ cấu nợ xấu cũng là một vấn đề đáng quan tâm; nó cho thấy nợ xấu đang nằm ở
đâu trong nền kinh tế, từ đó cho phép phân tích khả năng giải quyết các khoản nợ này căn cứ
theo tình hình kinh tế hiện tại. Dựa trên số liệu cuối năm 2012, nhóm đưa ra bức tranh sơ bộ về
cơ cấu nợ xấu trong hệ thống ngân hàng như sau:
(i)
Xét theo từng khối ngân hàng: nợ xấu tập trung chủ yếu ở khối NHTMNN với 40%, và
khối NHTMCP với 41%. Khối ngân hàng nước ngoài ( gồm các ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam ) chỉ chiếm hơn 4%
tổng nợ xấu toàn hệ thống. Con số này ở khối các TCTD còn lại (chủ yếu là các công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính) là 15%.
Tỷ lệ nợ xấu theo từng khối TCTD
15%
4%
NHTMNN
40%
NHTMCP
NH nước ngoài
41%
Các TCTD khác
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Xét tỉ lệ nợ xấu so dư nợ cấp tín dụng của từng khối, số liệu cho bốn khối này lần lượt là: 3,3%,
4,7%, 2,5% và 8,8%.
9
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
Tỷ lệ nợ xấu so với dư nợ tín dụng từng khối
8.8%
4.7%
3.3%
NHTMNN
2.5%
NH nước
ngoài
NHTMCP
Các TCTD
khác
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
(ii)
Phân nợ xấu theo mức độ “xấu” - tức nhóm nợ: nợ dưới chuẩn (nhóm 3) chiếm 22%, nợ
nghi ngờ (nhóm 4) 29%, còn lại là nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) chiếm 49% tổng nợ xấu.
Chi tiết hơn, nợ nhóm 5 tập trung chủ yếu vào khối NHTMNN với 42%, và khối NHTMCP,
32%. Ngoài ra, nợ cần chú ý (nhóm 2), tuy chưa tính vào nợ xấu, nhưng bản chất đã là nợ có vấn
đề, cũng chiếm tới 6,8% tổng dư nợ cho vay.
Phân loại nợ xấu theo nhóm nợ
22%
Nhóm 3
49%
Nhóm 4
29%
Nhóm 5
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
(iii) Quan sát kết quả phân loại tín dụng theo đối tượng khách hàng: nợ xấu của
nhóm doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bao gồm các tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công
ty nhà nước, chiếm tỉ lệ khoảng 11,82% tổng nợ xấu toàn hệ thống. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu này
chưa bao gồm nợ xấu của Vinashin, nợ đã được cơ cấu lại theo Quyết định 780 của NHNN
(chiếm 9% tổng dư nợ tính đến tháng 4/2013).
10
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
Phần lớn số nợ xấu theo sổ sách còn lại thuộc về nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân và hộ
gia đình.
(iv)
Phân tín dụng theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế: nợ xấu tập trung chủ yếu ở ngành dịch
vụ và ngành công nghiệp xây dựng (chiếm 66,69% tổng dư nợ và 81,52% tổng nợ xấu của các
TCTD), cụ thể:
Công nghiệp chế biến, chế tạo: 21,15%
Bất động sản: 11,37%
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác: 16,93%
Vận tải, kho bãi: 9,43%
Xây dựng, xây lắp, vật liệu xây dựng: 10,13%
Hoạt động dịch vụ khác: 12,51%
Cơ cấu nợ xấu (04/2013)
18.48%
Công nghiệp chế biến chế tạo
Bất động sản
21.15%
12.51%
Bán buôn-bán lẻ, sửa chữa
ô tô-xe máy
Vận tải, kho bãi
11.37%
Xây dựng
10.13%
16.93%
Hoạt động dịch vụ khác
9.43%
Ngành khác
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Trong đó đáng chú ý là nợ xấu cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản (BĐS) chỉ chiếm
11,37% tổng nợ xấu. Đây rõ ràng là một con số rất kém tin cậy. Nhìn vào thực tế biến động và
bối cảnh thị trường BĐS đóng băng kéo dài, Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia nhìn nhận nợ
xấu bất động sản phải tăng cao hơn. “Nguyên nhân do chế độ báo cáo và hạch toán của các
TCTD còn nhiều bất cập, ngoài ra số liệu có ảnh hưởng bởi Quyết định 780 của NHNN”. Nhiều
khả năng để tránh sự kiểm soát của cơ quan quản lý cũng như có lợi hơn trong việc tính toán tỷ
lệ an toàn vốn (CAR), tỷ lệ nợ xấu và nhằm giảm dư nợ cho vay phi sản xuất (dưới 16%) theo
quy định, một số TCTD đã cơ cấu lại các khoản nợ cho vay BĐS sang các hình thức khác như
mua trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác đầu tư, ký quỹ, đặt cọc, các khoản phải thu khác bên
ngoài... Năm 2011, dư nợ BĐS điều chỉnh cao gấp 1,8 lần số liệu báo cáo, và tỷ lệ nợ xấu BĐS
điều chỉnh cao gấp 8,4 lần số liệu báo cáo.
11
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
Ngoài ra, nhiều khoản cấp tín dụng dưới các danh nghĩa khác nhau, được đầu tư vào lĩnh vực
BĐS hay có liên quan đến lĩnh vực phi sản xuất này
1.3.
Loại và giá trị tài sản đảm bảo
Xét trên toàn hệ thống các TCTD đến ngày 31/12/2012, 84% số nợ xấu có tài sản đảm bảo,
giá trị tài sản đảm bảo bằng 135% giá trị nợ xấu tương ứng; nợ xấu sổ sách của các khoản cấp tín
dụng được bảo đảm bằng BĐS và BĐS hình thành trong tương lai ước tính chiếm 64% tổng nợ
xấu. Như vậy, về danh nghĩa, tới 2/3 các khoản nợ xấu ngân hàng là có BĐS và BĐS hình thành
trong tương lai bảo đảm, chưa tính đến các loại tài sản bảo đảm khác. Tỉ lệ tổng giá trị tài sản
đảm bảo là BĐS ghi trên sổ sách so với số nợ xấu sổ sách tương ứng đạt mức khá cao, tới 1,8
lần.
Tuy nhiên, tỉ lệ giá trị tài sản đảm bảo cao như vậy không có nghĩa là khối nợ xấu này sẽ
được xử lí dễ dàng bằng việc xử lí tài sản đảm bảo (trường hợp này là BĐS). Vấn đề ở chỗ, giá
trị tài sản bảo đảm là BĐS cho các khoản nợ xấu cần được định giá lại theo thị trường. Ngay từ
khi định giá trị tài sản để cho vay, giá trị này đã được nâng cao hơn giá trị thực của nó, do vậy dù
có thanh lý toàn bộ tài sản đảm bảo cũng không thu hồi được nợ. Chưa kể, trong bối cảnh thị
trường BĐS tiếp tục đóng băng, giá trị BĐS suy giảm nhanh và chưa có dấu hiệu hồi phục ít nhất
tới 2015, công việc định giá lại và phát mại tài sản thế chấp trở nên quá khó khăn, chưa tính đến
yếu tố thủ tục, quy trình pháp lý. Điều này có nghĩa, ngay cả với những khoản nợ xấu có BĐS và
BĐS hình thành trong tương lai bảo đảm, tỉ lệ thu hồi vốn trong ngắn hạn sẽ vẫn ở mức rất thấp.
Ngoài ra, tài sản đảm bảo cho các khoản nợ xấu của khối DNNN không dễ xử lí do nhiều tài sản
đảm bảo hình thành từ vốn vay (như nguyên liệu, hàng hóa ... ) có tính thanh khoản thấp.
2. Tỉ lệ nợ xấu theo đánh giá của các tổ chức độc lập
Xét riêng về chỉ tiêu tỉ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng của các TCTD tại Việt Nam,
ngoài nguồn số liệu chính thức đã phân tích ở trên còn có những đánh giá độc lập từ các tổ chức
xếp hạng tín nhiệm, ngân hàng nước ngoài. Cụ thể, tỉ lệ này theo hãng đánh giá tín nghiệm Fitch
Ratings luôn gấp nhiều lần so với tuyên bố của NHNN. Vào thời điểm tháng 6/2011, tỉ lệ nợ xấu
theo NHNN là khoảng 3%, thấp hơn 4 lần so với đánh giá của Fitch Ratings là 13%. Tương tự,
vào tháng 9/2012, thời điểm mà tỉ lệ nợ xấu trở nên đáng ngờ khi số liệu thanh tra của NHNN
(8,82%) gần gấp đôi số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng ( 4,93% ), thì Fitch đưa ra đánh giá
về con số này là 15%.
Cũng vào thời gian này, hãng đánh giá tín nhiệm Moody’s đã hạ bậc tín nhiệm của trái
phiếu chính phủ Việt Nam từ B1 xuống B2. Một trong hai lí do chính được đưa ra để giải thích
cho quyết định này là do những vấn đề trong hệ thống ngân hàng; trong đó có “mức độ minh
bạch thông tin kém”, bao gồm việc đánh giá tỉ lệ nợ xấu.
Ngoài ra, có thể kể đến nhận xét của công ty chứng khoán Maybank Kim Eng Việt Nam –
thuộc tập đoàn dịch vụ tài chính Maybank Malaysia. Trước công bố của NHNN về tỉ lệ nợ xấu
giảm từ mức gần 8% cuối năm 2012 xuống 6% vào tháng 2/2013, trong báo cáo tháng 5/2013,
công ty này đánh giá con số 6% là “không đáng tin cậy”, mặc dù không đưa ra đánh giá riêng.
12
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
Tương tự, trong báo cáo nghiên cứu riêng về Việt Nam vào cuối tháng 2/2013, ngân hàng
Standard Chartered cũng nhận xét có sự “thiếu rõ ràng về tỉ lệ nợ xấu tại Việt Nam”, nguyên
nhân là do “thiếu minh bạch trong hệ thống ngân hàng, và vấn đề sở hữu chéo càng làm suy giảm
tính minh bạch”. Do đó, để đánh giá tác động của nợ xấu đến nền kinh tế, báo cáo này cũng
không đưa ra một con số thống nhất cho tỉ lệ nợ xấu mà xây dựng 4 kịch bản tương ứng với 4
mức độ nợ xấu là 5%, 10%, 15% và 20%.
Đánh giá khách quan, những con số được đưa ra trên cũng không hẳn là chính xác. Do
không có quy định quốc tế thống nhất trong việc xác định nợ xấu nên kết quả đánh giá phụ thuộc
rất nhiều vào phương pháp cũng như nguồn số liệu tiếp cận được. Các tổ chức đánh giá độc lập
cũng chỉ dựa trên những tiêu chí của bản thân họ. Mặt khác, do không thể phân loại được tất cả
các khoản vay trong hệ thống TCTD tại Việt Nam, nên các đánh giá này chỉ thông qua các hoạt
động điều tra, khảo sát một nhóm ngân hàng để có thông tin về nợ xấu sau đó suy rộng ra toàn hệ
thống. Cho nên, mẫu họ chọn để phân tích cũng là một vấn đề cần xem xét.
Tuy nhiên, những đánh giá này cũng đóng góp giá trị nhất định trong việc tìm ra thực chất của
bức tranh nợ xấu tại Việt Nam.
Thứ nhất, về tiêu chuẩn đánh giá nợ xấu: quyết định 493 của NHNN tính toán nợ xấu
theo cả hai hướng định tính và định lượng là phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, thực tế áp
dụng tại các TCTD thì chủ yếu vẫn là chỉ tiêu định lượng, tức là căn cứ tính nợ xấu từ thời điểm
khi người vay không trả được nợ, phân loại nợ xấu theo số ngày tính từ ngày người vay đáng ra
phải trả nợ. Còn theo thông lệ quốc tế thì thay vì chờ đến khi các khoản nợ không thể trả được,
họ ước đoán những công ty nào có thể không trả được nợ, nên họ xem xét quá trình hoạt động
của công ty này, họ có sử dụng tiền hợp lý không, họ quản lý tốt không, hay giá trị tài sản của họ
có giảm đi không, và tiến hành phân loại nợ ngay khi thấy khách hàng có biểu hiện khó khăn
trong việc trả nợ. Theo cách tính này thì nợ xấu sẽ được ghi nhận sớm hơn, sát thực hơn. Do đó
tại cùng thời điểm báo cáo thì con số nợ xấu theo thông lệ quốc tế sẽ cao hơn công bố của
NHNN.
Thứ hai, về việc phân loại nợ: Việc phân loại, trích lập dự phòng đang được thực hiện
theo quyết định 493 (có sửa đổi, bổ sung bằng quyết định 18/2007). Tuy nhiên, theo thời gian,
những tiêu chuẩn này đã trở nên lạc hậu, không rõ ràng. Đặc biệt, quyết định 493 cũng chưa
phản ánh được đầy đủ chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng cũng như là còn khá xa so
với tiêu chuẩn an toàn quốc tế nên không phản ánh đủ sức khỏe mà cụ thể là nợ xấu của NH.
Do đó, trong nỗ lực chuẩn hóa việc đánh giá nợ xấu, NHNN đã ban hành thông tư 02/2013/TTNHNN theo hướng nâng cao rất nhiều các tiêu chuẩn, thể hiện đúng đắn, đầy đủ hơn bản chất,
chất lượng tín dụng của TCTD. Những điểm mới có thể kể đến là đối tượng “tài sản có” được
yêu cầu trích lập dự phòng rủi ro rộng hơn như: tiền mua và ủy thác mua trái phiếu doanh
nghiệp, thẻ tín dụng, ủy thác cấp tín dụng, tiền gửi liên ngân hàng; TCTD phải gửi kết quả phân
loại nợ và cam kết ngoại bảng cho Trung tâm thông tin tín dụng để đề phòng sai lệch số liệu
phân loại nhóm nợ giữa các tổ chức tín dụng đối với cùng một khách hàng; những đơn vị nào áp
dụng phương pháp phân loại định tính thì phải kết hợp thêm phương pháp định lượng, phương
13
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
pháp nào mang lại số liệu có độ rủi ro cao hơn thì chọn phương pháp đó ... Nếu được thực hiện
nghiêm túc, Thông tư 02 sẽ đưa tiêu chuẩn đánh giá nợ xấu đến sát với thông lệ chung của quốc
tế, kéo theo đó là tỉ lệ nợ xấu tăng cao.
Tuy nhiên, chỉ vài ngày trước khi có hiệu lực, thông tư này đã bị hoãn thi hành một năm vì
lo sợ nếu áp dụng sẽ gây cú sốc nợ xấu cho toàn hệ thống các TCTD. Động thái hoãn đưa ra một
chuẩn mực chung trong việc tính toán nợ xấu càng khiến cho việc đánh giá đúng thực trạng nợ
xấu tiếp tục là câu hỏi khó trả lời.Trong khi NHNN đang trong quá trình đẩy mạnh giải quyết nợ
xấu, thì việc không thể xác định đúng và đủ nợ xấu sẽ khiến quá trình xử lý nợ xấu càng thêm
khó khăn. Với việc hoãn áp dụng Thông tư 02, các khoản nợ xấu sẽ tiếp tục được trì hoãn cho
đến khi nền kinh tế “khỏe mạnh” trở lại; ngoài ra cũng đồng nghĩa với việc trì hoãn sự minh bạch
hoá, yếu tố cần thiết để giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực ngân hàng một cách nhanh chóng.
Thứ ba, tác động của quyết định 780 trong việc phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh
kỳ hạn, gia hạn nợ: Nếu không có Quyết định 780, hệ thống ngân hàng đã không thể cơ cấu lại
các khoản nợ cho khách hàng với tổng giá trị lên tới 284,4 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 9% tổng
dư nợ của toàn hệ thống; nhờ đó mà phần lớn nợ trong số đó chưa thành nợ xấu. Các tổ chức
đánh giá độc lập, dựa trên những câu chuyện của Vinashin, Vinalines mà nhận định rằng có thể
còn những trường hợp tương tự như vậy đang ẩn mình trong nền kinh tế. Như vậy, quyết định
780 về thực chất chỉ là biện pháp kỹ thuật nhằm tạm thời loại bỏ khối nợ xấu lớn khỏi hệ thống,
bản chất đó vẫn là những khoản nợ đã “chết” nên không có lí do gì để không tính vào khối nợ
xấu của nền kinh tế.
3. Nguyên nhân hình thành nợ xấu
3.1.
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
Thứ nhất, kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao và hiện nay là suy giảm tốc
độ tăng trưởng kinh tế trong nước. Do đó môi trường kinh doanh và hoạt động ngân hàng gặp
nhiều khó khăn, làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh. Các DN làm ăn
thua lỗ, nhất là DNNN. Đây là nhóm có nhiều thuận lợi trong tiếp cận tín dụng và chiếm thị phần
lớn trong tổng dư nợ tín dụng của toàn thể nền kinh tế. Phần nợ xấu lớn thứ hai (sau DNNN) là
xuất phát từ một số DN tư nhân lớn, trong đó tập trung chủ yếu là các khoản vay đầu tư bất động
sản (BĐS), chứng khoán, đầu tư ngoài ngành ...
Hầu hết các DN, nhất là DNNN đều có chi phí vốn vay lớn, thậm chí quá lớn, trong khi doanh
thu giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước dẫn đến mất cân bằng về tài chính. Tỷ lệ sinh lời của
tài sản nhỏ hơn lãi suất vay, hiệu quả kinh doanh thấp, tài chính kém lành mạnh, khả năng ứng
phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh hạn chế. Khi phải đối diện với những khó khăn lớn
của kinh tế trong - ngoài nước như sức mua kém, tồn kho lớn, doanh thu giảm sút, DN không có
nguồn để trả nợ cả gốc và lãi thì các khoản vay ngân hàng vì thế mà trở thành nợ xấu là lẽ đương
nhiên.
14
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
Thứ hai, nhiều công ty dùng nợ ngắn hạn đầu tư dài hạn. Khi đang gặp khó khăn về vốn,
việc DN lấy vay ngắn hạn cho đầu tư dài hạn là khá phổ biến. Việc sử dụng vốn sai nguyên tắc
(dùng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn) là con đường ngắn nhất dẫn tới nợ quá hạn, nợ xấu cho DN
và hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, nhiều công ty dùng vốn vay đầu tư ra ngoài ngành, đặc biệt vào BĐS. Theo báo
cáo của các TCTD, vào thời kỳ đỉnh cao, tổng dư nợ cho vay BĐS chiếm khoảng 10% tổng dư
nợ tín dụng của cả nền kinh tế (năm 2011). Một nghiên cứu của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc
gia cũng cho thấy tại thời điểm tháng 6/2011, dư nợ BĐS chiếm 9,95% tổng dư nợ, tương đương
245.000 tỉ đồng. Trong bối cảnh thị trường BĐS vừa đóng băng, vừa suy giảm, thì đây là nguy
cơ vừa làm mất vốn, vừa làm mất khả năng thanh toán của DN.
3.2.
Nguyên nhân từ cơ chế xử lý nợ xấu
Đây là nhóm nguyên nhân xuất phát từ tiêu thức phân loại nợ, tài sản đảm bảo và đạo đức kinh
doanh, đã được phân tích ở trên.
4. Kết luận
Tóm lại, con số thống kê có thể khác nhau tùy theo quan điểm đánh giá, chúng ta hoặc có
thể tin tưởng vào công bố của NHNN rằng nợ xấu vẫn còn trong tầm kiểm soát, hoặc lo lắng
trước những đánh giá tiêu cực từ các tổ chức độc lập; nhưng dù thế nào vẫn không thể phủ nhận
thực tế rằng nợ xấu đang là “cục máu đông” làm tắc nghẽn nền kinh tế. Nếu bỏ qua những số liệu
thống kê nợ xấu mà nhìn vào tình hình thực tiễn nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2013, một
cách tổng quan, sức cầu vẫn thấp và trong ngắn hạn khả năng hồi phục thoát đáy vẫn chưa rõ
ràng. Kể từ tháng 3, tăng trưởng tín dụng đã có bước đột phá rõ nét khi trung bình mỗi tháng
tăng được khoảng 1,5% dù 2 tháng trước đó đều có mức tăng trưởng âm. Tính đến cuối tháng 6,
tín dụng đã tăng trưởng được 4,5%, đặc biệt tăng mạnh 7,55% đối với VND, một con số rất khả
quan trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng này xuất phát từ phía các
NHTMCP đẩy mạnh cho vay tiêu dùng, tức là tín dụng vẫn chưa chảy vào sản xuất kinh doanh.
Như vậy, nền kinh tế vẫn đang vận hành một cách chậm chạp, nguồn vốn vẫn ứ đọng, mà
nguyên nhân không nhỏ vẫn từ tác động của khối nợ xấu. Nếu đưa ra một nhận xét khách quan
thì thực trạng nợ xấu tại Việt Nam vẫn rất đáng lo ngại, luôn tiềm ẩn rủi ro bùng phát, cần có sự
quan tâm điều hành sát sao.
PHẦN III: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH Ý TƯỞNG THÀNH LẬP
VAMC
1. Các phương thức xử lý nợ xấu hiện hữu ở Việt Nam và mô hình công ty
quản lý tài sản quốc gia(AMC)
Xử lý nợ xấu trước hết là trách nhiệm của các TCTD, nhà nước chỉ can thiệp khi các TCTD
không thể tự xử lý được. Và dù áp dụng bằng hình thức nào (như thu nợ trực tiếp từ khách nợ,
bán lại nợ, cơ cấu lại nợ...) cũng phải tôn trọng nguyên tắc thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh tế
15
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
cho các bên tham gia, đồng thời nhằm khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho các DN,
vì đây là khách hàng của TCTD, bởi vì các TCTD chỉ phát triển, ổn định và có hiệu quả khi các
khách hàng của mình hoạt động có lãi. Nhưng xử lý nợ xấu không có nghĩa là cứu cả các TCTD
yếu kém, mà đây là một cơ hội loại bỏ các TCTD và ngân hàng yếu kém (giải thể, phá sản, sáp
nhập...). Chỉ những TCTD nào có đủ năng lực mới được tồn tại và phát triển. Điều đó có nghĩa là
trong giai đoạn hiện nay, xử lý nợ xấu có thể coi là công cụ để tái cơ cấu lại các TCTD, đồng
thời ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ hệ thống, ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế.
1.1.
Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu về phía các tổ chức tín dụng
Thứ nhất, đối với các TCTD tính thanh khoản chưa đe dọa sự an toàn của cả hệ thống:
Phải tự xử lý thông qua các biện pháp đã và đang làm như: bán nợ, đòi trực tiếp, thanh lý tài sản
thế chấp, sử dụng quỹ dự phòng bù đắp các khoản nợ không thu hồi được, hoặc chuyển nợ thành
vốn góp nếu thấy khách hàng nợ có tương lai phát triển.
Thứ hai, đối với các TCTD yếu kém, có nguy cơ mất khả năng thanh khoản: biện pháp khả
thi là sáp nhập, hoặc giải thể. Các tổ chức này có thể đi tìm, hoặc bị sáp nhập một cách cưỡng
bức bởi một TCTD đủ mạnh. Nếu không sáp nhập được thì các TCTD này sẽ bị đặt trong điều
kiện kiểm soát đặc biệt của NHNN, nhằm từng bước xử lý các tồn đọng để đi tới giải thể. Do quy
mô tín dụng ngày một lớn, bản thân các TCTD phải có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động,
giảm thiểu rủi ro hoạt động để ngăn ngừa nợ xấu xuất hiện trở lại, như ban hành đầy đủ quy trình
cho vay, năng cao năng lực quản trị, điều hành, quản trị rủi ro.
1.2.
Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu về phía Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cần phải có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về quy mô và cơ
cấu của nợ xấu hiện nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp cụ thể cho từng TCTD.
Xử lý nghiêm hành vi che dấu nợ xấu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung về cách phân loại nợ, trích lập
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong các
trường hợp cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng sai chế độ. Đồng thời
có cơ chế buộc các TCTD trong một thời gian phải đưa nợ xấu xuống một giới hạn nhất định.
Đối với các TCTD có quy mô lớn, ảnh hưởng nhiều tới sự an toàn của cả hệ thống cũng
như nền kinh tế và an sinh xã hội, có khả năng phát triển tiếp, sau khi tự giải quyết nợ xấu vẫn
còn ở mức cao, sẽ được NHNN bơm vốn để hỗ trợ, dưới hình thức góp vốn nhưng lại được
hưởng lãi cố định (như cổ phiếu ưu đãi) và ngân hàng có thể rút vốn về khi tổ chức này đã phục
hồi.
1.3.
Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu về phía Bộ Tài chính
Từ 2003 đến nay, Bộ tài chính đã sử dụng DATC như một công cụ quan trọng để xử lý các
khoản nợ và tài sản tồn động của doanh nghiệp nhà nước nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa,
16
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
đổi mới, tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Với nguyên tắc kinh
doanh có hiệu quả, DATC mua lại các khoản nợ có tài sản đảm bảo, theo cơ chế thị trường. Việc
sử dụng DATC xử lý nợ xấu chỉ có hiệu quả khi hoạt động mua bán nợ gắn với mục tiêu tái cấu
trúc doanh nghiệp, tái cơ cấu lại nợ nhằm khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho các
khách nợ. Nguyên tắc này phải được tôn trọng, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi có sự tác
động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế. Để DATC có thể làm được nhiệm vụ này thì việc nâng
cao năng lực (tài chính, tổ chức, kỹ năng...) là việc làm cần thiết, như chính sách giảm thuế thu
nhập DN cho hoạt động mua bán nợ xấu, giảm thuế giá trị gia tăng cho hoạt động bán tài sản
đảm bảo để thu hồi nợ, đào tạo và nâng cao kỹ năng phân tích tài chính, xác định giá trị tài sản
thế chấp, kỹ năng xử lý nợ... cho đội ngũ cán bộ chuyên trách.
1.4.
Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu về phía các doanh nghiệp
Nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý, bố trí vốn đúng nguyên tắc, sử
dụng vốn có hiệu quả, ổn định lượng tiền mặt cần thiết cho cán cân thanh toán, cân đối hệ số vốn
vay trên vốn chủ (D/E) không vươt quá trung bình của ngành, thường xuyên đánh giá thực trạng
tài chính của doanh nghiệp thông qua các tỷ số tài chính đặc trưng để đưa ra các kiến nghị cảnh
báo về tình hình tài chính là giải pháp trước mắt cũng như lâu dài xử lý và ngăn ngừa nợ xấu.
Thực hiện tái cơ cấu DNNN (là nhóm khách hàng có số dư nợ lớn nhất của ngân hàng), mà
trọng tâm là tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp hiện nay đang tiến hành theo đề án mà Chính phủ
đã phê duyệt, nhằm nâng cao năng lực của các DNNN được coi là giải pháp tích cực. Xử lý nợ
xấu, tái cơ cấu các TCTD, các ngân hàng phải đi đôi với việc tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp.
Không thể tồn tại một hệ thống ngân hàng mạnh trên cơ sở một nền kinh tế có các doanh nghiệp
yếu kém.
1.5.
Về sự cần thiết của mô hình công ty quản lý tài sản quốc gia (AMC)
Trên thực tế, Việt Nam đã thành lập Công ty mua bán nợ và tài sản tồn động (DATC) thuộc
Bộ Tài chính để thực hiện sứ mệnh giúp lành mạnh hóa tài chính của DNNN, đồng thời thúc đẩy
quá trình sắp xếp và chuyển đổi DNNN. Tuy nhiên, căn cứ vào diễn biến nợ xấu hiện nay, thì
chủ của các món nợ xấu không còn giới hạn trong khu vực DNNN, dù đây là thành phần cần
được xử lý chính yếu. Do đó, việc xây dựng một công ty theo hướng AMCs, dù là thuộc cơ quan
nào, đơn vị nào, thì cũng cần được nghiên cứu cơ chế xử lý thực sự có hiệu quả và phù hợp với
tình hình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Hơn nữa, mô hình AMC tập trung mang
tính khả thi cao do nhiều ngân hàng không đủ nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu
khổng lồ của mình thông qua các đơn vị trực thuộc hay các công ty con và cơ sở pháp lý của
Việt Nam vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu so với các chuẩn mực thế giới. Các AMC được thành lập
với mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng kèm theo cấu trúc chặt chẽ sẽ là tiền đề cho hy vọng mang lại
hiệu quả hoạt động cần thiết trong việc giải quyết vấn đề nợ xấu trong nền kinh tế hiện nay. Dựa
17
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
vào các nhiệm vụ ưu tiên đã được hoạch định sẵn, định chế AMC có thể hoạt động với chức
năng là một công cụ thanh lý nhanh các khoản nợ xấu và các tài sản khác kèm theo hoặc tái cấu
trúc (trong trung hạn) hệ thống các doanh nghiệp có trong danh mục nợ xấu mà AMC quản lý.
2. Thực tiễn từ sự hình thành và hoạt động của các AMC ở một số nước
trong khu vực Châu Á- Hàm ý cho Việt Nam
Phần lớn các AMC công tại các nước Đông Á trong thời kỳ khủng hoảng tài chính khu vực
(1997) đã được xây dựng theo mô hình đa mục tiêu: gấp rút bán, thanh lý nợ xấu đồng thời với
thực hiện tái cấu trúc. Tại Hàn Quốc, vai trò tái cấu trúc doanh nghiệp của KAMCO trong quá
trình giải quyết một danh mục nợ xấu khổng lồ là rất rõ ràng, cho dù nhiệm vụ mấu chốt được đề
ra ngay từ khi AMC này được thành lập là giải quyết nợ xấu trong nền kinh tế càng sớm càng tốt.
Tại Malaysia, mặc dù có một cơ quan riêng tập trung vào tái cấu trúc doanh nghiệp (CDRC),
nhưng AMC công tại quốc gia này là Danaharta đã vẫn tham gia một cách gián tiếp và trực tiếp
vào quá trình tái cơ cấu phức tạp này.
Tại các quốc gia khác trong khu vực Đông Á trong giai đoạn khủng hoảng này, danh mục
các nhiệm vụ chính của AMC được đúc kết từ kết quả của việc thực thi các chính sách đặt ra
ngay từ đầu khi thành lập. Tiêu biểu như Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng tại Indonesia (IBRC)
được thành lập ngay từ năm 1998 với mục tiêu ban đầu là tập trung hơn vào tái cấu trúc doanh
nghiệp. Tuy nhiên, trước áp lực phải nhanh chóng thanh lý các khoản nợ xấu để tài trợ cho một
ngân sách ngày càng bị thâm hụt, cơ quan này đã phải tiến hành bán các khoản nợ xấu chưa được
tái cấu trúc kể từ đầu năm 2002. Tương tự, AMC tại Trung Quốc, sau bốn năm giành rất nhiều
thời gian và nguồn lực cho việc tái cấu trúc hàng trăm doanh nghiệp nhà nước cỡ lớn (chiếm
khoảng 1/3 tổng giá trị các khoản nợ xấu được bốn AMC này mua) chủ yếu thông qua nghiệp vụ
biến các khoản nợ thành cổ phần tại các doanh nghiệp, bốn AMC công của Trung Quốc sau đó
đã tập trung hơn vào việc bán và thanh lý các khoản nợ xấu thông qua các công cụ khác nhau.
Trong khi đó tại Nhật Bản, do được xây dựng với vai trò là một cơ quan thu gom nợ xấu, AMC
công của quốc gia này (RCC) đã chỉ áp dụng một biện pháp chính là tập trung tối đa thu hồi các
khoản nợ xấu. Chỉ sau khoảng ba năm kể từ ngày thành lập thì vai trò tham gia vào việc tái cấu
trúc doanh nghiệp mới được thêm vào trong chức năng hoạt động của RCC.
2.1.
Các loại mô hình công ty quản lý tài sản
Tại các quốc gia trên thế giới, có nhiều loại mô hình công ty mua bán nợ: Công ty do nhà
nước góp vốn hoặc công ty do tư nhân góp vốn. Đối với các công ty mua bán nợ tư nhân, một số
thì hoạt động độc lập, một số khác là công ty con của các ngân hàng hoặc đơn vị hoạt động trực
thuộc ngân hàng. Đối với các công ty xử lý nợ của nhà nước thì thường hoạt động khá hiệu quả
khi vấn đề nợ xấu mang tính hệ thống và khung pháp lý đối với việc xử lý nợ vẫn còn yếu. Có
những lúc trên thị trường, các khoản nợ xấu không có người mua thì công ty xử lý nợ của nhà
18
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
nước có thể là nơi tiêu thụ các khoản nợ xấu nói này, và khi khung pháp lý cho việc xử lý nợ xấu
chưa được chặt chẽ thì công ty xử lý nợ của nhà nước có thể giúp rút ngắn được quy trình xử lý
nợ. Hơn nữa, việc Chính phủ mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng thông qua các công ty xử
lý nợ của nhà nước có thể tạo ra cơ hội cho Chính phủ áp đặt các điều kiện giúp các ngân hàng
tái cấu trúc lại vấn đề tài chính và cơ cấu hoạt động của mình.
Xét ở một khía cạnh khác, việc thiết lập các công ty xử lý nợ tập trung của nhà nước đòi
hỏi Chính phủ phải đầu tư với số lượng vốn lớn. Điều này khiến nhiều quốc gia có khủng hoảng
nợ xấu miễn cưỡng thiết lập các tổ chức xử lý nợ tập trung này. Chẳng hạn, Thái Lan là nước
phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ rất lớn trong năm 1997, song đến năm 2001 đất nước này
mới thành lập được công ty xử lý nợ tập trung. Thông thường, các công ty quản lý nợ tập trung
là những cơ hội cho việc can thiệp chính trị và nó cũng thiếu tính linh hoạt hành chính trong việc
quản lý các tài sản do có sự cấu kết bên trong giữa các bên liên quan. Nếu các công ty xử lý nợ
tập trung của nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thì chúng phát sinh chi phí hoạt động rất lớn
cũng như làm tiêu hao tài sản chưa được thanh lý và chưa được cơ cấu lại qua thời gian. Việc
thiếu nguồn nhân lực cũng là một trở ngại lớn cho thiết lập các công ty xử lý nợ tập trung.
Ngược lại, do ít chịu sự chi phối trong quá trình ra quyết định, các công ty xử lý nợ tư nhân
thường linh hoạt trong quản lý hơn các công ty quốc doanh. Đối với các đơn vị trực thuộc ngân
hàng hay các công ty con của ngân hàng, việc cơ cấu nợ cũng dễ dàng hơn nhiều, do các đơn vị
này đã có sẵn hồ sơ có liên quan đến các khoản nợ và các con nợ. Nếu các công ty xử lý nợ tư
nhân này có đủ nguồn nhân lực có kỹ năng và kinh nghiệm trong việc quản lý các khoản nợ xấu,
thì họ có thể làm gia tăng giá trị của các khoản nợ này. Kết quả là, họ sẽ bán ở mức cao hơn. Tuy
nhiên, nếu môi trường pháp lý có khuynh hướng ủng hộ các con nợ, thì các công ty xử lý nợ tư
nhân có thể phải gặp rắc rối trong các cuộc thương thảo về cơ cấu nợ. Việc này sẽ làm phát sinh
chi phí hoạt động, đặc biệt trong các trường hợp mà việc trì hoãn có thể dẫn đến làm thất thoát
hoặc hư hỏng các tài sản đang chờ xử lý. Trong khi đó, các công ty xử lý nợ quốc doanh có thể
bỏ qua dễ dàng các thiếu sót về khung pháp lý thông qua các quyền hạn đặc thù. Đặc biệt, ở các
quốc gia đang phát triển, công ty xử lý nợ quốc doanh có thể quản lý tốt quá trình kiểm soát các
nguồn hơn là các công ty tư nhân.
Một bất lợi khác đối với các công ty xử lý nợ tư nhân (đặc biệt nếu đó là một công ty con
của ngân hàng) là điều mà các ngân hàng mẹ có thể sử dụng nó để che đậy các vấn đề về nợ xấu
bằng cách chuyển hết nợ sang công ty xử lý nợ của mình ở các mức giá giả tạo cao hơn. Hậu quả
là, do giá chuyển đổi cao sẽ ít hoặc không phản ánh các khoản thua lỗ của ngân hàng, nên việc
mua lại nợ xấu bởi các công ty con của ngân hàng có thể xem tương đương với một khoản cứu
trợ tài chính của các cổ đông ngân hàng. Hoặc, nếu các cổ đông ngân hàng và công ty xử lý nợ là
như nhau thì quá trình chuyển giao tài sản sẽ trở thành một cuộc tái cấu trúc ngân hàng hình
thức, được thực hiện duy nhất chỉ để đáp ứng các điều khoản pháp lý nào đó đối với tỷ lệ nợ xấu,
nhưng chưa giải quyết được các vấn đề của hệ thống ngân hàng. Nếu không được giám sát chặt
19
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
chẽ thông qua các báo cáo được kiểm toán thì các nhà quản lý ngân hàng có thể lại tiếp tục tài trợ
các hoạt động rủi ro cao.
2.2.
Một số điểm nổi bật của các công ty xử lý nợ ở châu Á
Trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính ở châu Á, Chính phủ các nước như: Indonesia,
Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành lập các công ty quản lý tài sản (AMCs) tập trung để
xử lý nợ, thu hồi và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Các quốc gia này đã thiết lập Cơ
quan tái cấu trúc ngân hàng Indonesia (IBRA), Tổ chức xử lý nợ quốc gia Malaysia
(DANAHARTA) và Công ty Quản lý tài sản Hàn Quốc (KAMCO). Riêng Thái Lan ban đầu chỉ
thành lập Cơ quan tái cấu trúc tài chính (FRA) để xử lý các vấn đề của các công ty tài chính. Đến
năm 2001, Thái Lan mới chính thức thành lập Công ty quản lý tài sản (TAMC).
Đặc điểm chung của 4 công ty xử lý nợ ở châu Á là được Chính phủ tài trợ vốn và tổ chức
tập trung hơn việc sử dụng một mô hình chỉ dựa vào ngân hàng. Điều này có lẽ là do tính chất
đặc thù có hệ thống về các vấn đề ngân hàng và quy mô nợ xấu. Trong trường hợp của 4 quốc
gia (Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc) bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính
năm 1997, Chính phủ các nước này đã áp dụng hình thức mua sỉ tất cả các khoản cho vay có vấn
đề và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Mô hình AMC tập trung mang tính khả thi cao
do nhiều ngân hàng không đủ nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu khổng lồ của mình
thông qua các đơn vị trực thuộc hay các công ty con của ngân hàng. Hơn nữa, cơ sở pháp lý so
với các chuẩn mực thế giới vẫn còn nghèo nàn lạc hậu trong các quốc gia này cũng góp phần tạo
ra sự cần thiết phải có AMCs tập trung. AMC ở các nước châu Á chỉ hoạt động trong một số
năm nhất định nào đó. Ngoại trừ KAMCO của Hàn Quốc cho phép gia hạn thời gian hoạt động,
IBRA đã chấm dứt hoạt động năm 2004, DANAHARTA năm 2005 và TAMCO năm 2011. Với
thời gian hoạt động có giới hạn, thời gian bổ nhiệm các vị trí quản lý tại các công ty xử lý nợ
cũng theo nhiệm kỳ, việc xử lý tài sản cũng được xác định rõ, vì thế, chi phí mà Chính phủ chi
tiêu cho các công ty xử lý nợ cũng bị hạn chế. Các công ty xử lý nợ tập trung cũng có các quyền
hạn đặc biệt để cắt giảm các thủ tục pháp lý (ngoại trừ KAMCO). Ví dụ, trường hợp của
DANAHARTA - có quyền xử lý tất cả các khoản nợ xấu chuyển giao mà không cần phải xin
phép các chủ tài sản. TAMCO cũng sử dụng quyền hạn của mình để buộc các con nợ phải ngồi
vào bàn đàm phán cho việc thanh toán các khoản nợ vay của mình. KAMCO thì không có thể
hiện rõ đặc quyền của mình, có thể một phần là do cơ sở pháp lý của Hàn Quốc hoàn thiện hơn
cơ sở pháp lý của các nước còn lại.
Liên quan đến việc lựa chọn tài sản để xử lý, AMC có những chiến lược riêng cho mình.
IBRA tiếp nhận tất cả các khoản nợ xấu của ngân hàng mà không có sự lựa chọn nào trước cả.
Việc này là do IBRA thực hiện theo chỉ định của Chính phủ trong chương trình hỗ trợ các ngân
hàng vượt qua khủng hoảng, bao gồm hỗ trợ thanh khoản, tái cấu trúc ngân hàng, xử lý nợ xấu,
và ổn định các cổ đông ngân hàng. Các tài sản được mua lại với mức giá trị đủ, nhưng Chính phủ
20
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22
GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
- Xem thêm -