MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Động cơ là hiện tượng tâm lý phức tạp, có ý nghĩa đối với cá nhân.
Động cơ thúc đẩy con người hành động, thúc đẩy con người có những hành vi
ứng xử nhất định. Với tư cách là cái thúc đẩy con người hoạt động, động cơ
gắn liền với sự thoả mãn các nhu cầu được phản ánh trong tâm lý con người,
trở thành động lực thôi thúc con người hoạt động.
Động cơ là cái khơi dậy tính chủ thể và xác định xu hướng hoạt động
của chủ thể. Các nhà tâm lý học trên thế giới đều nhấn mạnh tầm quan trọng
đặc biệt của động cơ đối với hoạt động của con người, đối với sự phát triển nhân
cách của con người. Nhà tâm lý học Nga, A.N.Leonchiev đã khẳng định:“ Sù
phát triển nhân cách của con người biểu thị về mặt tâm lý học trong sự phát
triển về mặt động cơ của nhân cách”. Macxim gooki, nhà văn người Nga, người
hiểu biết sâu sắc về con người đã viết:“ Ở trên đời này, không có gì quan trọng
hơn và đáng chú ý hơn là những động cơ hành động của con người”.
Trong qu
Trong quá trình học tập, muốn nâng cao kết quả học tập thì phải
hình thành động cơ học tập đúng đắn cho mỗi cá nhân. Động cơ là cái thúc đẩy
học viên ham thích, là cái liên quan đến những cảm giác vui thích do lao động
trí óc đem lại. Như vậy, nếu học viên có hứng thó với việc học thì học viên sẽ
hình thành động cơ học tập gắn với việc hoàn thiện tri thức. Đây chính là động
cơ có ý nghĩa tích cực trong hệ thống các động cơ học tập. Vì thế, trong quá
trình đào tạo thì phải hình thành động cơ học tập cho học viên một cách đúng
đắn.
Với vị trí là đơn vị hành chính cơ sở, cấp cuối cùng trong hệ thống
hành chính bốn cấp của nhà nước Việt Nam, cấp xã (xã, phường, thị trấn ) giữ
vai trò nền tảng, quyết định việc hiện thực hoá sự lãnh đạo, quản lý của Đảng
và Nhà nước về mọi mặt ở cơ sở, quyết định sự phát triển của phong trào
quần chúng ở địa phương. Đồng thời đây cũng là nguồn quan trọng, cung cấp
cán bộ cho các cấp trên ở cơ sở. Do đó việc xây dựng đội ngò cán bộ cấp xã,
1
đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng luôn giữ một tầm quan trọng đặc biệt.
Công tác giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận quan trọng trong
công tác tư tưởng của Đảng. Trong những năm qua, công tác giáo dục lý luận
chính trị đã có nhiều cố gắng đổi mới cả về nội dung, hình thức và phương
pháp, góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác giáo dục lý luận
chính trị cũng còn một số hạn chế, yếu kém: một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên chưa chịu khó học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ... Vì vậy, một
đòi hỏi bức xúc đặt ra là cần phải đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị
mà trước hết là đổi mới về phương pháp, kiện toàn cơ chế quản lý, nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục lý luận chính trị.
Qua thực tế đào tạo tại trường chính trị tỉnh Hà Nam, chóng tôi nhận
thấy một bộ phận học viên tích cực, hăng say học tập. Kết quả học tập của các
học viên luôn đạt được điểm tốt. Một bộ phận khác học thụ động, học vì điểm,
học để lấy bằng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do
động cơ đi học ở những học viên này là khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những
yếu tè ảnh hưởng đến động cơ đi học lý luận chính trị của học viên, qua đó đề
xuất một sè biện pháp giúp học viên tự điều chỉnh động cơ đi học một cách đúng
đắn, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học viên là yêu cầu bức thiết.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn
nghiên cứu đề tài: "Động cơ đi học lý luận chính trị của học viên trường
chính trị tỉnh Hà Nam".
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu động cơ đi học lý luận chính trị của học viên trường chính
trị tỉnh Hà Nam, tìm hiểu yếu tè ảnh hưởng tới động cơ đi học. Trên cơ sở đó
đề xuất một sè biện pháp giúp học viên tự điều chỉnh động cơ đi học lý luận
chính trị một cách đúng đắn.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Động cơ đi học lý luận chính trị của học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam.
2
3.2 Khách thể nghiên cứu
Đối tượng điều tra là 239 học viên (Nam: 128 học viên; Nữ :111 học
viên), trong đó:
- Líp trung cấp lý luận chính trị Thanh vận hình thức học tại chức
(2006 - 2008), tổng số 48 học viên.
- Líp trung cấp lý luận chính trị TC12 hình thức học tại chức(2006 2008), tổng số 60 học viên.
- Líp trung cấp lý luận chính trị TC11 hình thức học tại chức(2006 2008), tổng số 71 học viên.
- Líp trung cấp lý luận chính trị K8 hình thức học tập trung (2006 2008), tổng số 50 học viên.
4. Giả thuyết khoa học
Việc đi học lý luận chính trị của học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam
bởi nhiều động cơ khác nhau. Các động cơ được sắp xếp theo một hệ thống
thứ bậc. Trong đó động cơ nhận thức chiếm ưu thế, các động cơ khác chiếm
vị trí Ýt quan trọng hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về động cơ và động cơ đi học
lý luận chính trị.
5.2. Tìm hiểu thực trạng động cơ đi học lý luận chính trị của học viên
trường chính trị tỉnh Hà Nam.
5.3. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ đi học lý luận
chính trị của học viên, qua đó đề xuất một sè biện pháp giúp học viên tự điều
chỉnh động cơ đi học lý luận chính trị một cách đúng đắn.
6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Vì thời gian có hạn nên chúng tôi coi nhiệm vụ thứ 2,3 là nhiệm vụ
chính của đề tài. Chúng tôi chỉ nghiên cứu học viên học hệ trung cấp chính trị.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng ba nhóm phương pháp
3
nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra viết
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
- Phương pháp đàm thoại
7.3. Phương pháp thống kê toán học
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ VÀ ĐỘNG CƠ ĐI HỌC
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề động cơ hoạt động là vấn đề trung tâm của tâm lý học. Đây là
vấn đề có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy, kích thích hoạt động của cá
nhân. Động cơ hoạt động đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu. Mỗi
trường phái, mỗi nhà tâm lý học có cách nhìn nhận động cơ ở khía cạnh khác
nhau, nhưng lại thống nhất về vai trò, chức năng của động cơ. Những kết quả
nghiên cứu đó đã góp phần rất lớn cho sự phát triển của khoa học tâm lý.
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
* Nghiên cứu của các nhà tâm lý học Phương Tây
Ngay từ đầu, các nhà tâm lý học phương Tây đã chú ý đến hiện tượng tâm
lý thúc đẩy hành vi con người và đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau
về động cơ.
+ Trường phái phân tâm học
Đứng đầu là S.Freud(1856 - 1939), ông đã tuyệt đối hoá vai trò của bản
năng, coi đó là động lực cơ bản của hành vi con người. Trong tác phẩm “Ba
tiểu luận về lý thuyết tính dục”, tác giả đã khẳng định năng lượng “libido” là
căn nguyên, cội nguồn của mọi hành vi con người.
Năm 1920, trong tác phẩm “ Mặt bên kia của nguyên tắc thoả mãn”và
sau đã là “Tôi và nó”, S.Freud đã trình bày mô hình nhân cách với cấu trúc ba
bộ phận:
Cái Êy (id)
cái tôi (ego)
Siêu tôi (Superego)
Freud đã xem xét con người nói chung và vấn đề động cơ nói riêng
dưới góc độ sinh vật thuần tuý mà chưa chú ý đến bản chất xã hội của nó.
A.Adler (1870 - 1937) đã đưa ra ý kiến thay yếu tố bản năng tình dục
5
bằng yếu tố quyền lực. Theo ông, động lực cơ bản của hành vi con người là ý
chí quyền lực, ý chí hùng mạnh.
Một sè ý kiến trong trường phái phân tâm mới như R.Horney, E.Fromm
đã bắt đầu chú ý đến sự ảnh hưởng của xã hội tới hành vi của con người.
Trong cách giải thích của họ thì yếu tố bản năng vẫn còn bộc lé vai trò chủ
đạo đối với việc thúc đẩy hành vi con người.
+ Trường phái tâm lý học hành vi
Đại diện là J.Watson (1878 - 1958) cho rằng: phải lấy hành vi làm đối
tượng nghiên cứu của mình.
Thuyết hành vi cổ điển (J.Watson) chủ trương đi tìm mô hình động cơ
và những quy luật của nó trong việc nghiên cứu động vật và sử dụng những
kết quả thu được để giải thích hành vi con người, đưa đến lý do giải thích
hành vi con người theo công thức S - R(kích thích – phản ứng). Đồng thời,
tính tích cực, tính chủ thể của con người sống thực đã bị tước bỏ. Điều này
dẫn đến kết luận: không cần thiết phải nghiên cứu động cơ. Có thể nói thuyết
hành vi cổ điển chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề động cơ.
Chủ nghĩa hành vi mới(E.Tolman, K.Hull, B.F.Skinner) muốn nghiên
cứu khâu trung gian giữa S và R mà chủ nghĩa hành vi cổ điển bỏ qua. Các
tác giả này cho rằng, yếu tố trung gian bao gồm ý định, chương trình, hình
ảnh, tri thức, kỹ xảo. Tuy nhiên, cái quy định động cơ vẫn là những kích thích
vật lý từ bên ngoài và những nhu cầu của cơ thể lúc tiếp nhận kích thích đó.
Chủ nghĩa hành vi mới tuy chưa giải thích thấu đáo về động cơ, nhưng
đã để lại một bước tiến trong lịch sử tâm lý học khi nghiên cứu hiện tượng
tâm lý - động cơ.
+ Dòng phái tâm lý học nhân văn
Đại diện tiêu biểu của dòng phái này là A.Maslow, C.Rogers.
Các tác giả này lấy nhân cách làm đối tượng nghiên cứu của mình,
điểm xuất phát là xem nhân cách như là hệ thống trọn vẹn, với cái tôi vốn
6
có, bẩm sinh.
A.Maslow, trong thuyết “Tù khẳng định” đã cho rằng:“ Động lực
chính của nhân cách là mong muốn trở thành cái nó có thể thực hiện bằng
tất cả khả năng, ý chí của mình”. Ông đã xây dựng hệ thống thứ bậc gồm
có 5 loại nhu cầu:
- Nhu cầu sinh lý: nhu cầu thoả mãn đói, khát, sinh dục, những nhu
cầu này mang tính chất bản năng, có cả ở động vật.
- Nhu cầu an toàn: nhu cầu về sự yên ổn, trật tự, an ninh.
- Nhu cầu yêu thương, nhu cầu lệ thuộc.
- Nhu cầu tự thực hiện nh nhu cầu sáng tạo, nhu cầu hiểu biết, nhu cầu
tri thức, nhu cầu nghệ thuật.
- Nhu cầu được thừa nhận: nhu cầu thành đạt.
Điểm nổi bật trong lý là A.Maslow đã tìm ra mối quan hệ gắn bó giữa
nhu cầu và động cơ. Điều này có ý nghĩa lớn cho việc tìm hiểu về động cơ
hoạt động của con người.
+ Tâm lý học Ghestal
Tâm lý học Ghestalt ra đời vào 1913 do M.Wertheimer (1880 - 1943),
V.Kohler(1887 - 1967) và K.Koffka(1886 - 1941) xây dựng nên. Trường
phái này chủ yếu nghiên cứu về tri giác và các quy luật của nó, ngoài ra còn
nghiên cứu một phần về tư duy.
K.Lewin - mét trong những đại diện của trường phái này đã chú ý
nhiều hơn đến vấn đề nhân cách, vấn đề động cơ.
Ông và các cộng sự đã lấy khái niệm“trường tâm lý” để làm cơ sở
nghiên cứu tâm lý người, trong đó có vấn đề về động cơ.
Tóm lại: Các nhà tâm lý học phương Tây đã có nhiều quan niệm về
nguồn gốc, hệ thống những động lực thúc đẩy và định hướng hoạt động của
con người. Mặc dù có cách lý giải khác nhau song các nhà tâm lý học đều
thừa nhận rằng: Hoạt động của con người phải do những động lực thúc đẩy và
hướng tới những mục đích nhất định của cuộc sống. Đó là những đóng góp rất
7
đáng trân trọng trong lĩnh vực nghiên cứu động cơ của con người. Tuy nhiên,
các tác giả khi xác định bản chất của động cơ, phần lớn nghiêng về bản năng
sinh vật. Quan niệm về động cơ còn bó hẹp trong năng lượng thuần tuý vốn
có của con người.
* Nghiên cứu của các nhà tâm lý học Xô Viết
Vấn đề động cơ trong tâm lý học mác xít được giải quyết trên cơ sở
triết học, chứa đựng trong các luận điểm của C.Mácvà Ph.Ăngghen về con
người và động lực thúc đẩy hoạt động của con người. C.Mác, khi lý giải bản
chất của con người đã đưa ra luận điểm: “ Bản chất của con người không
phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất của con ngưòi là tổng hoà các quan hệ xã hội”. Điều
này cho thấy, nghiên cứu động cơ con người phải xuất phát từ con người có
thực, con người trong điều kiện xã hội lịch sử, con ngưòi hoạt động.
Ph.Ăngghen giải thích:“ Đáng lẽ phải giải thích hoạt động từ nhu cầu
của mình(những nhu cầu đó tất nhiên đã được phản ánh vào đầu óc người ta
và đã làm họ ý thức về nhu cầu đó) thì người ta lại quen giải thích hoạt động
của mình từ tư duy của mình, và chính vì thế dần dần xuất hiện thế giới duy
tâm”[14,tr 651].
Các luận điểm triết học trên được vận dụng vào các công trình nghiên
cứu của L.X.Vưgôtxki, A.N.Leonchiev, X.L.Rubinxtein, A.V.Petrovxki,
A.R.Luria, B.F.Lomov… đã đưa đến những phát hiện khoa học về động cơ.
B.F.Lomov, trong tác phẩm “ Những vấn đề lý luận và phương pháp
luận của tâm lý học” đã khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của động cơ
trong nhân cách cũng như tính phức tạp của quá trình hình thành động cơ.
A.N.Leonchiev, trong cuốn “ Hoạt động, ý thức, nhân cách” đã cho
rằng, động cơ là thành phần tất yếu, là cấu trúc của hoạt động, có tác dụng
kích thích, thúc đẩy hoạt động.
X.L.Rubinxtein, khi nghiên cứu lĩnh vực động cơ, đã nhận xét: Động
cơ là yếu tố thúc đẩy, định hướng cá nhân tích cực tham gia vào các quá trình
8
xã hội khác nhau, làm cho nhân cách có khuynh hướng năng động, tức là thể
hiện mặt hoạt động của nó.
P.A.Rudich, tác giả chủ biên của cuốn“Tâm lý học”(1974) đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu về động cơ. Ông quan tâm đến các dạng động cơ
cụ thể như động cơ lao động, động cơ của hành vi ý chí, động cơ hoạt động
thể thao…Ông viết:“Cái chiếm vị trí lớn nhất trong các động cơ hoạt động
của con người là khát vọng đạt được sự đánh giá có tính chất xã hội với hoạt
động của mình”[23,tr 119].
Bên cạnh những nghiên cứu về động cơ nói chung , vấn đề động cơ học
tập cũng được một số tác giả đề cập tới: B.G.Ananhiep, A.N.Leonchiev,
X.L.Rubinxtein, L.I.Bozovic, A.K.Markova, P.M.Iacopson…
X.L.Rubinxtein đã mô tả động cơ học tập của học sinh, biểu hiện ra bên
ngoài thông qua hứng thó học tập của học sinh. Ông nhấn mạnh: Cần phải tìm
ở mỗi giai đoạn phát triển lứa tuổi ở học sinh những động cơ thích hợp.
Từ năm 1946, A.N.Leonchiev đã có công trình nghiên cứu: “ Sự phát
triển động cơ học tập của học sinh”. Ông cho rằng quá trình học tập của học
sinh chỉ có kết quả tốt khi ở học sinh có thái độ cần thiết với quá trình đó.
Muốn vậy phải hình thành ở học sinh động cơ học tập có ý nghĩa, đó là loại
động cơ vừa kích thích học sinh học tập, vừa có ý nghĩa riêng của bản thân
chủ thể. Vì vậy việc giáo dục động cơ học tập cho học sinh không thể tách rời
cuộc sống và hoạt động của học sinh.
L.I.Bozovic cùng với M.G.Morozova và L.S.Slavina đã tiến hành nghiên
cứu”Sự phát triển động cơ học tập của học sinh Liên Xô bắt đầu từ trẻ mẫu giáo
cho đến học sinh líp cuối cấp phổ thông trung học. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
hoạt động học tập của trẻ không phải do một động cơ duy nhất thúc đẩy mà luôn
được thúc đẩy bởi nhóm động cơ khác nhau về ý nghĩa. Các động cơ học tập này
luôn biến đổi ở học sinh, phụ thuộc vào lứa tuổi, vào mục đích của cuộc sống
đặt ra và phụ thuộc vào mối quan hệ của trẻ với chính quá trình học tập.
Trong công trình nghiên cứu của L.I.Bozovic(1951) và các cộng sự của
9
bà đã đặt ra vấn đề tìm hiểu và phát hiện quan hệ của học sinh đối với hoạt
động học tập về mặt tâm lý học. Nhờ có quan hệ đó mà động cơ có được một
lực kích thích. Bà chỉ ra rằng, hoạt động học tập của học sinh được xác định
bằng động cơ học tập, trong đó có hai thành phần quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đó là động cơ xã hội và động cơ được nảy sinh trong quá trình học tập.
P.M.Iacopson cho rằng: “ Động cơ học tập cũng như hoạt động được
con người ý thức, là kết quả của sự chế biến những tác động mà họ tiếp nhận
từ gia đình và ngoài xã hội, và như vậy nó tạo ra quan hệ có ý thức của người
đó đối với những tác động đó”. Ông phân chia động cơ học tập thành 3 loại:
Thứ nhất là động cơ tiêu cực, học để tránh những điều kiện khó chịu,
tránh tai vạ nh bị mắng, bị phạt, bị lưu ban….
Thứ hai là động cơ nằm ngoài động cơ học tập có tính chất tiêu cực,
động cơ này có thể là định hướng vì lợi Ých của xã hội, của tập thể(tình cảm
nghĩa vụ đối với tổ quốc, đối với người thân,đối với tập thể…), còng có thể
định hướng vì lợi Ých cá nhân(học để vào đại học, để có địa vị xã hội trong
tương lai).
Thứ ba là động cơ nằm trong chính quá trình học tập (nhu cầu lĩnh hội
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, khát vọng hiểu biết điều mới lạ).
Theo P.M.Iacopson ba loại động cơ này không bao giê biểu hiện riêng
biệt, thuần tuý, chúng kết hợp với nhau, hoà với nhau trong một hệ thống
nhiều động cơ thuộc các bình diện khác nhau. Tuy nhiên trong sự kết hợp Êy
có những động cơ có ưu thế chi phối bộ mặt động cơ của học sinh nói chung.
M.I.Alekseeva đã nghiên cứu đặc điểm học tập ở học sinh líp 5 và líp 8,
xác định con đường hình thành động cơ học tập tích cực cho học sinh. Kết
quả cho thấy, ở học sinh thiếu niên, động cơ học tập chia nhóm rất rõ.Đó là
những động cơ mà học sinh ý thức được rõ ý nghĩa xã hội của việc lĩnh hội
tri thức, hiểu được việc học tập là cần thiết để chuẩn bị cho cuộc sống tự lập
sau này, nguyện vọng là người có Ých cho xã hội.
Nguyễn Kế Hào dùa vào kết quả nghiên cứu trên học sinh líp 5 và líp 8
10
ở Nga đã chỉ ra: Động cơ nhận thức ở học sinh sẽ được phát triển ở mức cao
cả về số lượng và chất lượng khi hoạt động học tập của học sinh được tổ chức
một cách hợp lý cả về nội dung và phương pháp theo nguyên tắc khái quát lý
luận đã được V.V.Đavưdov và Đ.B.Econhin khởi thảo. Nếu việc dạy học
được xây dựng trên những nguyên tắc khái quát hoá lý luận thì động cơ học
tập chiếm ưu thế ở phần lớn học sinh là động cơ bên trong. Động cơ này bền
vững, nó xác định tính chất học tập và quyết định kết quả học tập của học
sinh. Còn nếu việc dạy học được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc khái
quát hoá kinh nghiệm thì động cơ học tập của học sinh không bền vững và có
tính chất tình huống.[8,tr 35]
1.1.2 .Các nghiên cứu ở Việt Nam
Bên cạnh các tác giả nước ngoài thì các tác giả Việt Nam còng tiến
hành nghiên cứu và ứng dụng động cơ vào thực tiễn. Vấn đề động cơ được
nghiên cứu và xem xét ở nhiều khía cạnh trong các dạng hoạt động khác
nhau. Điều này được thể hiện trong các công trình nghiên cứu như:
Thứ nhất: Nghiên cứu về động cơ nói chung.
Lê Hương, trong bài “Cấu trúc động cơ của con người” đã cho rằng: “
Trong cấu trúc động cơ của con người có thể có hai thành phần, hai khía
cạnh khác nhau là nội dung và hình thức”.
Mạc Văn Trang khi bàn về động cơ đã khẳng định, động cơ chính là cái
vì nó mà ta hoạt động.
Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: Nhu cầu, hứng thó, lý tưởng, thế giới
quan, niềm tin là các thành phần trong hệ thống động cơ của nhân cách, chúng
là động cơ của hành vi, của hoạt động.
Thứ 2: Nghiên cứu về động cơ chính trị - đạo đức
Phạm Thị Nguyện Lãng có công trình “Cơ sở tâm lý học của việc hình
thành động cơ vì xã hội của học sinh cấp III(luận án tiến sĩ tâm lý học).
Phạm Thị Hưng Trinh có bài: “ Động cơ hoạt động tự quản ở trẻ em 9 tuổi
trường thực nghiệm Giảng Võ”.
11
Các tác giả này cho rằng, muốn rèn luyện nhân cách tốt cho học sinh
phảI hình thành, phát triển động cơ đúng đắn. Đó là những động cơ mang tính
chất xã hội nh: không vụ lợi, vì người khác…
Nguyễn Ngọc Phú đã có công trình nghiên cứu:“ Động cơ hành vi kỷ
luật và vấn đề rèn luyện tính kỷ luật ở đội ngò sĩ quan trẻ”, “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về kỷ luật quân sù ”…Các nghiên cứu này đi sâu làm rõ vai
trò, biểu hiện cũng như các yếu tố chi phối, ảnh hưởng đến động cơ hành vi
kỷ luật. Tác giả khẳng định: Động cơ hành vi kỷ luật là các động lực bên
trong thúc đẩy quân nhân hành động tuân theo các đòi hỏi của điều lệnh, điều
lệ quân sự, mệnh lệnh chỉ thị quân sự của cấp trên, pháp luật của nhà nước.
Động cơ hành vi kỷ luật là cơ sở trực tiếp của hành vi kỷ luật của quân nhân.
Thứ ba là nghiên cứu về động cơ nghề nghiệp có các tác giả: Phạm Tất
Dong, trong cuốn “ Nghề nghiệp tương lai ” [2], đã nêu lên một số vấn đề
như: Nghề nghiệp và lùa chọn nghề nghiệp, hứng thó và năng lực nghề
nghiệp, những lời khuyên, hiểu biết khi chọn nghề….
Tác giả Đào Lan Hương, trong“ Bước tìm hiểu thái độ nghề nghiệp của
giáo viên tâm lý - giáo dục của một số trường sư phạm Hà Nội”(luận văn
thạc sĩ năm 1985), đã đi từ khái niệm của A.N.Leonchiev và B.F.Lomov về
động cơ để đưa ra khái niệm “động cơ nghề nghiệp”. Theo tác giả, “ xét động
cơ nghề sư phạm ta phải xét lý do chọn nghề của giáo viên”[ 9, tr24]. Bước
đầu nghiên cứu cũng chỉ ra các mặt trong cấu trúc động cơ nghề sư phạm.
Tác giả Nguyễn Thị Hải Yến, trong “Tìm hiểu động cơ chọn nghề của
sinh viên cao đẳng sư phạm Đà Lạt – Lâm Đồng” [luận văn thạc sĩ năm 1998]
đã đi đến kết luận: Động cơ chủ đạo thúc đẩy sinh viên vào học nghề dạy học
tại trường cao đẳng sư phạm Đà Lạt là để có việc làm khi ra trường. Các động
cơ khác thì được xếp ở vị trí kế tiếp hoặc thứ yếu.
Nguyễn Xuân Bính có bài: “Phân tích động cơ nghề nghiệp của học sinh”.
Theo tác giả, bất kỳ hoạt động nào cũng do nhiều động cơ thúc đẩy
trong sự liên hệ nhau có tính thứ bậc. Hướng kết hợp giữa các động cơ quyết
12
định hình thức hoạt động chủ đạo.
Tác giả Trần Trọng Thuỷ có bài: “Sự sẵn sàng tâm lý đối với hoạt động
nghề nghiệp của sinh viên sư phạm”.
Lê Nhị Hà và Nguyễn Quang Uẩn có nghiên cứu: “Tìm hiểu sự sẵn
sàng tâm lý của sinh viên sư phạm đối với hoạt động của người giáo viên”.
Ngoài các nghiên cứu trên có thể kể đến: Phạm Thị Nguyện Lãng với
nghiên cứu: “Tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh phổ thông trung
học”; Triệu Thị Phương với nghiên cứu: “Một số đặc điểm hứng thó và ý định
nghề nghiệp của học sinh phổ thông trung học”…
Nhìn chung, các tác giả đi nghiên cứu chủ yếu về thực trạng động cơ
chọn nghề, động cơ hoạt động nghề, xác định yếu tố chi phối đến động cơ
nghề nghiệp của họ. Các nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề hướng nghiệp ở
trường phổ thông, tìm hiểu ảnh hưởng của giáo viên phổ thông nh là yếu tố
quan trọng, tác động trực tiếp đến động cơ chọn nghề của học sinh.
Thứ tư: Nghiên cứu về động cơ học tập có các tác giả sau:
Từ năm 1976, Đặng Xuân Hoài đã báo cáo: “Vấn đề động cơ và nhân
cách” và sau này, bà cùng với các cộng sự đã nghiên cứu nhiều về động cơ xã
hội ở lứa tuổi cấp I và cấp II. Tác giả đã khẳng định: Động cơ xã hội được
hình thành từ những quan hệ giao lưu nảy sinh trong quá trình học sinh tham
gia các hoạt động tập thể dưới hình thức tự quản với tư cách vừa là chủ thể,
vừa là khách thể [8, tr57].
Năm 1980, Lê Đức Phóc đã tiến hành nghiên cứu động cơ học tập của
học sinh lưu ban.
Trong luận án của mình, Nhâm Văn Chăn Con khi tìm hiểu động cơ
học tập của học sinh cấp II ở Lào đã đưa ra kết luận:“ Động cơ học tập ở học
sinh gồm cả những động cơ có đối tượng (xuất phát từ bản thân hoạt động
học tập) và cả những động cơ quan hệ(xuất phát từ quan hệ của trẻ với
những người xung quanh) và khẳng định thêm: hoạt động học tập được thúc
13
đẩy bởi một hệ thống động cơ có nội dung khác nhau, có chức năng khác
nhau, có vị trí khác nhau trong cấu trúc thứ bậc của động cơ, có ý nghĩa khác
nhau với bản thân trẻ”. Tác giả đã nghiên cứu động cơ học tập của các nhóm
học sinh có lực học khác nhau và đưa ra nhận xét:“ Nét đặc trưng ở những
học sinh khá, giỏi là những động cơ nhận thức luôn ở vị trí mạnh, ưu thế so
với những động cơ xã hội trong cấu trúc hệ động cơ học tập”
Trong những năm gần đây, một số tác giả nghiên cứu về động cơ học tập của
học sinh tiểu học đã đưa ra nhận xét:
- Động cơ nhận thức bắt đầu mới chỉ hình thành ở một số học sinh líp
1,2 với mức độ phát triển thấp… Sù hứng thó của trẻ với phương pháp khám
phá nội dung tri thức đôi khi mới xuất hiện.
- Động cơ học tập ở học sinh líp 4, 5 bao gồm những động cơ gần(học
để có điểm tốt), động cơ xa(học sau này để làm việc tốt), động cơ nhận
thức(để hiểu biết), và cả động cơ vật chất(học để được thưởng)… Mét vài
động cơ ngoài còn tồn tại ở khá nhiều em(học để giỏi hơn bạn, học để bố mẹ
không sai làm việc vặt).
Trong công trình nghiên cứu động cơ học tập của học sinh líp 1 dưới
ảnh hưởng của phương pháp nhà trường, Trịnh Quốc Thái đã đưa ra nhận xét:
hoạt động của nhóm học sinh líp 1 theo các phương pháp nhà trường khác
nhau(phương pháp nhà trường theo phương pháp cải cách giáo dục và phương
pháp truyền thống ) đều được thúc đẩy bởi một hệ thống những động cơ có
nội dung phong phú và đa dạng. Nét đặc trưng chung về động cơ học tập của
hai nhóm học sinh líp 1 theo học 2 phương pháp nhà trường khác nhau: động
cơ xã hội chiếm ưu thế hơn động cơ nhận thức trong động cơ học tập[26,
tr120].
Tóm lại, động cơ vốn là vấn đề phức tạp trong tâm lý học, song đã trở
thành đề tài thu hót của nhiều nhà nghiên cứu. Động cơ hoạt động quy định
xu hướng phát triển của nhân cách. Nhân cách được hình thành trong hoạt
14
động và bởi hoạt động. Bất cứ hoạt động nào cũng chịu sự chi phối thúc đẩy
của nhiều động cơ. Các tác giả nghiên cứu động cơ và động cơ học tập đã đạt
được nhiều thành tựu, đặc biệt là những phát hiện và đóng góp của các nhà
tâm lý học Xô Viết.
Trong nước, các nghiên cứu về động cơ khá phong phú, phản ánh tâm
huyết nghiên cứu trong việc giải thích hiện tượng tâm lý này. Hầu hết các
công trình nghiên cứu động cơ học tập chủ yếu ở lứa tuổi học sinh, ở các giai
đoạn tuổi khác chưa đề cập đến nhiều. Việc triển khai hệ thống lý luận đã thu
được vào nghiên cứu động cơ đi học lý luận chính trị của học viên trường
chính trị chưa có đề tài nào đề cập tới. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi góp
phần làm sáng tỏ động cơ đi học lý luận chính trị của học viên trường chính
trị tỉnh Hà Nam.
1.2. Động cơ
1.2.1. Một sè quan niệm tâm lý học về động cơ
B.Ph.Lomov, khi nêu quan niệm về động cơ, đã rất chú ý đến vấn đề
nhu cầu. Ông thừa nhận:“Động cơ của nhân cách có liên hệ chặt chẽ với
những nhu cầu chế định hành vi con người một cách khách quan và có quy
luật . Động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu”[ 13, tr147]. Theo tác
giả, mối liên hệ giữa nhu cầu và động cơ là không đồng nhất, bản thân nhu
cầu không phải là động cơ, điều này làm cho các hình thức thể hiện của nhu
cầu cũng cực kỳ phong phú. Những nhu cầu giống nhau có thể được thực hiện
trong những động cơ khác nhau và đằng sau những động cơ giống nhau có thể
là những nhu cầu khác nhau. Mặt khác, mét động cơ có thể biểu hiện của một
vài nhu cầu.
Khẳng định nhu cầu là nguồn gốc của động cơ, tác giả nhấn mạnh đến
bản chất xã hội nhu cầu. Ông nhắc đến luận điểm của A.Maslow về tháp nhu
cầu với các mức độ, thứ bậc của chúng để thể hiện khía cạnh không tán thành
của mình,“Đặc điểm của các mức độ nêu trên là hết sức vô định hình”[13,tr
472]. Đó là nhu cầu của cá nhân trừu tượng, tách khỏi hệ thống xã hội. Theo
15
B.Ph.Lomov, khi phân tích về nhu cầu như là nền tảng của động cơ, không
được xuất phát từ quan niệm trừu tượng về nhân cách nói chung, mà từ chỗ cá
nhân có thật sù tham gia vào hệ thống quan hệ xã hội như thế nào. Nói cách
khác, nhu cầu phải được xét bối cảnh xã hội cụ thể của cá nhân.Trong cấu
trúc hoạt động theo B.Ph.Lomov, khái niệm động cơ được hiểu với mức độ
rộng lớn hơn, tác giả cho rằng:“Động cơ là kích thích trực tiếp, nguyên nhân
trực tiếp của hoạt động, nhưng động cơ không quy định hoạt động trong
những điều kiện cụ thể”[dẫn theo17,tr 200]. Như vậy cùng động cơ có thể
được thực hiện trong các hoạt động khác nhau; không phải chỉ duy nhất một
động cơ thôi thúc nhân cách vào hoạt động này hay hoạt động khác. Có thể có
nhiều động cơ, lúc đó hoạt động sẽ trở thành hoạt động đa động cơ.
A.N.Leonchiev, người kế tục trực tiếp sự nghiệp của L.X.Vưgôtxki, đã
có cống hiến to lớn trong lĩnh vực nghiên cứu về động cơ. Vấn đề cấu trúc
hoạt động đã được ông làm sáng tỏ và đã trở thành cơ sở khoa học cho nhiều
ứng dụng lý luận vào thực tiễn. Theo ông, hoạt động của con người là hoạt
động có đối tượng. Trong mối quan hệ với chủ thể, đối tượng là cái khách
quan,hấp dẫn, kéo và chi phối các động tác của chủ thể về phía mình. Theo
đó, đối tượng được xem là động cơ của hoạt động. Ông đã đi đến kết
luận:“Động cơ là đối tượng vật chất hay tinh thần kích thích hoạt động và
hướng hoạt động về phía bản thân nã ” [12,tr 116 - 117]. Động cơ gắn liền với
hoạt động, không có hoạt động nào là không có động cơ. Ông đã nêu lên mối
quan hệ gắn bó giữa hoạt động, đối tượng và nhu cầu. Trong cuốn“Hoạt động,
ý thức và nhân cách”, ông viết:“Điều chủ yếu là đằng sau nã bao giê cũng là
nhu cầu, nó bao giê cũng đáp ứng một nhu cầu này hay nhu cầu khác”
[12,tr117] . Điều này có nghĩa là, về bản chất thì hoạt động bao giê cũng
nhằm vào thoả mán các nhu cầu nào đó của con người.
A.N.Leonchiev và Đ.B.Econhin đã nêu khái niệm:“ Cái gì phản ánh
trong đầu con người sẽ thúc đẩy hoạt động và hướng hoạt động vào việc thoả
mãn một nhu cầu nhất định thì gọi là động cơ của hoạt động Êy” [ 12,tr14].
16
Trong khi bàn về nhu cầu với tư cách là cơ sở của động cơ,
A.N.Leonchiev còn chỉ rõ:“ Trong bản thân cái trạng thái có tính chất nhu
cầu của chủ thể Êy chưa hề ghi rõ một cách dứt khoát rằng chính vật thể nào,
đối tượng nào có khả năng thoả mãn nhu cầu….đối tượng này còn cần phải
được phát lé ra. Chỉ nhờ kết quả của sự phát lé nh vậy thì nhu cầu mới có
được tính đối tượng của nó, cái vật được nhận biết Êy thì có được chức năng
thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động , tức là trở thành động cơ”[12,tr 220]. Nh
vậy, việc chuyển hoá thành động cơ là một quá trình phức tạp và có quy luật.
Các nhà tâm lý học Việt Nam đã có sự thống nhất cao với các nhà tâm lý
học Xô Viết nhất là ý kiến của A.N.Leonchiev và B.Ph.Lomov …khi bàn về
khái niệm động cơ. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu cho rằng:“Những đối tượng
đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan, mét
khi chúng bộc lé ra, được chủ thể nhận biết sẽ thúc đẩy, hướng dẫn con người
hoạt động. Khi Êy, nó sẽ trở thành động cơ của hoạt động” [34,tr189].
Từ điển Bách khoa Việt Nam có nêu:“Động cơ hoạt động của con
người là nguyên nhân bên trong thôi thúc con người hành động để thoả mãn
một nhu cầu nào đó” [28,tr 881].
Từ điển Tâm lý học của nhà xuất bản chính trị quốc gia Matxcơva nêu
khái niệm: "Động cơ là lực thúc đẩy hoạt động, quan hệ với việc thoả mãn
nhu cầu của chủ thể. Đó chính là toàn bộ những điều kiện bên trong và bên
ngoài gây nên tính tích cực của chủ thể và quyết định phương hướng hoạt
động của chủ thể” [dẫn theo29,tr 23].
Theo các nhà tâm lý học quân sự:“Động cơ hoạt động là những cái thúc
đẩy con người hoạt động và trả lời câu hỏi: vì cái gì mà con người hoạt
động?”.
Để có một khái niệm về động cơ, nhất thiết phải có sự khác biệt còng
nh mối liên hệ giữa động cơ với hiện tượng tâm lý gần gũi với nó, cụ thể là
với nhu cầu, mục đích, đối tượng của hoạt động…
- Động cơ và nhu cầu
17
Trong tâm lý học hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về nhu cầu,
nhưng nhìn chung, các nhà tâm lý học thừa nhận rằng:“ Nhu cầu là những
đòi hỏi tất yếu khách quan biểu hiện sự cần thiết về một cái gì đó cần được
thoả mãn của con người trong cuộc sống hoạt động” [21,tr 249].
Nhu cầu của con người rất đa dạng, phong phú, tuỳ thuộc vào căn cứ
nhất định để phân chia cụ thể. Cách phân chia phổ biến nhất và được nhiều
nhà tâm lý chấp nhận là dùa vào đối tượng của nhu cầu. Theo đó nhu cầu
gồm: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất là những đòi hỏi khách quan cần được thoả mãn về
phương tiện sinh hoạt vật chất của con người nh nhu cầu ăn, ở, mặc, phương
tiện sinh hoạt…
Nhu cầu tinh thần là những đòi hỏi khách quan cần được thoả mãn về
mặt chính trị - đạo đức, thẩm mỹ, nhận thức, lao động, giao tiếp, hoạt
động xã hội….
Đặc trưng nhất của nhu cầu là có tính đối tượng. Tức là nhu cầu bao giê
cũng là sự đòi hỏi về một cái gì đó.
Trong mối quan hệ với động cơ, bản thân nhu cầu không phải là động
cơ mà động cơ là sự thể hiện của nhu cầu, phản ánh nội dung đối tượng của
nhu cầu.
- Động cơ và đối tượng của hoạt động
Đối tượng của hoạt động là cái nằm trong thế giới khách quan, được
chủ thể nhận biết, tác động và chiếm lĩnh.
Theo các nhà tâm lý học, chỉ khi nhu cầu gặp đối tượng của hoạt động
thì lúc đó nhu cầu mới trở thành động cơ của hoạt động. A.N.Leonchiev cho
rằng, việc nhu cầu gặp đối tượng của hoạt động là một sự việc đặc biệt. Ông
viết:“Chỉ khi nào gặp được đối tượng đáp ứng, thì khi đó lần đầu tiên nhu
cầu mới trở thành có năng lực, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động”
[12,tr100]. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà đối tượng của hoạt động có thể
trùng khớp hoàn toàn hoặc không trùng khớp với đối tượng của nhu cầu, giữa
18
chúng có quan hệ gắn bó, không tách rời.
- Động cơ và mục đích
Các nhà tâm lý học khẳng định: Mục đích là biểu tượng trong đầu óc
con người về kết quả nhằm đạt tới của hành động.
Trong mối quan hệ với động cơ thì mục đích của hành động chỉ là sự
cụ thể hoá của động cơ.
Kế thừa thành tựu của tâm lý học Mác Xít, tâm lý học Việt Nam, căn
cứ vào các phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng: Động cơ là những cái được
phản ánh, trở thành lực đẩy bên trong, định hướng con người hoạt động
chiếm lĩnh đối tượng, đáp ứng nhu cầu của cá nhân.
1.2.2. Bản chất của động cơ
Động cơ thúc đẩy và xác định sự lùa chọn xu hướng của hoạt động mà
vì nó hành động được thực hiện. Động cơ là nguyên nhân, cơ sở của sự lùa
chọn hành động và hành vi[9,tr 67]. Vấn đề là cái gì có thể động cơ hoá hành
vi của con người hay nói cách khác là thúc đẩy con người hoạt động theo
hướng đã định. Trong số những biểu hiện của tâm lý có ảnh hưởng tới sự xuất
hiện kích thích, cần thiết biến thành các yếu tố thúc đẩy hành động như:
- Lý tưởng chính trị - đạo đức, biểu tượng về tương lai… tương đối
bền vững thì có thể ảnh hưởng đến hành vi, hệ thống các hành động.
- Các hứng thó như đối với thể thao, nghệ thuật, học tập, vui chơi..
- Khát vọng đối với cuộc sống tinh thần và vật chất, với hoạt động sáng
tạo, với cuộc sống gia đình.
- Nhu cầu về một cái gì đó.
- Các tình cảm mạnh.
- Các quan niệm về đạo đức, sự cần thiết phải xử sù phù hợp với hoàn cảnh.
- Thãi quen, truyền thống, phong tục tập quán.
- Sù bắt chước…
Tóm lại, bản chất của động cơ là cái tạo nên tính tích cực cá nhân, là
động lực kích thích con người hoạt động. Khi nghiên cứu động cơ hành động
19
của con người có tác dụng rất lớn. Thứ nhất là giúp phân tích và giải thích các
đặc điểm hành động của con người trong mọi tình huống xảy ra. Điều này có
nghĩa là phải thấy được các loại động cơ và cơ chế hoạt động của nó. Thứ hai
là phân tích, giải thích hành vi của con người ở dạng hoạt động. Thứ ba là
phân tích động cơ của con người để hiểu được mối quan hệ giữa con người
với thế giới xung quanh.
1.2.3.Nguồn gốc của động cơ
Khi bàn về nguồn gốc nảy sinh của động cơ thì mỗi trường phái khác
nhau nhìn nhận ở góc độ khác nhau. Tuy nhiên, xét theo trường phái tâm lý
học mác xít thì tính tích cực được nảy sinh từ nhu cầu, nhu cầu như là sự khởi
nguồn tạo nên tính tích của hoạt động của con người.
A.N.Leonchiev rất chú trọng đến mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu.
Ông đã khẳng định:“Nhu cầu với tính chất là sức mạnh nội tại chỉ có thể thực
thi trong hoạt động. Nói cách khác, nhu cầu chỉ xuất hiện như một điều kiện
tiền đề cho hoạt động.. ”[12,tr221].
Nhu cầu bao giê cũng là sự cụ thể về một cái gì đó cần được thoả mãn,
là những đòi hỏi khách quan của con người trong cuộc sống và hoạt động.
Muốn tồn tại và phát triển, con người phải được thoả mãn nhu cầu nhất định.
Như C.Mac nói: Không phải tư duy của con người là nguyên nhân thúc đẩy
nó hành động mà nhu cầu mới là động lực đầu tiên thúc đẩy hành động của
con người. Không có nhu cầu của con người thì không thể có bất cứ hoạt
động nào.
Như vậy, động cơ là cái con người phản ánh và trở thành động lực thúc
đẩy bên trong, định hướng hoạt động của con người vào những đối tượng nhất
định nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó. Hoạt động của con người nhằm chiếm
lĩnh đối tượng để thoả mãn nhu cầu của cuộc sống. Động cơ chính là phản
ánh sự biểu hiện nhu cầu của con người. Động cơ chính là nhu cầu đã được cụ
thể hoá. Trên cơ sở đó, cùng một nhu cầu thường nảy sinh nhiều động cơ,
20
- Xem thêm -