1
MỤC LỤC
30
2
MỞ ĐẦU
Kim loại đã là xương sống của nền văn minh. Đã có rất nhiều vật liệu được
nghiên cứu để thay thế kim loại nhưng nó vẫn đóng vai trò lớn trong việc sản xuất,
xây dựng và có khả năng làm như vậy trong nhiều năm nữa. Điều này là do kim loại
là sự kết hợp của một số thuộc tính hữu ích như sức mạnh, khả năng hoạt động,
chi phí thấp và khả năng được tái chế. Tuy nhiên, kim loại được chiết xuất từ
quặng của nó bằng hóa chất hoặc phương tiện sử dụng điện nhưng nó cho thấy
một xu hướng mạnh mẽ để trở lại dạng oxit của kim loại tức là có xu hướng ăn
mòn và hiện tượng này tạo ra một thiệt hại kinh tế to lớn là một trong những thách
thức cũng như yêu cầu đặt ra cho chúng ta.
Các phương pháp phòng chống ăn mòn rất nhiều và đa dạng. Những phương
pháp này có thể như:
-
Thay đổi về kim loại bằng hợp kim.
-
Thay đổi điều kiện của môi trường bằng cách sử dụng chất ức chế.
-
Sử dụng các lớp màng phủ để bảo vệ bề mặt kim loại.
-
Trong phạm vi nghiên cứu, đồ án tập trung vào việc nghiên cứu phương
pháp sử dụng lớp màng phủ mà ở đây cụ thể là màng phủ phosphat.
3
CHƯƠNG 1
: TỔNG QUAN
Phosphat hóa là một phương pháp gia công bề mặt kim loại được áp dụng rộng
rãi trong công nghiệp để xử lý bề mặt kim loại, được coi là một trong những
phương pháp chuẩn bị bề mặt kim loại tốt nhất trước khi sơn phủ hoặc nhúng dầu
mỡ nhằm bảo vệ các chi tiết kim loại đen.
Màng phosphat hoá chuyển hoá bề mặt kim loại thành một lớp bề mặt mới
không còn tính dẫn điện và tính kim loại, có khả năng chống ăn mòn. Nhờ các tính
chất đó người ta tạo ra công nghệ phosphat hoá để sử dụng trong các nhà máy xử lý
bề mặt kim loại.
Mục đích
-
Cải thiện bề mặt kim loại trước khi sơn phủ, sơn lót chống ăn mòn.
-
Tạo sự bám dính cho lớp phủ nhựa, cao su.
-
Để xử lý bề mặt kim loại trước khi gia công cơ khí như là cán nguội, kéo
dây...
Để tăng khả năng chống ăn mòn của các lớp dầu mỡ, sáp....
-
Tác dụng
Tác dụng phổ biến nhất của nó trong thực tiễn là nhằm kéo dài tuổi thọ màng
sơn phủ. Nếu nền kim loại khá trơ với các vật liệu sơn phủ thì lớp phosphat
hóa tạo ra lớp màng có nhiều lỗ xốp bám rất chắc với nền kim loại. Lớp này lại
“thấm” sơn và như thế tạo thành lớp phủ đặc chắc gắn rất tốt với nền.
Trong trường hợp này chức năng của màng phốtphát hoá là:
-
Liên kết với nền kim loại.
-
Lớp nền của màng sơn.
-
Làm tăng độ bền bám của màng sơn.
-
Chống ăn mòn dưới lớp sơn.
Khi sử dụng màng phốtphát hóa làm lớp nền cho chất dẻo thì màng phốt phát hóa
có tính năng và cơ chế tương tự như trên.
Ứng dụng
4
Ở các nước công nghiệp phát triển việc xử lý bề mặt trước khi sơn phủ là việc
làm theo tiêu chuẩn bắt buộc để tăng cường độ bám của màng sơn cũng như tăng
cường khả năng bảo vệ của màng trong điều kiện khí quyển.
Trong công nghiệp được sử dụng phổ biến nhất là màng phốtphát hoá của các
kim loại nặng như kẽm, sắt, măng gan. Các chế phẩm để xử lý bề mặt đều ở dạng
thương phẩm rất thuận tiện cho người sử dụng.
1.1. LỊCH SỬ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUÁ TRÌNH PHOSPHAT HÓA
STT
1
Năm
1906
2
1908
3
4
5
6
1909
1911
1928
1929
7
1933
8
9
10
11
1934
1940
1941
1950s
12
1960s
13
1960s
14
1970s
Tiến bộ được thực hiện / quá trình phát triển
Phosphat sắt thép sử dụng axit photphoric và mạt sắt
Xử lý lớp phủ phosphate với tác nhân oxy hóa để giảm
thời gian quy trình
Xây dựng bể phủ phosphat chịu được nhiệt độ cao
Quá trình mangan phủ phosphat ở nhiệt độ cao
Công nhận lớp phủ phosphat như công nghệ sơn
Sử dụng các tác nhân xúc tác đồng cho quá trình phủ
Sử dụng các tác nhân oxy hóa để tăng tốc cho quá trình
phủ
Sử dụng lớp phủ phosphat cho việc giảm nhiệt kim loại
Phát triển công nghệ phosphat hóa nguội.
Phosphat bề mặt nhôm sử dụng kẽm phosphate và florua.
Lớp phủ mangan được sử dụng và ứng dụng rỗng rãi
Sử dụng các phụ gia đặc biệt để kiểm soát trọng lượng
lớp phủ.
Quá trình phun phủ ở nhiệt độ 2530o
Cải thiện chất lượng lớp phủ, sử dụng các chất tẩy rửa
phun dựa trên công nghệ bề mặt.
1.2. CƠ CHẾ HÌNH THÀNH LỚP PHỦ
Dung dịch phosphat hóa thường được sử dụng trong công nghiệp là cá dung
dịch loãng của: kẽm phosphat, mangan phosphat, kẽm sắt phosphat… Kim loại nền
thường được sử dụng là sắt, thép hay thép tráng kẽm.
Trong quá trình phosphat hóa bề mặt kim loại được tiếp xúc trực tiếp với dung
dịch phosphat hóa. Tại lớp dung dịch ngay sát lớp bề mặt kim loại sẽ xảy ra phản
5
ứng giữa kim loại nền và dung dịch phosphat hóa. Quá trình hình thành và tích chất
của lớp phủ phụ thuộc vào phản ứng này cũng như qua trình trao đổi giữa lớp bề
mặt kim loại với toàn khối dung dịch phosphat hóa.
1.2.1.
Cân bằng trong dung dịch phosphat hóa.
Sự hình thành lớp phủ phụ thuộc vào cân bằng giữa muối dihidro photsphat tan
và phosphat không tan trong dung dịch phosphat hóa.
Trong dung dịch phosphat hóa tồn tại các cân bằng sau
3M(H2PO4)2 3MHPO4 + 3H3PO4 (1)
3MHPO4 M3(PO4)2 + H3PO4 (2)
3M(H2PO4)2 M3(PO4)2 + 4H3PO4 (3)
Các cân bằng này bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhiệt độ cũng như PH của dung
dịch. Ở nhiệt độ càng cao thì cân bằng (3) càng chuyển dịch mạnh về bên phải.
Khi kim loại tiếp xúc với dung dịch phosphat hóa phản ứng giữ kim loại và
dung dịch xảy ra
M + H3PO4 M(PO4)2 + H2(4)
Phản ứng này làm giảm nồng độ axit trong dung dịch từ đó làm cân bằng của (2)
và (3) dịch chuyển về phía tạo kết tủa phosphat trên bề mặt kim loại.
1.2.2.
Động học của quá trình tạo lớp phủ
Sự hình thành lớp phủ phosphat hóa trên bề mặt kim loại không chỉ phụ thuộc
vào yếu tố động lực học mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố động học như tốc
6
độ hòa tan kim loại nền, tốc độ tạo mầm tinh thể, tốc độ phát triển tinh thể, tốc độ
khuếch tán các ion trong dung dịch.
Khi phản ứng trung hòa trên bề mặt kim loại xảy ra, nông độ axit tại lớp dung
dịch sát bề mặt kim loại giảm tạo nên lớp dung dịch quá bão hòa các phosphat kim
loại ít tan. Tuy nhiên quá trình tạo phosphat trên bề mặt kim loại chỉ xảy ra khi có
đủ số lượng mầm tinh thể kết tinh ở lớp tiếp xúc giữa kim loại và dung dịch. Trong
quá trình kết tủa, lớp tinh thể phosphat phát triển theo trật tự xác định bởi bề mặt
kim loại.
Quá trình hình thành lớp phủ chia làm 4 giai đoạn
-
Giai đoạn ủ mầm.
-
Giai đoạn phát triển mầm.
-
Giai đoạn tăng nhanh khối lượng màng.
-
Giai đoạn kết thúc quá trình tạo màng.
Trong giai đoạn đầu, quá trình hòa tan kim loại diễn ra, pH dung dịch tăng dần
đến điểm trung hòa, nồng độ của các phần tử tạo lớp phủ ở lớp dung dịch sát bề
mặt bề mặt kim loại dần dần trở nên quá bão hòa. Ngay khi trạng thái quá bão hòa
giả bền bị phá vớ, quá trình hình thành mầm tinh thể được phát triển, giai đoạn kết
tinh thứ hai xảy ra. Lúc này quá trình hòa tan kim loại và phát triển tinh thể xả ra
song song với nhau. Khối lượng lớp phủ được tăng nhanh. Tùy theo từng điều kiện
cụ thể quá trình này có thể nhanh chóng dừng lại hay được tiếp tục trong một
khoảng thời gian nữa. Sau đó, quá trình tạo lớp phủ sẽ chậm dần và chấm dứt khi
bề mặt của kim loại được che phủ bởi lớp tinh thể làm cho phản ứng hòa tan không
thể xảy ra.
7
Thuyết điện hóa về quá trình hình thành lớp phủ:
Quá trình phosphat hóa có thể được coi là một quá trình điện hóa. Khi tiến hành
phosphat hóa bề mặt kim loại, giai đoạn đầu là giai đoạn hòa tan anod theo phương
trình phản ứng:
M→M2+ + 2e
Trong khi đó ở cathod xảy ra quá trình nhận electron của H+
2H+ + 2e →H2
Phần lớn diện tích bề mặt của kim loại đóng vai trò anod trong khi vùng cathod
giới hạn trong các vùng biên của các hạt tinh thể, các hạt oxit còn sót trên bề mặt
kim loại. Quá trình ăn mòn xảy ra nhanh tạo thành một lượng lớn ion kim lại tại lớp
dung dịch sát vùng anod. Cùng lúc, một lượng tương đương ion H+ bị khử thành H2
tại cathod làm giảm nhanh nồng độ H+ tại vùng này. Tốc độ của quá trình khuếch
tán H+ từ lớp dung dịch ngoài vào cũng như quá trình khuếch tán của ion kim loại từ
lớp dung dịch bên trong ra không theo kịp tốc độ hòa tan kim loại và khử H + dẫn
đến việc kết tủa phosphat kim loại trên bề mặt của các vùng cathod. (Lý thuyết này
được kiểm định thông qua quá trình kiểm định hóa bề mặt kim loại trong quá trình
phosphat hóa bằng dòng điện bên ngoài: Sự phân cực cathod làm tăng tốc độ hình
thành lớp phủ trong khi sự phân cực anod làm tăng lượng kim loại hòa tan nhưng
không làm tăng tốc độ hình thành lớp phủ).
Quá trình hình thành lớp phủ phosphat được thể hiện qua sơ đồ sau:
8
Phản ứng điện cực cần thiết cho sự tạo thành lớp phủ sẽ chậm dần khi lớp phủ
phát triển do lớp phủ phosphat có tính chất cách điện làm giảm cản quá trình khử
H+ tại cathod và quá trình hòa tan kim loại anod. Nói cách khác, quá trình hình thành
lớp phủ phosphat hóa là quá trình hòa tan kim loại tại anod. Nói cách khác, quá trình
hình thành lớp phủ phosphat hóa là quá trình tự thụ động hóa bề mặt kim loại . Quá
trình này thể hiện qua việc dịch chuyển thể hiện cực dần về phía anod trong quá
trình phosphat hóa.Sự thay đổi thế này tuân theo phương trình tự thụ động của
Muller và Konopiky.
T= M + Nlog
Trong đó: T là thời gian phosphat hóa, EMe thể ban đầu và E1 thể sau thời gian t, E8
là thể ổn định sau cùng khi hoàn thành quá trình phosphat. M và N là hằng số. Sự
khác biệt giữa EMe và thể ES trong thực tế vào khoảng 0.15 đến 0.2 volt cho thấy lớp
phủ phosphat khi hoàn chỉnh vẫn có độ xốp lớn hơn nhiều so với các lớp phủ thụ
động khác.
Sự biến đổi thế điện cực của thép nền trong quá trình phosphat hóa được Ghali
và Potvin mô tả qua sơ đồ:
9
Theo sơ đồ này thì bề mặt thép sẽ bị thụ động hóa dần dần cùng với sự phát
triển của lớp phủ phosphat hóa. Theo Ghali và Potvin thì quá trình phát triển màng
phosphat trải qua 4 giai đoạn:
-
Sự tấn công điện hóa trên bề mặt thép
-
Tạo kết tủa vô định hình
-
Kết tinh và phát triển tinh thể
-
Sắp xếp lại tinh thể
1.2.3.
Tính chất lớp phủ phosphat:
1.2.3.1.
Cơ chế bám dính của lớp phủ trên kim loại nền:
Sự bám dính của lớp phủ phosphat trên bề mặt kim loại nền được giải thích là
do sự xâm nhập và đan xen của các tinh thể phosphat vào các phần gồ ghề của sự
bề mặt kim loại. Hình mô tả sự tiếp xúc của lớp phủ với nền sắt.
10
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy cấu trúc bề mặt kim loại nền và sự định
hướng phát triển tinh thể phosphat theo cấu trúc kim loại nền đóng vai trò quan
trọng trong cơ chế bám dính của lớp phủ phosphat. Sự phát triển của các tinh thể
“khách” được định hướng bởi các tinh thể “chủ” sao cho các bề mặt tinh thể của
hai mạng chủ và khách song song với nhau tại bề mặt tiếp xúc. Đối với sắt thép, bề
mặt định hướng là mặt của αFe. Khi thép được xử lý bằng phương pháp cán thì bề
mặt này gần như song song với bề mặt kim loại. Đối với kẽm, mặt định hướng là
song song với bề mặt kim loại. Độ lệch giữa mạng chủ và mạng khách cho thấy
rằng có sự tồn tại một số vị trí khuyết giữa hai bề mặt, tại đó sự gắn kết giữa lớp
phủ và kim loại nền giảm.
1.2.3.2.
Tính chất vật lý:
Lớp phủ phosphat gồm các tinh thể ở nhiều dạng khác nhau, có kích thước khác
nhau và định hướng khác nhau.Kích thước tinh thể dao động từ 1μm đối với lớp
phủ mỏng cho đến 80100 μm đối với lớp phủ dày.
Đa số lớp phủ phosphat đều xốp, tổng diện tích lỗ xốp chiếm từ 0.1 đến 1%
diện tích lớp phủ.
Tùy theo thành phần dung dịch phosphat hóa, và điều kiện phosphat hóa, lớp
phủ phosphat có khối lượng từ 0.8 đến 80gam/m2.
11
Khối lượng riêng của lớp phủ dao động trong khoảng 0.9 đến 2.5 gam/cm 3 tùy
thuộc vào độ xốp và thành phần lớp phủ.
Lớp phủ phosphat có màu từ xám nhạt đến đen.Lớp phủ kẽm phosphat kẽm có
màu nhạt nhất. Khi có mặt các kim loại khác như Fe, Ni, Mn lớp phủ sẽ trở nên
đậm hơn.
Sự khác biệt về màu sắc của các đơn tinh thể so với lớp phủ là do sự khác
nhau về kích thước tinh thể trong các lớp phủ, các tạp chất (ví dụ như Cacbon) có
trong lớp phủ, cũng như do màu sắc và khả năng phản xạ của kim loại nền.
Điện trở của Zn3(PO4)2.4H2O do trên mẫu bột đa tinh thể có giá trị là 8.107
Ω/cm. Lớp phủ phosphat kẽm trên bề mặt thép có điện thế đánh thủng trong
khoảng 30 V/μm. Các giá trị này cho thấy lớp phủ phosphat thuộc loại vật liệu cách
điện tốt.
1.2.3.3.
Độ bền của lớp phủ:
Do có thành phần chủ yếu là các phosphat kim loại ngậm nước nên lớp phủ
phosphate bị phân hủy ở nhiệt độ cao. Độ bền nhiệt của các lớp phủ phosphate
tăng dần theo thứ tự sau: lớp phủ giàu Hopeite, lớp phủ giàu phosphophyllite, lớp
phủ phosphophyllite có mặt Mn hoặc Ni.
Độ bền của các tinh thể hydrat phosphate ngậm nước phụ thuộc nhiều vào áp
suất riêng phần trên bề mặt lớp phủ. Do đó độ bền nhiệt của lớp phủ phosphate sẽ
tăng lên khi trên bề mặt lớp phủ có một lớp dầu hoặc sơn bảo vệ.
Lớp phủ phosphate kẽm dễ tan dưới tác dụng của dung dịch kiềm, axit, chất tạo
phức.
Lớp phủ giàu phosphophyllite có độ tan trong kiềm nhỏ hơn nhiều so với lớp phủ
giàu hopeite. Mangan phosphate và nickel phosphate không bị hòa tan trong dung dịch
kiềm.
12
1.2.4.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và tính chất của
lớp phủ phosphat hóa:
Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và tính chất của lớp phủ
phosphat thành hai nhóm chính:
Nhóm yếu tố nhiệt động học: ảnh hưởng đến quá trình cân bằng trong dung dịch
khi quá trình phosphat hóa xảy ra bao gồm: Thành phần dung dịch phosphate hóa,
bản chất kim loại nền,…
Nhóm yếu tố động học: ảnh hưởng đến tốc độ hình thành lớp phủ bao gồm: sự
khuếch tán trong dung dịch, các quá trình xử lý bề mặt kim loại, các chất gia tốc và
các chất ức chế.
1.2.4.1.
Bản chất kim loại nền:
Kim loại bền chỉ có thể được phosphate hóa khi thỏa mãn các điều kiện:
Có tốc độ hòa tan đủ lớn trong dung dịch phosphat hóa, đảm bảo cho việc
hình thành mầm tinh thể.
Ion kim loại hòa tan vào dung dịch không gây ảnh hưởng xấu đến quá trình
hình thành và phát triển của tinh thể phosphate.
Các kim loại như sắt, kẽm, cadimi, nhôm và magiee thỏa mãn các yêu cầu trên.
Trong số đó sắt tráng kẽm và các hợp kim của sắt là đối tượng quan trong nhất của
công nghiệp phosphat hóa.
Đối với thép, tất cả các loại thép không chứa hợp kim hoặc có thành phần hợp
kim (loại trừ C) nhỏ hơn 5% đều có thể được phosphat hóa.
Tất cả các vật liệu chứa kẽm như thép mạ kẽm, hợp kim kẽm với một lượng
nhỏ đồng hoặc titan đều có thể được phosphat hóa.
Việc phosphat hóa nhôm gặp nhiều khó khăn do tốc độ hòa tan nhôm vào dung
dịch khá chậm. Tốc độ hòa tan chỉ được cải thiện khi trong dung dịch phosphat hóa
13
có thêm ion F và Al3+ cao trong dung dịch gây ảnh hưởng xấu đến sự hình thành tinh
thể phosphat.
1.2.4.2.
Thành phần của dung dịch phosphat hóa:
1.2.4.2.1
Độ axit của dung dịch phosphat hóa:
Phản ứng hòa tan kim loại trong quá trình phosphat hóa không chỉ là bước khởi
đầu cho sự tạo thành lớp phủ mà còn quyết định đến tính chất của lớp phủ. Quá
trình tấn công của axit tạo ra trên bề mặt kim loại sạch khỏi các tạp chất như bụi
đất, dầu mỡ và gỉ sét, đồng thời làm nhám bề mặt kim loại giúp cho lớp phủ chắc
hơn.
Khả năng và tốc độ hòa tan kim loại của dung dịch phosphat hóa phụ thuộc nhiều
vào độ axit tự do của dung dịch phosphat hóa, độ axit tự do càng cao thì kim loại
nền càng tan nhiều, thời gian cần thiết để trung hòa lớp dung dịch sát bề mặt kim
loại càng dài.
Bên cạnh đó axit tự do, nồng độ axit tổng cộng trong dung dịch có vai trờ
quyết định đến khả năng tạo tinh thể phosphate. Nồng độ axit tổng cộng càng cao,
trạng thái dung dịch quá bão hòa càng dễ đạt tới, tinh thể phosphat càng dễ tạo
thành.
Trong thực tế giá trị độ axit tự do và độ axit tổng cộng biến thiên trong một
phạm vi rất rộng tùy theo điều kiện phosphat hóa cụ thể. Axit tự do trong khoảng
1,0 đến 10,0; axit tổng cộng trong khoảng 10,0 đến 40,0.
1.2.4.2.2 Chất gia tốc:
Trong thực tế, quá trình tấn công của dung dịch phosphat hóa lên bề mặt kim loại
thường bị chậm do quá trình phân cực gây ra bởi sự hình thành các bọt khí hidro tại
các vùng catot. Để khắc phục hiện tượng này, ngoài việc sử dụng các biện pháp
như tăng khả năng khuếch tán, tiền xử lý kim loại với các dung dịch như muối titan
phosphat, dung dịch phosphat hóa thường được thêm vào các thành phần có tác dụng
khử phân cực: gọi là các chất gia tốc.
14
Đa số các chất gia tốc hoạt động theo cơ chế oxy hóa, có nghĩa là chúng đóng vai
trò tác nhân tấn công bề mặt kim loại thay cho H +, từ đó loại bỏ được quá trình hình
thành H2. Các chất gia tốc thông dụng là các muối nitrat, nitrit, clorat, các hợp chất
nitro hữu cơ, hidro peroxit (H2O2), các peroxit hữu cơ.
Trong trường hợp phosphat hóa trên bề mặt thép, các phản ứng ăn mòn bề mặt
kim loại dưới tác động của các chất gia tốc có dạng như sau:
4Fe+NO3+10H+ 4Fe2++NH4++H2O
3Fe+NO2+8H+ 3Fe2++ NH4++2H2O
3Fe+ ClO3+6H+ 3Fe2++ Cl +2H2O
Fe+ H2O2+2H+ Fe2+ + 2H2O
Trong một số trường hợp, phản ứng oxy hóa có thể xảy ra xa hơn, tạo Fe3+
2Fe2++2H++NO2 Fe3++ NO+H2O
6Fe2++6H++ClO3 6Fe3+ + Cl + 3H2O
2Fe2+ + 2H+ +H2O2 2Fe3+ +H2O.
Các phản ứng trên cho thấy khi có mặt của chất gia tốc, H+ được sử dụng vào
mục đích trung hòa do đó không có sự hình thành H 2. Bên cạnh đó khi sử dụng các
chất gia tốc là Nitrat ha nitrit thì lượng H+bị trung hòa cho mỗi mol sắt bị hòa tan
nhiều hơn trong trường hợp không sử dụng chất gia tốc hay khi sử dụng gia tốc là
H2O2 và Clorat, điều này cho thấy sự ưu việt của nitrit và nitrat trong vai trò gia tốc
cho quá trình phosphat hóa.
Các ion kim loại năng như Cu2+, Ni2+cũng được sử dụng như những chất gia tốc.
Trong quá trình phosphat hóa, các ion kim loại năng bị khử tạo thành các hạt kim
loại rất nhỏ trên bề mặt kim loại nền tạo nên các cặp vi pin làm tăng tốc độ quá
trình hòa tan kim loại nền qua đó thúc đẩy quá trình phosphat hóa.
15
Ngoài các chất gia tốc trên cơ sở oxi hóa, một số gia tốc hoạt động theo cơ chế
thụ động quá trình anod (quá trình hòa tan kim loại) để tăng tỷ lệ diện tích catot/anot
cũng được sử dụng. Trong số này hydroxylamine sulfat được ứng dụng nhiều
nhất.Chất gia tốc này cho phép tạo được lớp phủ phosphat ở nhiệt độ thấp hơn
bình thường.Các chất gia tốc như dextrose, galactose, urea, poly acrylate…cũng
được sử dụng hiệu quả.
1.2.4.3.
Quá trình xử lý bề mặt:
Lớp phủ phosphate chỉ có thể bám dính tốt trên bề mựt kim loại sạch không
còn dầu mỡ bụi hoặc các vết gỉ. Các tạp chất này có thể ngăn quá trình phản ứng
của dung dịch phosphat với kim loại nền hoặc gây cản trở cho qúa trình hình thành
mầm tinh thế, chính vì vật quá trình xử lý bề mặt kim loại có ảnh hưởng đáng kể
đến tốc độ phát triển của lớp phủ phosphat, độ dày lớp phủ và kích thước tinh thể.
Các ảnh hưởng này có thể có bản chất cơ học hoặc hóa học.Cùng một quá trình xử
lý bề mặt có thể gây ra những ảnh hưởng khác nhau đến quá trìnhphosphat hóa khác
nhau.
Độ nhám của bề mặt kim loại sau khi xử lý bề mặt có ảnh hưởng khá quan
trọng đến sự hình thành lớp phủ. Thông thường bề mặt kim loại quá nhẵn sẽ dẫn
đến lớp phủ có cấu trúc thô và không đồng đều, trong khi bề mặt kim loại nhám
(sau khi xử lý bằng giấy nhám hay phun cát) sẽ cho lớp phủ đều và mịn hơn. Đó là
do bề mặt kim loại nhám sẽ tạo điều kiện cho phản ứng trung hòa trên bề mặt kim
loại xảy ra nhanh hơn làm cho trạng thái quá bão hòa của lớp dung dịch sát bề mặt
kim loại nhanh đạt tới hơn, bên cạnh đó các mầm tinh thể dễ hình thành hơn trên
bề mặt nhám dẫn đến lớp phủ hình thành nhanh và đều hơn những trường hợp mặt
nhẵn.
Nghiên cứu của Kuanishu cho thấy sự khác biệt về tính chất lớp phủ trên thép
không xử lý bề mặt và thép xử lý bề mặt bằng cách phun cát. Với nhiệt độ
phosphat hóa trong khoảng nhiệt độ phòng đến 90oC, thời gian nhúng từ 3 đến 40
phút, dung dịch phosphat hóa có độ axit tự do bằng 2.5 và độ axit tổng cộng là 31.9.
16
Kuanishu nhận thấu mẫu sắt có xử lý bề mặt cho lớp phủ dày hơn và tỷ lệ khối
lượng lớp phủ/kim loại tan ra lớn hơn mẫu sắt không xử lý bề mặt.
Bản chất của quá trình làm nhám bề mặt kim loại (dùng cơ học hay hóa học)
cũng gây ra những ảnh hưởng khác nhau: xử lý cơ học thường tạo ra lớp phủ chắc,
ít lỗ xốp trong khi xử lý hóa học tạo ra lớp phủ nhiều lỗ xốp hơn.
Khi xử lý bề mặt kim loại với dung dịch kiềm đặc (tẩy dầu mỡ) trước khi
phosphat hóa, lớp phủ phosphat hóa thu được thường có dạng tinh thể thô và khối
lượng màng lớn hơn khi xử lý bằng dung môi hữu cơ thông thường, bên cạnh đó,
thời gian hoàn thành lớp phủ cũng dài hơn, hiện tượng nàu xảy ra là do dung dịch
kiềm đặc tạo nên một lớp hydroxit hay oxit mỏng trên bề mặt kim loại đã làm mất
hoạt tính của các tâm hoạt động. Kết quả là làm giảm số tâm kết tinh dẫn đến việc
giảm số lượng tinh thể có trên một đơn vị diện tích. Do đó, số tinh thể hình thành
sẽ ít hơn nhưng có kích thước lớn, cần có nhiều thời gian cho các tinh thể này che
phủ hoàn toàn bề mặt kim loại.
Việc xử lý bề mặt kim loại bằng dung dịch axit tạo ra các ảnh hưởng khác
nhau. Trong một số trường hợp sự ăn mòn bề mặt bằng axit dẫn đến lớp phủ thô
hơn khi không xử lý axit, tuy nhiên khi dung dịch phosphat hóa có mặt các chất gia
tốc thì lại có kết quả ngược lại.
Trong một số trường hợp, bề mặt kim loại đang ở trạng thái thụ động (ví dụ
như sau khi ép, nén, xử lý nhiệt trong môi trường khử) việc xử lý bề mặt với dung
dịch axit sẽ phá bỏ lớp thụ động và tạo ra trên bề mặt thích hợp cho sự hình thành
lớp phủ phosphat.
1.2.4.4.
Quá trình tiền xử lý:
Để thúc đẩy quá trình hình thành lớp phủ trên bề mặt kim loại, trước khi
phosphat hóa, bề mặt kim loại thường xử lý bằng các dung dịch có khả năng tạo
thành các tâm kết tinh (mầm tinh thể). Quá trình này được gọi là quá trình tiền xử
lý, các dung dịch thường được sử dụng bao gồm: dung dịch muối đồng, phosphat
titan,phosphat natri,…
17
Xử lý bề mặt kim loại trước khi phosphat hóa bằng các dung dịch muối nitrit
cũng cho lớp phủ đều và mịn do nồng độ chất oxi hóa cao tại lớp dung dịch sát bề
mặt kim loại sẽ thúc đẩy quá trình ăn mòn bề mặt kim loại do tác dụng khử phân
cực, dẫn đến việc mau đạt được độ bão hòa của lớp dung dịch sát bề mặt kim loại
thúc đẩy quá trình tạo mầm tinh thể. Tiền xử lý bằng dung dịch axit oxalic cũng cho
kết quả tương tự do axit oxalic có tác dụng ăn mòn nhẹ làm hoạt hóa bề mặt kim
loại.
Phương pháp tiền xử lý được sử dụng rộng rãi nhất đó là dùng dung dịch chứa
titan phosphat – được Jernstedt phát minh vào năm 1940.Quá trình tiền xử lý này dẫn
đến việc tạo thành lớp phủ mịn đồng thời làm giảm đáng kể thời gian phosphat hóa.
Dung dịch titan phosphat thường có dạng huyền phủ trong đó có hạt titan phosphat
rất mịn, chính những hạt này khi bám bề mặt kim loại sẽ đóng vai trò các tâm kết
tinh làm thúc đẩy quá trình hình thành lớp phủ. Ngoài titan phosphat, các dung dịch
chứa các hạt mịn của manganphosphat, kẽm phosphate cũng được sử dụng tuy nhiên
ở mức độ hạn chế hơn.
1.2.4.5.
Quá trình hậu xử lý:
Quá trình hâu xử lý thường được thực hiện ngay sau khi phosphat hóa nhằm mục
đích nâng cao tính chất của lớp phủ. Dung dịch hậu xử lý được sử dụng rộng rãi
nhất là dung dịch axit cromic, sau giai đoạn phosphat hóa (nhúng hoặc phun) lớp phủ
phosphat được nhúng trong dung dịch axit cromic sau đó được sấy khô, kết quả cho
thấy lớp phủ thu được có tính chất chống ăn mòn vượt trội so với lớp phủ cùng
loại không qua giai đoạn hậu xử lý.
Để nâng cao chất lượng của quá trình hậu xử lý, ngoài axit cromic, các phụ gia
khác như muối crom(III), các chất ức chế trên cơ sở hữu cơ được thêm vào thành
phần dung dịch.
1.2.5.
Lớp phủ làm nền cho sơn:
Lớp phủ phosphate được ứng dụng rộng rãi trong dung dịch tạo lớp phủ làm
nền cho sơn trên bề mặt kim loại có các tính chất sau:
18
Cấu trúc tinh thể xốp của lớp phủ làm tăng độ bám dính của mảng sơn
Nền phosphate phù hợp cho sự bám dính của hầu hết các loại sơn khác với
bề mặt kim loại chỉ thích hợp cho một loại sơn
Lớp phủ liên kết chặt chẽ với kim loại nền do đó ngăn cẳn quá trình xâm
nhập của hơi ẩm dưới màng sơn, hạn chế quá trình ăn mòn dưới màng sơn.
Chính vì vậy, khi kết hợp màng phosphate với lớp sơn phủ, độ bền và khả năng
bảo vệ của màng sơn tăng đáng kể.
Khi lớp sơn phủ bị vỡ để lộ kim loại bên trong ra môi trường ăn mòn (hơi ẩm,
không khí, muối), sự khác biệt giữa mức độ tiếp xúc với môi trường ăn mòn dẫn
đến việc hình thành các cặp vì pin: phần thép nền nơi tiếp xúc nhiều với tác nhân
ăn mòn (O2) trở thành catot, còn phần thép bền trong tiếp xúc ít hơn với các tác nhân
ăn mòn, trở thành anot, khi nền thép không có lớp phủ phosphat bảo vệ, quá trình ăn
mòn xảy ra dới màng sơn như sau:
Tại anod: Fe Fe2+ + 2e.
Tại cathod: O2 + 2H2O + 4e 4OH
Sự tạo thành hidroxit sắt: 2Fe2+ + 4OH 2Fe(OH)2
Sự tạo thành gỉ: 4Fe(OH)2 + O2 + H2O 4 Fe(OH)3
Khi có lớp phủ phosphate nằm giữa màng sơn và bề mặt théo thì dòng ăn mòn
bị bản trở bởi lớp phủ phosphat có khả năng cách điện cao, dòng ăn mòn chỉ có thể
đi qua các lỗ rỗng trên lớp phủ, do đó quá trình ăn mòn bị chậm lại
Như vậy, lớp phosphate có tác dụng ngăn cản sự xâm nhaapjc ủa tác nhân ăn
mòn đồng thời hạn chế quá trình tan kim loại, lớp phủ phosphate có cấu trúc càng
khít đặc, càng cso độ bền cao với môi trường thi fcanfg có cấu trúc khít đặc, độ bền
càng cao với môi trường ăn mòn. Bên cạnh đó, cấu trúc tinh thể mịn của lớp phủ
làm giảm lượng sơn phủ tiêu tốn cho một đơn vị diện tích bề mặt.
19
1.2.6.
Xu hướng phát triển của công nghệ phosphat hóa:
1.2.6.1.
Giảm chi phí năng lượng:
Thông thường, để tạo lớp phủ có tính chất tốt, quá trình phosphat được tiến hành
ở nhiệt độ cao, từ 6090oC. Để đưa dung dịch phosphat hóa lên tới nhiệt độ này, cần
một năng lượng lớn. Để giảm chi phí năng lượng cần giảm nhiệt độ phosphat.
Nhiều biện pháp đã được sử dụng như thay đổi chế độ xử lý bề mặt, thay đổi chất
gia tốc, thay đổi thành phần dung dịch.
1.2.6.2.
Giảm ô nhiễm môi trường:
Quá trình phosphat hóa luôn đi kèm với việc thải ra môi trường một lượng hóa
chất độc hại.Điển hình là các hợp chất của nitơ khi sử dụng các chất gia tốc trên
cơ sở nitrit, và các hợp chất của crom trong dung dịch hậu xử lý.Để giảm thiểu các
tác nhân độc hại này, các hệ gia tốc không dùng nitrit, nitrat và các dung dịch hậu xử
lý không trên cơ sở axit cromic đã được sử dụng.
Các chất gia tốc trên cơ sở các peroxit hữu cơ như oxim và percaboxilic như ethyl
hydroperoxid, iso propyl hydroperoxid với nồng độ trong khoảng 50 đến 1500 ppm
đã được sử dụng thay cho nitrit, nitrat và cho kết quả tốt.
Một loại các quá trình hậu xử lý không dùng axit cromic đã được sử dụng. Các
dung dịch trên cơ sở tannin, polyvinyl phenolic, và muối thiếc đã cho thấy có tác
dụng khả quan tuy vẫn chưa thể thay thế hoàn toàn axit cromic.
Triệt để hơn, các quy trình phosphate không rửa đã được áp dụng với mục đích
giảm thiểu lượng hóa chất thải ra môi trường ngoài.
1.2.6.3.
Nâng cao chất lượng chất phủ:
Trong tất cả các xu hướng phát triển thì xu hướng nâng cao chất lượng lớp phủ
luôn được quan tâm hàng đầu.Đặc biệt là việc nâng cao chất lượng lớp phủ
phosphate làm nền cho sơn vì đây là phạm vi ứng dụng rộng rãi nhất của phosphat
hóa.
20
Cùng với sự phát triển của các ngành nông nghiệp, chất lượng của lớp phủ
phosphat làm nền cho sơn cũng được đòi hỏi phải được nâng cao không ngừng. Lớp
phủ phosphat được cải tiến đều có độ bám dính cho màng sơn tốt hơn, khả năng
che phủ bề mặt kim loại tốt hơn, có bề mặt mịn hơn và đặc biệt là khả năng chịu
kiềm phải tốt hơn.
Theo cơ chế ăn mòn dưới màng sơn ta thấy trong quá trình ăn mòn, O 2 và hơi ẩm
sẽ tạo ra môi trường kiềm tại vùng ăn mòn, chính vì vậy nếu lớp phủ phosphat dễ
tan trong môi trường kiềm thì tác dụng bảo vệ của nó sẽ không còn. Các lớp phủ
phosphat trước đây thường có thành phần chủ yếu là Hopeite (phosphat kẽm) có độ
tan lớn trong môi trường kiềm.
Để nâng cao chất lượng của lớp phủ, các nghiên cứu gần đây tập trung vào 3
hướng:
Hướng 1: thay đổi điều kiện phosphat hóa để tạo ra lớp phủ có cấu trúc chắc
đặc hơn từ đó tăng cường khả năng ngăn cản tác nhân ăn mòn của lớp phủ, đồng
thời giảm lượng sơn tiêu tốn cho một đơn vị diện tích bề mặt.
Hướng 2: thêm các phụ gia là các ion kim loại vào dung dịch phosphat hóa với
mục đích tạo ra phosphat có thành phần pha mới không tan trong kiềm, các ion kim
loại được sử dụng là các ion có phosphat khó tan trong môi trường kiềm như Fe 2+,
Cu2+, Ni2+, Mn2+, Co2+, Cr3+.
Hướng 3: thêm các phụ gia có khả năng ức chế ăn mòn như cromat, molipdat,
các amin hữu cơ vào dung dịch phosphat hóa. Các phụ gia này tham gia vào thành
phần lớp phủ hoặc được hấp thụ trong lỗ xốp của lớp phủ. Khi tác nhân ăn mòn
xâm nhập qua mảng sơn, các chất ức chế trong lớp phủ sẽ hạn chế đáng kể tác
dụng ăn mòn của chúng.
- Xem thêm -