LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong Luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các trích dẫn chỉ rõ nguồn tài liệu của tác giả.
Tác giả Luận án
Phạm văn Hiến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN.................................................................................................6
CHƯƠNG 1: ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG UỶ CẤP XÃ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN........................................35
1.1. Ban tuyên giáo đảng ủy cấp xã - một thiết chế tư tưởng ở cơ sở trong hệ
thống các thiết chế tư tưởng ở nước ta............................................................35
1.2. Đổi mới tổ chức, hoạt động của ban tuyên giáo đảng ủy cấp xã..............49
1.3. Sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của ban tuyên giáo đảng
ủy cấp xã ở nước ta hiện nay...........................................................................70
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BAN TUYÊN GIÁO
ĐẢNG UỶ CẤP XÃ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA.........................................................................79
2.1. Sơ lược về quá trình ra đời, phát triển của ban tuyên giáo đảng ủy cấp xã
ở nước ta..........................................................................................................79
2.2. Kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân trong tổ chức và hoạt động của
ban tuyên giáo đảng ủy cấp xã ở nước ta từ năm 2011 đến nay.........................81
2.3. Những vấn đề đặt ra về mô hình tổ chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở
nước ta hiện nay............................................................................................117
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC,
HOẠT ĐỘNG CỦA BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY CẤP XÃ Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY.............................................................................................128
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta
hiện nay........................................................................................................128
3.2. Các giải pháp chủ yếu đổi mới tổ chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở
nước ta hiện nay............................................................................................133
KẾT LUẬN..................................................................................................161
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.............................................................................167
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................168
PHỤ LỤC.....................................................................................................180
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BDV
BKG
BTG
BTV
CNXH
CNMLN
CNH, HĐH
CNCS
CTKG
CTTG
CTTT
ĐUCX
ĐTNCS
HCCB
HĐND
HND
HPN
MTTQ
TCCSĐ
TTTT
UBND
XHCN
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
Ban dân vận
Ban khoa giáo
Ban tuyên giáo
Ban tuyên vận
Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa Mác - Lênin
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chủ nghĩa cộng sản
Công tác khoa giáo
Công tác tuyên giáo
Công tác tư tưởng
Đảng ủy cấp xã
Đoàn thanh niên cộng sản
Hội cựu chiến binh
Hội đồng nhân dân
Hội nông dân
Hội phụ nữ
Mặt trận Tổ quốc
Tổ chức cơ sở đảng
Thông tin truyền thông
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Sự cấn thiết thành lập BTG ĐUCX .........................................83
Biểu đồ 2.2: Về số lượng cán bộ BTG ĐUCX hiện nay...............................85
Biểu đồ 2.3: Thành phần trưởng ban BTG ĐUCX hiện nay.........................86
Biểu đồ 2.4: Thành phần phó trưởng ban BTG ĐUCX hiện nay..................86
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu trưởng BTG ĐUCX......................................................87
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu phó trưởng BTG ĐUCX...............................................87
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu các thành viên khác BTG ĐUCX.................................87
Biểu đồ 2.8: Các thành phần khác là cán bộ ban BTG ĐUCX hiện nay......88
Biểu đồ 2.9: Đánh giá số lượng cán bộ ban BTG ĐUCX hiện nay đã hợp lý
hay chưa........................................................................................................89
Biểu đồ 2.10: Đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của BTG ĐUCX thời
gian qua.........................................................................................................102
Biểu đồ 2.11: So sánh hiệu quả hoạt động của BTG ĐUCX với các ban xây
dựng Đảng khác ở cơ sở................................................................................102
Biểu đồ 2.12: Đánh giá về chế độ chính sách, phụ cấp đãi ngộ dành cho cán
bộ của BTG ĐUCX.......................................................................................110
Biểu đồ 2.13: Đánh giá về những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của BTG
ĐUCX hiện nay.............................................................................................114
Biểu đồ 2.14: Đánh giá nguyên nhân những hạn chế, yếu kém trong hoạt động
của BTG ĐUCX trong thời gian qua (qua các nhóm lĩnh vực công tác)..........115
Biểu đồ 2.15: Đánh giá nguyên nhân những hạn chế, yếu kém trong hoạt
động của BTG ĐUCX hiện nay....................................................................116
Biểu đồ 3.1: Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của BTG
ĐUCX hiện nay.............................................................................................135
Biểu đồ 3.2: Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của BTG
ĐUCX (trong các nhóm học vấn).................................................................138
Biểu đồ 3.3: Quan điểm về mô hình BTG ĐUCX trong thời gian tới .........144
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
CTTG là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của
Đảng, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính
trị; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng con người, bồi đắp nền tảng chính trị
của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện
các nhiệm vụ cách mạng. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi trọng
CTTG. Đặc biệt, 30 năm đổi mới vừa qua, CTTG đã góp phần bảo đảm sự
thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong các binh chủng và lực lượng làm CTTG, BTG đảng uỷ xã,
phường, thị trấn (gọi chung là BTG ĐUCX) có vai trò hết sức quan trọng
trong việc thực hiện các nhiệm vụ CTTG cũng như các nhiệm vụ chính trị ở
cấp xã; do vậy, chủ trương hướng về cơ sở, coi trọng cơ sở, tăng cường CTTG
cấp xã là một trong những trọng tâm công tác của BTG Trung ương và toàn
ngành Tuyên giáo, đạt được những kết quả quan trọng. Văn kiện Đại hội lần
thứ XII của Đảng nêu rõ: “Chất lượng và hiệu quả CTTT, lý luận có bước
được nâng lên. CTTT được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng,
chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa,
đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy
mạnh hơn”[38, tr.186].
Bên cạnh những thành quả đạt được, hoạt động của BTG ĐUCX trong
những năm qua cũng còn bộc lộ một số hạn chế và bất cập. Đó là, tính chiến
đấu, tính thuyết phục, hiệu quả CTTT còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”. Tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ
2
đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,
cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của
nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, đe doạ sự ổn định và phát triển của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng cũng đã nhấn mạnh:
Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất
cao trong Đảng; đồng thuận xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng
theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả [38, tr.46].
Trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, làm thế
nào để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả CTTG các cấp, đặc biệt là cấp
xã có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần vào việc củng cố sự vững chắc hệ
thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... giữ vững sự ổn định chính
trị và trật tự, an toàn xã hội. Vì lẽ đó, phương châm hướng về cơ sở, đẩy
mạnh CTTG ở cấp xã là chủ trương nhất quán mà ngành Tuyên giáo đã đề ra
từ nhiều năm nay, nhất là những năm gần đây. Để tạo sự đồng thuận trong
nhận thức và hành động của quần chúng nhân dân, góp phần nâng cao kiến
thức cả về lý luận và thực tiễn thì việc thực hiện có hiệu quả CTTG cấp xã là
vấn đề có ý nghĩa quyết định, cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay” làm luận án tiến sỹ
với hy vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTG của Đảng ở
cấp xã hiện nay.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề về lý luận, thực tiễn tổ chức và hoạt
động của BTG ĐUCX, luận án đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu
đổi mới tổ chức và hoạt động BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về CTTG cấp xã và đổi mới tổ chức,
hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta
trong thời gian qua và những vấn đề đặt ra đối với việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của BTG ĐUCX ở nước hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức
và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu mô hình, tổ chức bộ máy và hoạt động của BTG
ĐUCX trên lĩnh vực công tác tuyên giáo, trong đó chủ yếu đi sâu làm rõ thực
trạng, những vấn đề đặt ra đối với tổ chức bộ máy, hoạt động của BTG
ĐUCX và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động BTG ĐUCX đối với cấp ủy
đảng các cấp và trong hệ thống ngành Tuyên giáo.
- Luận án đề cập tổ chức bộ máy và hoạt động của BTG ĐUCX, nhưng
chỉ ở góc độ là một bộ phận cấu thành, đồng thời là đối tượng của CTTG chịu
sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của cấp uỷ đảng các cấp, cũng như hướng
dẫn tổ chức thực hiện của BTG cấp trên (từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, cấp
4
huyện). Luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu ở BTG ĐUCX ở một số tỉnh,
thành phố mang tính đại diện cho các vùng, miền trong cả nước.
- Về thời gian, luận án nghiên cứu tổ chức bộ máy và hoạt động của
BTG ĐUCX từ Đại hội X (năm 2006) của Đảng đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng CSVN, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về tư tưởng, lý luận, công tác tuyên giáo… để
nghiên cứu những vấn đề đặt ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các phương pháp luận chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; luận án sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cơ bản của triết học, chính trị học, xã hội học tập trung vào một số
phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp các văn kiện của Đảng, chính sách,
luật pháp của Nhà nước, các báo cáo, tài liệu, công trình khoa học... liên quan
đến đề tài luận án.
- Phương pháp lịch sử và lôgic: mô tả, tái hiện thực trạng đổi mới tổ
chức và hoạt động của BTG ĐUCX từ Đại hội X của Đảng tới nay, phân tích,
vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng vận động của quá trình đổi mới tổ
chức bộ máy và hoạt động của BTG ĐUCX.
- Phương pháp so sánh, đối chứng: Luận án tổng hợp số liệu liên quan, so
sánh, đối chứng, chỉ ra ưu điểm, thành quả cần phát huy, khắc phục yếu kém,
những vấn đề đặt ra về tổ chức bộ máy và hoạt động của BTG ĐUCX.
- Phương pháp điều tra xã hội học: lập bảng hỏi, chọn mẫu mang tính
đại diện để điều tra về nhận thức, quan điểm, thái độ của chủ thể và đối tượng
cán bộ BTG ĐUCX và các vấn đề liên quan; thu thập dữ liệu theo mẫu và tiến
5
hành phân tích, xử lý số liệu bằng phần mền xã hội học SPSS.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Lựa chọn một số nhóm vấn đề
quan trọng đang có nhiều ý kiến khác nhau để trao đổi.
- Ngoài những phương pháp nghiên cứu chủ yếu nêu trên, vì đối tượng
nghiên cứu đề cập nội dung của nhiều lĩnh vực khác nhau, cho nên luận án sử
dụng phương pháp tổng kết thực tiễn và tích hợp (liên ngành).
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa và bổ sung, phát triển lý luận về đổi mới tổ chức và hoạt
động của BTG ĐUCX; làm rõ sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động
của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
- Khái quát thực trạng, phát hiện những vấn đề đặt ra đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta trong quá trình đổi mới đất
nước, vì sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu đổi mới tổ chức và hoạt
động của BTG ĐUCX ở nước ta, nhất là việc đề xuất một số mô hình, tổ chức
của BTG ĐUCX cần hướng tới, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ CTTG
trong tình hình mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án thực hiện thành công sẽ góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc
xây dựng chủ trương, chính sách lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện đổi
mới tổ chức và hoạt động của BTG ĐUCX trong phạm vi toàn quốc.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
đội ngũ cán bộ cấp ủy các cấp, cán bộ công tác trong binh chủng CTTG, nhất là
đội ngũ cán bộ BTG ĐUCX và những người quan tâm đến công tác này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 03 chương, 08 tiết.
6
TỔNG QUAN
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
I. CÁC CÔNG TRÌNH VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, TỔ CHỨC
BỘ MÁY VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, CÔNG
TÁC TUYÊN GIÁO
1.1. Công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong quá trình xây dựng CNXH ở Liên Xô (trước đây) và Đông Âu, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về CTTT, một số đã được dịch ra tiếng Việt. Khi
nghiên cứu về cơ sở hoạt động tuyên truyền tư tưởng của đảng cộng sản, các nhà
khoa học đã đi sâu phân tích làm rõ các đặc điểm và những yêu cầu dưới góc độ
tâm lý học, giáo dục học đối với hoạt động này. Nhà giáo dục Xô Viết nổi tiếng
V.A.Cruchetxki đã viết: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục cộng sản chủ
nghĩa là hình thành ở thế hệ trẻ niềm tin và tình cảm cộng sản chủ nghĩa vững
chắc và hành vi đạo đức dựa trên cơ sở niềm tin vào tình cảm đó”[54, tr.164].
Trong cuốn “Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô”, nhóm
tác giả đã đưa ra định nghĩa hiệu quả CTTT: “Đó là sự tương quan giữa kết
quả tác động tư tưởng đã đạt được so với những mục tiêu xây dựng giác ngộ
cộng sản chủ nghĩa và phẩm hạnh cộng sản chủ nghĩa của con người”[131,
tr.299]. Và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả được xác định là: trình độ hiểu
biết chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước… Các tác giả cũng chỉ ra các điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan để nâng cao hiệu quả CTTT. Theo đó, điều kiện khách quan là: lối sống
xã hội, chế độ dân chủ, môi trường xã hội…; nhân tố chủ quan bao gồm: trình
độ lãnh đạo của Đảng đối với CTTT; trình độ năng lực của cán bộ tư tưởng;
thường xuyên cải tiến các hình thức, phương pháp; đảm bảo sự thống nhất của
các biện pháp kinh tế - xã hội, tư tưởng, tổ chức và hành chính để tác động
7
đến con người; nâng cao vai trò giáo dục của tập thể lao động, tổ chức xã hội
và mỗi người cộng sản; phát huy vai trò của các cơ quan tư tưởng và các tổ
chức xã hội.
Sau sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, nhất là
trong những năm gần đây, hoạt động nghiên cứu CTTT có xu hướng chỉ trong
một số ít nước XHCN thông qua một số tài liệu, hoặc tiếp xúc qua các đợt
công tác ở nước ngoài, nhằm trao đổi kinh nghiệm chủ yếu là từ kinh nghiệm
của Trung Quốc.
Cuốn “Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới” của Bùi
Phương Dung (Trung Quốc), Trần Khang và Lê Cự Lộc dịch, Nhà xuất bản
(Nxb) Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005 là cuốn giáo trình về CTTT của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, chủ yếu phân tích khái niệm CTTT và phương thức,
phương pháp, loại hình cơ bản của công tác điều tra, nghiên cứu thông tin và
xây dựng đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền tư tưởng.
Bài “Bàn về đổi mới CTTT thời kỳ mới” của Điền Trung Mẫn, đăng
trên Tạp chí Học tập và Nghiên cứu lý luận, số 8 - 2007, khi bàn về vai trò
quan trọng của CTTT trong công cuộc xây dựng xã hội hài hoà, tác giả khẳng
định: “CTTT là thế mạnh chính trị quan trọng của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, đặc biệt là trong thời kỳ xã hội tiến hành cải cách” [96, tr.134]. Trên cơ
sở khẳng định vai trò to lớn của CTTT, tác giả cho rằng, CTTT là con đường
quan trọng để xây dựng xã hội hài hoà: “CTTT vừa là nội dung quan trọng
của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vừa là con đường quan trọng
và sự bảo đảm quan trọng để Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện vai trò
lãnh đạo của mình” [96, tr.135]. Tác giả cũng nêu rõ phương châm của CTTT
là “lấy dân làm gốc”, “phải bám sát thực tế, bám sát quần chúng, bám sát
cuộc sống, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, cố gắng vận dụng
nhiều hình thức”; và “cần tăng cường cải tiến CTTT cho những người sống
8
nay đây mai đó và đội ngũ nông dân ra thành phố tìm việc làm, cho những
công nhân thất nghiệp và những người thuộc tầng lớp lao động, cho các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, khu vực nông thôn miền núi hải đảo xa xôi
để CTTT được phủ khắp mọi lĩnh vực…” [96, tr.140].
Khi bàn về đối tượng của CTTT, trong bài “Làm thế nào để làm tốt
CTTT trong thời kỳ mới”, đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng Trung Quốc số tháng
01/2008, các tác giả gồm GS. Triệu Văn Như, Trương Vệ Đông và Lý Biêu cho
rằng, đối tượng của CTTT là con người và con người thì luôn luôn có sự khác
nhau. CTTT tập trung vào quần chúng, lo cho quần chúng, cần phải tập trung
vào các nhóm quần chúng không giống nhau, lo cho các nhóm quần chúng khác
nhau. Và để làm tốt CTTT cho quần chúng, cần thích ứng với tình hình cụ thể
của quần chúng, áp dụng các phương pháp khoa học, bắn tên trúng đích.
Cũng vấn đề bàn về đổi mới CTTT, GS. Vương Bột Chính, trong bài
“Một số vấn đề về CTTT của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong tình hình
mới” (đăng trên Tạp chí Nghiên cứu tư tưởng chính trị, số 3/2006) nhấn
mạnh, việc triển khai CTTT, trước hết là phải kiên trì những truyền thống tốt,
cách làm tốt có hiệu quả mà trước đây đã từng áp dụng. Điều quan trọng hơn
là phải thích nghi với tình hình mới, không ngừng tìm tòi phương pháp mới.
Chính vì vậy, phải chú trọng điều hoà, hình thành nên “dàn hợp xướng” của
CTTT có sự tham gia của xã hội.
Trong bài “Bàn về đổi mới công tác chính trị tư tưởng”, trên Tạp chí
Luận đàm Giang Nam, chuyên đề CTTT, số 01/2006, GS. Trần Dục Dân khuyến
khích sử dụng các hình thức, phương pháp sao cho phù hợp với thực tiễn. Ngoài
ra, vừa phải thuyết phục người dân bằng lý lẽ, vừa phải thuyết phục bằng tình
cảm, làm nhiều công tác khiến quần chúng cảm thấy gần gũi, yên tâm, vừa phải
giúp đỡ người dân giải quyết vấn đề tư tưởng, vừa phải giúp giải quyết các vấn
đề trong đời sống thực tế…
9
- Trong bài “CTTT cần tăng cường tính đổi mới và tính thời đại”, trên
Tạp chí Pháp chế Chính phủ, số 31/2009, tác giả Lý Diệc Bác cho rằng:
CTTT muốn giàu tính đổi mới thì phải tạo dựng quan niệm mới, hình thành
cơ chế mới, tiến hành đổi mới một cách tổng thể cho đường lối; vận dụng
hình thức mới, hoàn thiện chức năng mới, tiến hành đổi mới cho phương thức,
cách làm; tổng kết kinh nghiệm mới, tạo nên hiệu quả mới, tiến hành đổi mới
cho nội dung, thành quả. Trên cơ sở đó, phải tăng cường tính thời đại của
CTTT. Để tạo ra và phát huy tối đa tính thời đại của CTTT phải dựa vào sức
mạnh nhân cách của người lãnh đạo, làm gương cho người khác; dựa vào vai
trò gương mẫu đi đầu của người đảng viên, ảnh hưởng đến người khác; dựa
vào sức mạnh tình cảm về sự quan tâm, thấu hiểu, tôn trọng để thu phục lòng
người; dựa vào sức mạnh bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa yêu nước để
đoàn kết con người.
- Bàn về việc nâng cao hiệu quả của CTTT, trong bài “Tìm tòi phương
pháp đổi mới CTTT trong doanh nghiệp”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu tư
tưởng chính trị, số 3/2009, tác giả Từ Trí nhấn mạnh việc kết hợp giữa “nói”
và “làm”. CTTT muốn đạt hiệu quả, muốn đổi mới thì không những “nói”
hay, mà quan trọng là phải “làm” giỏi. Sức mạnh của tấm gương là vô cùng to
lớn, nói hay không bằng làm giỏi. Làm giỏi là sức sống của CTTT, là cái căn
bản để CTTT đạt được hiệu quả. “Làm” trong CTTT là lệnh động viên không
lời. “Làm” trong CTTT phải để nổi bật chữ “thực”. Vì vậy, tăng cường và cải
tiến CTTT không thể tách khỏi sự thống nhất hữu cơ giữa “nói” và “làm”, lúc
cần nói thì phải nói, lúc cần làm thì phải làm.
- Trong một nghiên cứu gần đây với tiêu đề “Tăng cường sự hấp dẫn
và sức quy tụ của hệ tư tưởng XHCN” của Chu Hiển Tín, Phùng Linh Chi
được đăng trên tạp chí “Nghiên cứu lý luận Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu
Bình” (Trung Quốc), số 10/2008, các tác giả đã xác định rõ sự cần thiết phải
10
đẩy mạnh CTTT và phương hướng đổi mới CTTT theo tinh thần Đại hội
XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm thực hiện tốt mục tiêu chiến lược
“Xây dựng hệ giá trị nòng cốt của CNXH, tăng cường sự hấp dẫn và sức quy
tụ của hệ tư tưởng XHCN”. Trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân quan trọng
khiến Liên Xô, Đông Âu thay đổi chế độ, các tác giả cho rằng: “không được
để “khoảng trống” trên trận địa văn hoá, tư tưởng, ý thức, nếu chủ nghĩa Mác,
tư tưởng XHCN không chiếm lĩnh thì các loại học thuyết phi mác - xít, hệ tư
tưởng phi CNXH sẽ chiếm lĩnh ngay lập tức” [66, tr.28].
Từ đó, tác giả cho rằng nhiệm vụ của CTTT là phải “Tăng cường sự chỉ
đạo tư tưởng XHCN đối với xây dựng hình thái ý thức là nhu cầu bức thiết
mang tính chiến lược”[66, tr.28]. Cùng với việc tích cực sáng tạo lý luận để
tăng cường sức sống của hình thái ý thức XHCN, cần đổi mới CTTT bằng
cách “Thực hiện phân loại đối tượng giáo dục để tăng cường sự hài hoà của
hình thái ý thức XHCN” [66, tr.30]. Theo đó, “Trước hết, nhất thiết phải kiên
trì sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác, kiên trì lấy thành tựu của sự nghiệp Trung
Quốc hoá chủ nghĩa Mác để vũ trang cho toàn Đảng, giáo dục nhân dân, mà
trọng điểm và chủ thể giáo dục là đông đảo cán bộ, đảng viên. Thứ hai, lấy
mục tiêu lý tưởng chung xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc để tập hợp mọi
lực lượng xã hội, lấy tinh thần thời đại và tinh thần dân tộc để cổ vũ ý chí đấu
tranh của toàn thể nhân dân… Thứ ba, lấy quan niệm vinh nhục XHCN với nội
dung chủ yếu là “8 điều vinh, 8 điều nhục” để dẫn dắt phong cách xã hội” [66,
tr.30]. Theo tác giả, để đổi mới CTTT, phương châm của Đảng Cộng sản Trung
Quốc phải là “tích cực tìm kiếm con đường tối ưu nhất để dẫn dắt tư tưởng xã
hội bằng hệ thống giá trị nòng cốt XHCN, chủ động làm tốt CTTT, vừa tôn trọng
sự khác biệt, tính đa dạng bao dung, đồng thời kiên quyết ngăn chặn ảnh hưởng
của các quan niệm, nhận thức sai lầm, của tư tưởng hủ bại” [66, tr.31].
11
Để thực hiện được nội dung CTTT, Đảng Cộng sản Trung Quốc rất coi
trọng việc đấu tranh tư tưởng trên cơ sở hình thái ý thức XHCN bao gồm:
Thứ nhất, kiên trì nguyên tắc tính giai cấp, không dao động giữa thuộc
tính XHCN và thuộc tính tư bản chủ nghĩa (TBCN) của hình thái ý
thức… Thứ hai, nhất thiết phải kiên trì tính nguyên tắc khoa học… Thứ
ba, căn cứ vào điều kiện đấu tranh để có hình thức phù hợp, không nên
luôn “đấu tranh tàn khốc, giáng đòn tàn nhẫn”. Thứ tư, cần có tầm nhìn,
tầm nhận thức mang tính quốc tế…[66, tr.31, 32].
Nghiên cứu của các tác giả cũng đề cập đến việc phát huy vai trò các
binh chủng của CTTT, trên cơ sở nhận thức “văn hoá nghệ thuật, báo chí
tuyên truyền là bộ phận cấu thành quan trọng, là công cụ, kênh truyền tải
quan trọng của ý thức XHCN, là chủ thể phát huy tinh thần chính của hình
thái ý thức XHCN, có địa vị chiến lược vô cùng quan trọng trong việc tăng
cường sự hấp dẫn và sức quy tụ của hình thái ý thức xã hội” [66, tr.32]. Coi
“văn học nghệ thuật là “loa phát thanh” của thời đại, là “trống trận” cổ vũ
nhân dân tiến lên…”; “Tuyên truyền dư luận là “người phát ngôn chính thức”
của Đảng và nhân dân, là công cụ quan trọng tăng cường sức hấp dẫn cho
hình thái ý thức XHCN” [66, tr.32], vì vậy phải “xây dựng cơ chế phản hồi
nhanh dư luận, tạo ra kênh thông tin thông suốt cho quyết sách của Đảng và
Chính phủ” [66, tr.33].
Để tạo ra các luồng dư luận chính thống, tích cực, chủ đạo và định
hướng xã hội, cần coi trọng việc “tích cực mở ra trận địa mới giáo dục tuyên
truyền lý luận trên mạng Internet” đòi hỏi phải “giỏi chiếm lĩnh các phương
tiện truyền thông hiện đại, khắc phục “vùng trắng” trong giáo dục tư tưởng
chính trị, từ đó hướng dẫn các trào lưu tư tưởng vốn vô cùng phong phú và đa
dạng trong xã hội” [66, tr.33]. Đối với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm
CTTT, các tác giả nhấn mạnh việc: “nâng cao tố chất chính trị của đội ngũ
12
cán bộ giám sát dư luận, chủ yếu gồm trách nhiệm chính trị, độ nhạy bén
chính trị, tăng cường sức ảnh hưởng của giám sát dư luận” [66, tr.33] và phát
huy “vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc tăng sức
cảm hoá thực tiễn của hình thái ý thức XHCN”, “cán bộ, đảng viên phải là
những người truyền bá quan điểm, tư tưởng lý luận, đường lối, chủ trương
của đảng, là biện pháp quan trọng để đảng hoàn thành sứ mạng của bản thân
là giáo dục quần chúng, phát động quần chúng” [66, tr.35].
Để đổi mới CTTT, trước hết cần chú trọng đến nội dung CTTT.
Trong bài “Tổng kết công tác xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong
30 năm cải cách mở cửa” của Tập Cận Bình, đăng trên Thời báo Học tập
(Trung Quốc) số 8/9 - 2008, khi bàn về nội dung CTTT, tác giả Tập Cận
Bình cho rằng:
Trước sau như một, Đảng coi việc học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác,
đặc biệt là những thành quả mới nhất của sự nghiệp Trung Quốc hoá chủ
nghĩa Mác là nội dung trung tâm giáo dục bồi dưỡng cho đảng viên và
cán bộ…; ra sức thúc đẩy việc đưa vào giáo trình, giảng đường, tuyên
truyền giáo dục những tư tưởng chiến lược quan trọng như lý luận Đặng
Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “Ba đại diện” và quan điểm phát triển
khoa học, để giúp đông đảo cán bộ đảng viên xác định chắc chắn thế giới
quan, nhân sinh quan, quan niệm giá trị chủ nghĩa Mác, tỉnh táo và kiên
định chính trị, duy trì và phát triển tính tiên tiến của người đảng viên
cộng sản [65, tr.10].
Tạp chí: “Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế” (Nga), số 11/2008,
có bài “Cơ sở tư tưởng hệ của công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc” của
Mozias. Theo tác giả, nội dung CTTT của Đảng Cộng sản Trung Quốc phải:
“Bảo đảm cơ sở tư tưởng hệ cho các cuộc cải cách”; CTTT phải duy trì “vỏ
bọc” hệ tư tưởng cũ mà trên thực tế là hệ giá trị thông thường, cho phép đông
đảo dân chúng cảm nhận về tính kế thừa, tính ổn định, tính tiệm tiến của
13
chuyển động hướng tới những mục tiêu của cải cách. Và bộ máy tuyên truyền
của Đảng Cộng sản từng bước “cấy” những giá trị thị trường mới vào khuôn
khổ hệ tư tưởng hiện thời, làm cho chúng trở nên dễ hiểu và dễ chấp nhận đối
với đông đảo quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, trong các tham luận của các học giả Trung Quốc tại hội thảo
giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cũng đã thể hiện một số vấn đề
liên quan đến CTTT của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ví dụ: Trong báo cáo
“Đấu tranh chống tệ hủ bại trong thời kỳ mới của cuộc cải cách và mở cửa ở
Trung Quốc”, GS. Điền Tâm Minh đã xác định rõ vai trò của CTTT nói chung
và trong phòng, chống tệ hủ bại nói riêng: “Công tác chính trị tư tưởng của
Đảng là yếu tố quyết định của công tác kinh tế và mọi công tác khác, là khâu
trọng tâm đoàn kết toàn Đảng và nhân dân các dân tộc cả nước” [94, tr.327] .
Và “Qua việc giáo dục tư tưởng, nâng cao phẩm chất tư tưởng chính trị của
con người, có thể phòng, chống tệ hủ bại một cách chủ động và tự giác” [94,
tr.327].
1.2. Công trình nghiên cứu ở trong nước
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh hết sức coi trọng vai trò, vị trí của CTTT; coi CTTT là quan trọng hàng
đầu. CTTT của những người cộng sản Việt Nam bắt đầu từ khi Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, từ việc viết sách báo, đào tạo cán bộ, cử cán bộ đi vào
phong trào “vô sản hoá” để đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào quần chúng, giác
ngộ quần chúng, xây dựng phong trào, tiến tới thành lập Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của CTTT trong đời sống
xã hội, trong sự nghiệp cách mạng nói chung và xây dựng Đảng nói riêng.
Người cũng yêu cầu toàn thể cán bộ, đảng viên, toàn bộ hệ thống chính trị phải
chủ động, tích cực và sáng tạo trong quá trình thực hiện CTTT. Bản thân
Người cũng là mẫu mực của việc không ngừng đổi mới CTTT để phù hợp với
14
yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Những chỉ dẫn của Người rất phong phú và
cụ thể, từ nghiên cứu lý luận, tuyên truyền, huấn luyện, cách nói, cách viết,
công tác báo chí...
Là người lãnh đạo CTTT của Đảng ta trong nhiều năm, trong cuốn sách
“Một số vấn đề về CTTT”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1999), đồng chí
Đào Duy Tùng đã có các bài nghiên cứu, bài viết, bài phát biểu có giá trị tổng
kết về CTTT. Cuốn sách đã khẳng định vai trò, vị trí, nhiệm vụ và những ảnh
hưởng, tác động tích cực của CTTT đối với các cuộc cách mạng Việt Nam
trong các thời kỳ và trong công tác xây dựng Đảng; những bài học kinh
nghiệm và phương châm chỉ đạo của CTTT; chống mọi ảnh hưởng của tư
tưởng tư sản, những tàn dư tư tưởng phong kiến, nâng cao chất lượng và đánh
giá hiệu quả CTTT.
Cuốn “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm
đổi mới (1986 - 2016)”, do Ban Chỉ đạo Tổng kết 30 năm đổi mới, Ban Chấp
hành Trung ương thực hiện, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với
Hội đồng Lý luận Trung ương ấn hành (2016), “Cuốn sách là công trình tổng
kết lý luận - thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt với sự nghiệp đổi mới toàn
diện mà toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh, nhất là trên lĩnh vực công tác
tư tưởng và công tác nghiên cứu lý luận của Đảng” [39, tr 7]. Cuốn sách cũng
đánh giá một cách hệ thống những gì đã làm được, làm tốt, những gì chưa làm
được, làm chưa tốt, từ đó nhận rõ hơn những vấn đề đang và sẽ đặt ra trong
chặng đường sắp tới, nhất là các vấn đề liên quan đến lĩnh vực công tác tư
tưởng, công tác tuyên giáo của Đảng. Vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được
tiếp tục nghiên cứu, luận giải sâu sắc, thấu đáo hơn để định hướng cho nhận
thức, hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; song, điều quan trọng
nhất rút ra qua 30 năm đổi mới chính là: thực tiễn cho chúng ta căn cứ và
15
niềm tin vững chắc để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ hơn vì
tương lai tươi sáng của dân tộc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân.
Đấu tranh trên mặt trận tư tưởng là một vấn đề lớn có tầm quan trọng đặc
biệt, nên đã có nhiều bài viết của nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả đề cập tới
trong cuốn “Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương
lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam”, của Hội đồng Lý luận Trung
ương, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội (2005). Cuốn sách phê phán
mạnh mẽ các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời
cuốn sách giúp cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ cán
bộ tuyên giáo các cấp nói chung, cấp xã nói riêng nâng cao tinh thần cảnh giác
cách mạng, kiên định lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Cuốn “Luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù địch”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội (2014), do Hội đồng Lý luận Trung ương ấn hành, đã nêu:
Thực tiễn và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta hơn 80 năm qua đã
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Trên
cơ sở tập trung phân tích, nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch, cuốn sách
cũng đưa ra các luận cứ khoa học và thực tiễn phản bác lại các quan điểm, luận
điểm thù địch đó. Cuốn sách phục vụ sinh hoạt công tác tư tưởng tại các cấp ủy
đảng, góp phần tăng cường đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo
vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng từ cấp cơ sở.
Cuốn “Ba mươi năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội (2015), do tập thể các tác giả Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu
Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên). Cuốn
sách đã giúp ta có cái nhìn khái quát: về tổng thể, sau 30 năm thực hiện công
- Xem thêm -