Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản...

Tài liệu Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

.PDF
38
160
140

Mô tả:

Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Ths. Võ Văn Tài Giảng viên Khoa Kiểm sát hình sự LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Định tội danh là một vấn đề phức tạp trong khoa học pháp lý hình sự. Quá trình giải quyết vụ án hình sự cần đảm bảo sự khách quan, khoa học và chính xác. Định tội danh đúng là yếu tố đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đúng theo các điều khoản tương ứng của Bộ luật hình sự (BLHS), không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà công cuộc Cải cách tư pháp đang được triển khai thực hiện trong hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, thì việc định tội danh đúng càng trở nên bức thiết nhằm phục vụ hiệu quả cho tiến trình cải cách tư pháp và đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Định tội danh đối với các tội phạm xâm phạm quan hệ sở hữu quy định tại Chương XIV BLHS rất phức tạp và khó khăn, rất nhiều tội phạm liên quan đến quan hệ sở hữu là nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Do vậy, để xác định được người phạm tội vi phạm quy định nào trong chương các tội xâm phạm sở hữu, cần phải căn cứ vào hành vi khách quan của người phạm tội, thời điểm người phạm tội nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản cũng như thời điểm họ thực hiện hành vi chiếm đoạt. Việc xác định sai thời điểm cũng như nhận định không đúng, không khách quan về thời điểm phát sinh ý thức này của người phạm tội sẽ dẫn đến việc định tội danh không đúng, không truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, làm hạn chế mục đích mà Bộ luật hình sự khi ban hành hướng đến. Trong trường hợp này, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những ví dụ điển hình. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là hành vi mới. Tuy nhiên, để định tội danh đúng cho người phạm tội trong trường hợp này cần thiết phải xác định thật chính xác thời điểm phát sinh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội, tránh trường hợp định nhầm tội danh sang tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999 sửa đổi, một tội phạm với khung hình phạt nặng hơn, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người phạm tội. Do vậy, nghiên cứu vấn đề “Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” trong trường hợp này là cần thiết nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý cho công tác định tội danh đối với loại tội phạm này trong thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Như đã trình bày, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là vấn đề mới mẻ, có khá nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp chí pháp lý đề cập đến loại 1 tội phạm này. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận ở các góc độ khái quát nhất hoặc dưới góc độ so sánh nó với các tội phạm khác trong chương các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự Việt Nam như bài viết “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng chiếm đoạt là tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Hồ Ngọc Hải; “Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi phạm pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay” của Hồ Trọng Ngũ; “Khi nào thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của tác giả Lê Hồng Phúc; “Điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Đồng Nai” của tác giả Nguyễn Hồng Quang; “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Trần Duy Bình; “Khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điều 140 Bộ luật hình sự” của tác giả Vi Văn Cảnh; “Tình hình tội phạm gia tăng do luật không chặt”và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - lằn ranh mong manh giữa hình sự và dân sự” của cùng tác giả Nguyễn Hồng Phúc; “Nghịch lý trong xử lý hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của tác giả Mã Hải và An Huy; “Hiện tượng hình sự hóa các quan hệ dân sự” của Nguyễn Văn Vân … Chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh cũng như làm thế nào để định tội danh đúng đối với tội phạm này. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thông qua một số vụ án thực tiễn làm sáng tỏ những vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến tội phạm này. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn ở các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng theo quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi. 4. Mục đích nghiên cứu Dựa trên các kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn công tác định tội danh của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ các tác giả trước, cùng với việc phân tích các vụ án cụ thể nhằm làm sáng tỏ những vướng mắc trong quá trình định tội danh đối với tội phạm này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể có thẩm quyền, giúp hoạt động định tội danh chính xác, đúng theo quy định của pháp luật hình sự. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích đã được xác định, để hoàn thiện đề tài cần thiết phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: 2 - Phân tích các vấn đề lý luận về định tội, cơ sở khoa học, thực tiễn, về ý nghĩa của định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng. - Nghiên cứu, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Thông qua một số vụ án điển hình về lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được giải quyết trong thực tiễn thời gian gần đây để làm rõ những khó khăn, vướng mắc mà các cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải khi định tội danh đối với các trường hợp này, từ đó, kiến nghị các giải pháp khắc phục trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần hoàn thiện lý luận về định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, phân tích các yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 sửa đổi. Về thực tiễn: Bên cạnh việc hoàn thiện về mặt lý luận, với việc vận dụng và đưa vào phân tích các vụ án cụ thể, rút ra những vướng mắc thường gặp trong quá trình định tội danh đối với loại tội phạm này, đề tài cũng có ý nghĩa như là một nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu phục vụ cho thực tiễn áp dụng BLHS hiện hành vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu gồm 2 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và cơ sở pháp lý về định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và một số giải pháp khắc phục. 3 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Lý luận chung về định tội danh . . . Khái niệm định tội danh Trong lý luận khoa học luật hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự được hiểu là một quá trình đa dạng và phức tạp được tiến hành qua các giai đoạn nhất định như: Giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực pháp luật về thời gian và không gian, định tội danh, quyết định hình phạt … Trong đó, định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản để đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc sống. Định tội danh còn là tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật khác của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự, như xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử … Đối với việc xét xử thì chỉ sau khi thực hiện xong việc định tội danh, Tòa án mới có cơ sở để thực hiện vấn đề áp dụng hình phạt. Thực tế, việc định tội danh không đúng trên thực tế đã dẫn đến rất nhiều trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Định tội danh là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS, người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với người thực hiện hành vi phạm tội ấy. Như vậy, định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi tội phạm cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự. Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, khái niệm định tội danh được hiểu ở hai nghĩa. Trước hết, định tội danh là một quá trình lôgic nhất định, là hoạt động của con người về việc xác nhận và ghi nhận sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm được quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Thứ hai, định tội danh là việc đánh giá về mặt pháp lý đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hai nghĩa này có sự quan hệ mật thiết với nhau trong khái niệm định tội danh. Định tội danh cũng có nghĩa là một trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý, là sự đánh giá về mặt pháp lý đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người có thẩm quyền 4 đang xem xét, xác định hành vi được quy định ở điều nào của Bộ luật hình sự. Hay định tội danh là kết luận về sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét với khái niệm về loại tội tương ứng được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự, tức là việc lựa chọn quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi cụ thể đang xem xét. Điều đó cũng có nghĩa là sự xác định hành vi xảy ra trong thực tế là hành vi tội phạm. Như vậy, định tội danh thực chất là sự xác định về mặt pháp lý đối với hành vi phạm tội xảy ra trong thực tế. Do đó, điều có ý nghĩa quan trọng trong quá trình định tội danh là phải tìm được những dấu hiệu cơ bản, điển hình và quan trọng nhất, phải chỉ ra những dấu hiệu cần và đủ để xác định thực chất của hành vi xảy ra trong thực tế. Đồng thời, khi đối chiếu các dấu hiệu đó với các dấu hiệu được quy định trong một quy phạm pháp luật hình sự phải đưa ra kết luận rằng nhà làm luật khi ban hành quy phạm pháp luật đó là để áp dụng cho những trường hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét. Nhưng áp dụng quy phạm pháp luật hình sự là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành một cách tuần tự từ cái chung đến cái riêng. Tội phạm là một loại vi phạm pháp luật nói chung. Do đó, khi định tội danh, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải thực hiện đầy đủ các bước cơ bản, đảm bảo cho quá trình xác định tội phạm được chính xác. Trước hết, cần phải xác định có hay không có hành vi phạm tội, đó là hành vi phạm tội hay chỉ đơn thuần là hành vi vi phạm pháp luật khác (vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ trong dân sự,…). Đặc biệt, trong quá trình phân định loại vi phạm pháp luật cần chú ý đến khả năng loại trừ tính chất phạm tội của hành vi, như trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ hay người thực hiện hành vi không có năng lực trách nhiệm hình sự. Sau đó, cần xác định xem hành vi đó vi phạm điều khoản cụ thể nào của Bộ luật hình sự và trên cơ sở đó định tội cho phù hợp. Ngoài ra, định tội danh là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và được tiến hành bởi hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, từ khi khởi tố vụ án cho tới khi bản án hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình phải ra Quyết định khởi tố vụ án. Khi đã có đầy đủ căn cứ để xác định một người có hành vi phạm tội thì ra Quyết định khởi tố bị can và phải ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng (Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự). Kết thúc hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra làm bản Kết luận điều tra chuyển sang Viện kiểm sát. Từ bản Kết luận điều tra này, theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án bằng cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự cần được áp dụng. Đối với Tòa án, việc kiểm tra, xem xét định tội danh được thực hiện ngay trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Sau khi nhận được hồ sơ của Viện kiểm sát, trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ kiểm tra việc truy tố có căn cứ hay không và tùy trường hợp có quyền quyết định: đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình 5 chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Khi ra bản án, vấn đề xác định tội danh có ý nghĩa rất lớn. Vì không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9 Bộ luật TTHS). Tại Điều 224 Bộ luật TTHS quy định: Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự… Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm việc xem xét định tội danh đã đúng hay chưa cũng rất được quan tâm, vấn đề này được thể hiện tại các Điều 248, 285, 298 Bộ luật TTHS. Như vậy, định tội danh là một quá trình năng động và phức tạp, được tiến hành qua tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Ở mỗi giai đoạn quá trình định tội danh mang tính chất và những đặc điểm khác nhau. Do vậy, khái niệm định tội danh hiện có những quan điểm và cách hiểu rất khác nhau.Mặc dù vậy, tất cả đều có sự thống nhất với nhau ở việc thừa nhận định tội danh là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền, một hoạt động nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi mà người phạm tội thực hiện với các quy định của pháp luật hình sự để thông qua đó có cách thức xử lý cho phù hợp (quy định mức trách nhiệm pháp lý tương xứng với hành vi mà người phạm tội đã thực hiện). Xuất phát từ cách nhìn nhận, đánh giá ở góc độ cá nhân nhận thấy: “Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính lôgic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, để giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra văn bản áp dụng pháp luật (văn bản tố tụng hình sự)”. . .2. Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý để định tội danh 1.1.2.1. Cơ sở pháp lý để định tội danh Là những căn cứ do pháp luật dùng làm căn cứ giúp cho việc định tội danh đảm bảo tính chính xác, khoa học. Gồm: Bộ luật hình sự - Cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội danh và Cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho việc định tội danh. *Bộ luật hình sự - Cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội danh Định tội là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã diễn ra trong thực tiễn với các dấu hiệu tương ứng trong quy phạm pháp luật hình sự. Quy phạm pháp luật hình sự chứa đựng những dấu hiệu đặc trưng, điển hình, bắt buộc không thể thiếu được của một loại tội phạm cụ thể. Những dấu hiệu đó sẽ trở thành khuôn mẫu pháp lý làm cơ sở cho người tiến hành tố tụng so sánh, đối chiếu với hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra ngoài thế giới khách quan, từ đó xác định được người phạm tội phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự. 6 Tại Điều 2 BLHS hiện hành quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Điều này có nghĩa là, một người chỉ bị cho là phạm tội và bị xử lý khi hành vi mà họ thực hiện được quy định trong Bộ luật hình sự, không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có quyền tự cho mình quyền được xác định hành vi do một người thực hiện có phải là tội phạm hay không và mức xử phạt như thế nào. Bộ luật hình sự bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật được sắp xếp làm hai phần: Phần chung và phần các tội phạm. Trong đó, phần chung quy định về các nhiệm vụ, các nguyên tắc, các chế định, các khái niệm cơ bản của luật hình sự Việt Nam, hiệu lực của Luật hình sự, giới hạn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt, các điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt. Nói cách khác, phần chung của Bộ luật hình sự bao gồm những quy định chung nhất, bao trùm nhất, điều chỉnh những vấn đề quan trọng nhất của luật hình sự; về đạo luật hình sự, về tội phạm và hình phạt. Nhưng nội dung phần chung không nêu các dấu hiệu cụ thể của bất kỳ hành vi phạm tội nào. Phần các tội phạm bao gồm các quy phạm xác định các tội phạm cụ thể theo loại tội và kiểu hành vi, và kèm theo đó là quy định về các hình phạt cụ thể đối với từng tội. Phần các tội phạm được các nhà làm luật đã tìm và xác định xem trong quá trình tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội dấu hiệu nào là đặc trưng, cơ bản và được lặp lại nhiều lần trong thực tế, để từ đó quy định thành các dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng. Vì vậy, phần các tội phạm nêu mô hình cụ thể của tội phạm, các loại và mức độ trừng phạt đối với mỗi tội phạm. Phần chung và phần các tội phạm có mối liên hệ chặt chẽ nhau, quan hệ hữu cơ với nhau nên khi định tội danh phải đồng thời dựa vào cả hai nhóm quy phạm hình sự này. Việc áp dụng phần các tội phạm phải dựa trên các luận điểm chung và các nguyên tắc được quy định ở phần chung của Bộ luật hình sự. Định tội danh có mục đích là dựa trên cơ sở pháp lý cụ thể để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một con người về hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện. Trong khía cạnh pháp luật, định tội danh có nghĩa là lựa chọn một quy phạm pháp luật mà nó đề cập tới trường hợp cụ thể nào đó. Quy phạm pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ thể quy định trách nhiệm hình sự đối với mỗi hành vi phạm tội. Nhưng những quy định này phải dựa trên các nguyên tắc, điều kiện được nêu ra trong các quy phạm phần chung, còn bản thân quy phạm pháp luật phần chung lại không có ý nghĩa nếu thiếu quy phạm pháp luật phần các tội phạm. Như vậy, quy phạm pháp luật phần chung và quy phạm pháp luật phần các tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ, không thể thiếu của định tội danh với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Định tội danh là việc đối chiếu dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với dấu hiệu trong mô hình một loại tội phạm tương ứng, xác định sự giống nhau của một tình huống cụ thể đã xảy ra trong cuộc sống với một trường hợp đã được nêu trong Bộ luật hình sự. Nhưng phần các tội phạm của Bộ luật hình sự chỉ nêu định nghĩa về tội phạm đã hoàn thành. Còn trong thực tế, có những trường hợp đòi hỏi phải có sự đánh giá một hành vi đã thực hiện nào đó là tội phạm nhưng chỉ 7 ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt được nêu tại Điều 17 và Điều 18 Bộ luật hình sự, do vậy khi định tội danh phải căn cứ vào quy phạm pháp luật phần các tội phạm, tìm ra quy phạm pháp luật tương ứng cho tội phạm đó ở giai đoạn phạm tội hoàn thành và kết hợp với Điều 17 hay Điều 18 Bộ luật hình sự để xử lý đối với những trường hợp người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc hành vi chưa gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Bên cạnh đó, trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự còn đề cập tới hàng loạt tội phạm có dấu hiệu của hành vi tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm. Đặc biệt có những điều luật trong phần các tội phạm không có chỉ dẫn về việc thực hiện tội phạm dưới hình thức đồng phạm nhưng hành vi tội phạm lại thực hiện dưới hình thức đồng phạm, vì vậy để định tội danh với những trường hợp phạm tội do nhiều người cố ý cùng thực hiện, thì song song với việc áp dụng quy phạm pháp luật phần các tội phạm còn phải áp dụng Điều 20 Bộ luật hình sự. Như vậy, khi tiến hành định tội danh đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải căn cứ vào cả quy phạm phần chung và quy phạm phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, đồng thời phải viện dẫn một cách chính xác và đầy đủ điều khoản hay một số điều luật liên quan, bao quát được toàn bộ hành vi nguy hiểm cho xã hội được nêu trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự và cũng cần phải lưu ý tới hiệu lực về không gian và thời gian của điều khoản được viện dẫn. Có như vậy, việc định tội danh mới đảm bảo đủ cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó. *Cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho việc định tội danh Trong quá trình định tội danh nếu BLHS giữ vai trò là cơ sở pháp lý trực tiếp, thì Bộ luật TTHS giữ vai trò là cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho quá trình này. Tại Điều 1 Bộ luật TTHS quy định: Trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Ngoài ra, toàn bộ các quy phạm của Bộ luật TTHS cũng quy định về cả cách thức của quá trình định tội danh nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân trong lĩnh vực hoạt động tư pháp hình sự. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự, những quy phạm nhằm bổ trợ cho việc định tội danh được chính xác như: Chương V - quy định về chứng cứ trong vụ án hình sự; chương VI - quy định về các biện pháp ngăn chặn; chương VIII - quy định về khởi tố vụ án hình sự; chương X đến chương XIII quy định về điều tra, như khởi tố bị can, trình tự, thủ tục hỏi cung bị can, lấy lời khai những người tham gia tố tụng, đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi ... Bên cạnh Bộ luật Tố tụng hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như: Nghị quyết, Thông tư liên tịch, Nghị định…cũng có vai trò là cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho việc định tội danh. Bởi vì, những văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định cụ thể nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội mà theo đó sự mô tả trong dấu hiệu cấu thành tội phạm của Bộ luật hình sự không thể khái quát được. 8 Hơn nữa, những biến đổi theo xu hướng phát triển của xã hội đòi hỏi phải ban hành những văn bản mới thay thế cho những văn bản đã không còn phù hợp. Các cơ quan có thẩm quyền trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử phải nắm vững và hiểu rõ nội dung quy định của những văn bản này mới có thể vận dụng để định tội danh được chính xác. 1.1.2.2. Cơ sở khoa học của việc định tội danh Cấu thành tội phạm là cơ sở giúp cho quá trình định tội được chính xác. Đây là một trong những khái niệm mang tính chất trừu tượng, là sự tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Bởi vậy, cấu thành tội phạm là mô hình khái quát, trừu tượng mang tính chất khoa học gồm những dấu hiệu chung, cơ bản nhất của các tội phạm cùng thuộc một loại. Đó là những dấu hiệu điển hình và có tính lặp đi, lặp lại ở tất cả những hành vi tội phạm thuộc loại đó. Chính vì thế, việc nghiên cứu những vấn đề về cấu thành tội phạm có ý nghĩa pháp lý hình sự rất quan trọng đối với quá trình định tội danh, vì định tội danh chính xác tức là xác định đúng sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất định nào đó được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng-các dấu hiệu được quy định tại một quy phạm pháp luật hình sự cụ thể của phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Khoa học luật hình sự phân chia cấu thành tội phạm theo phương diện riêng của hành vi phạm tội, nó được phân thành bốn nhóm: Nhóm dấu hiệu về khách thể của tội phạm, nhóm dấu hiệu về chủ thể, nhóm dấu hiệu về mặt khách quan và nhóm dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, tội phạm là một thể thống nhất, do vậy việc tách riêng từng yếu tố trong quá trình định tội danh nêu trên chỉ có ý nghĩa tương đối, căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể để chúng ta vận dụng các yếu tố này cho hợp lý trong quá trình định tội danh. 1.1.3. nghĩa của việc định tội danh Việc định tội danh đúng trên thực tế mang lại những ý nghĩa nhất định sau: - Trên cơ sở của việc xác định đúng tội phạm, chính xác về hành vi của người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể quyết định một hình phạt đúng đắn, chính xác, tương xứng với hành vi mà người phạm tội đã thực hiện. - Định tội danh đúng đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, loại trừ việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và kết án oan sai, vô căn cứ đối với những người có hành vi không nguy hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công bằng đối với những người phạm tội. - Định tội danh đúng còn là cơ sở để áp dụng chính xác các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời hạn điều tra, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và việc ra các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo có căn cứ và đúng pháp luật, sẽ góp phần đắc lực vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 9 - Định tội danh đúng thể hiện hoạt động có hiệu quả, ý thức tuân thủ pháp luật triệt để cũng như ý thức trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, từ đó góp phần nâng cao uy tín, chất lượng hoạt động của các cơ quan này cũng như hỗ trợ cho việc củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để định tội danh đúng, công bằng cần phải có những Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có văn hóa, có trình độ ý thức pháp luật cao và hiểu biết một cách đúng đắn, sâu sắc các quy định của pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, lợi ích của nhân dân. Ngoài ra, cũng cần phải có những điều kiện chính trị-xã hội cần thiết nhất định bảo đảm tính độc lập của Tòa án, của các cơ quan điều tra và truy tố khỏi những tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài, bảo đảm việc chỉ tuân theo pháp luật. Định tội danh đúng có nghĩa là từ quan điểm của đạo luật hình sự đánh giá đúng bản chất chính trị - xã hội và pháp lý của tội phạm đã thực hiện, xác định được sự phù hợp của hành vi phạm tội đã thực hiện với các dấu hiệu được chỉ ra trong luật ở dạng khái quát về hành vi đó. Định tội danh đúng có nghĩa là tuân thủ chính xác các quy định của đạo luật hình sự, áp dụng điều, khoản, điểm của điều luật hoặc tổng hợp các điều luật bao quát được hành vi phạm tội đã thực hiện. Việc định tội danh đúng hành vi nguy hiểm cho xã hội còn có ý nghĩa là áp dụng chính xác và đầy đủ đạo luật hình sự phản ánh được sự đánh giá pháp lý của Nhà nước đối với tội phạm đã thực hiện. 1.2. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.2.1. Khái niệm Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Quan hệ sở hữu là một trong những quan hệ cơ bản và quan trọng nhất của một thể chế pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới luôn xác định sở hữu, quyền sở hữu là vấn đề trọng tâm của pháp luật. Các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ quan hệ sở hữu, chính vì thế quan hệ sở hữu là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ khác. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản đóng vai trò quan trọng trong các văn bản pháp lý của Nhà nước, ở đó tài sản vừa là đối tượng vừa là khách thể của quan hệ sở hữu. Yêu cầu cơ bản nhất đặt ra đối với bảo vệ quyền sở hữu tài sản là tài sản đó phải giao dịch được và được phép đưa vào giao dịch, nó là đối tượng phổ biến được điều chỉnh bởi các quy định của cả hệ thống pháp luật. Từ thực tiễn xét xử tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong hơn 10 năm thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, đặc biệt vào những năm cuối của thập niên chín mươi, khi các quan hệ dân sự phát sinh một cách ồ ạt với nhiều hình thức biến tướng khác nhau thì cũng đồng thời dẫn đến thực trạng là các cơ quan tiến hành tố tụng ở nhiều địa phương đã “hình sự hoá” các quan hệ dân sự, kinh tế làm nhiều người bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong khi lẽ ra họ chỉ là bị đơn dân sự trong vụ án dân sự. Trước một thực trạng như vậy, ngày 21/12/1999, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa X đã thông qua Bộ luật hình 10 sự năm 1999 thay thế Bộ luật hình sự năm 1985. Lần đầu tiên, nhà làm luật quy định cụ thể, rõ ràng các tình tiết là dấu hiệu định tội trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngoài những tình tiết đặc trưng về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định những tình tiết là yếu tố định tội làm ranh giới phân biệt giữa hành vi tội phạm với hành vi chưa phải là tội phạm. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự là tội danh được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1985. So với quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 được quy định theo hướng nhẹ hơn, trừ khoản 4 của Điều 140 có mức cao nhất của khung hình phạt nặng hơn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân. Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới hơn, đặc biệt trong cấu thành cơ bản, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới giữa hành tội phạm và hành vi chưa phải là tội phạm; các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định cụ thể hơn trước. Điều 140 BLHS quy định: “Người nào có một trong những hành vi sau đây: Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Từ quy định của Điều 140, kết hợp với khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 BLHS, cũng như các phân tích cụ thể về quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, có thể hiểu: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên bằng các hình thức hợp đồng rồi sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng hoàn trả lại tài sản hoặc dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó. 1.2.2. Định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dựa trên các yếu tố cấu thành tội phạm 11 Như đã phân tích, định tội danh là quá trình nhận thức lý luận, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, để giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra văn bản áp dụng pháp luật hình sự. Để xác định một hành vi nguy hiểm diễn ra trên thực tế đã phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thì cơ quan, người có thẩm quyền phải trả lời hành vi ấy có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 140 BLHS hay không. Những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành đó gồm mặt khách thể, khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Vì vậy nhằm tạo cơ sở cho việc nghiên cứu quá trình định tội đối với loại tội phạm này, việc cần thiết là phải nghiên cứu làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội phạm trên. *Dấu hiệu về khách thể của tội phạm. Tội phạm nào cũng xâm phạm đến một hoặc một số khách thể nhất định, đó là các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, khách thể mà tội phạm này hướng đến là quan hệ sở hữu về tài sản. Cũng như các tội xâm phạm sở hữu khác được quy định trong BLHS, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, nghĩa là tác động đến các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu được pháp luật bảo vệ. Tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS là tài sản được quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên, đối tượng là tài sản của tội phạm này phải thỏa mãn các yếu tố nhất định sau: Tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và giá trị sử dụng, là thước đo giá trị sức lao động của con người được kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Những tài sản không có giá trị và giá trị sử dụng không thể trở thành đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là tài sản có chủ sở hữu, quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu là hợp pháp và được pháp luật công nhận, có thể chuyển dịch thông qua các giao dịch thể hiện bằng các hợp đồng dân sự cụ thể. Những tài sản không có chủ sở hữu hoặc bị từ bỏ quyền sở hữu (vật bị đánh rơi, bỏ quên, thất lạc,…) không phải là đối tượng tác động của tội phạm này. Tài sản là đối tượng của tội phạm này còn là những giấy tờ có giá mà thông qua đó, người phạm tội có thể nhận tiền hoặc phần tài sản nhất định (cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu,…). Đối với những giấy tờ có giá mà giá trị của nó phải thông qua tổ chức, cá nhân xác nhận mới thể hiện được giá trị thì không phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 12 Đối với các loại tài sản có tính chất, công dụng đặc biệt (ma túy, vũ khí, phương tiện, chất cháy, chất gây nổ, chất độc hại, chất phóng xạ,…) hoặc tài sản là các loại giấy tờ có giá ghi danh (việc chuyển dịch, xác lập quyền sở hữu phải thông qua các giao dịch pháp lý hợp pháp) hoặc các loại tài sản khác thuộc danh mục hàng hóa, tài sản bị cấm giao dịch, hạn chế giao dịch như: đồ chơi bị cấm, phế liệu gây ô nhiễm môi trường,…thì tùy trường hợp, việc chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử lý theo các tội danh khác tương ứng. Như vậy, tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn những yếu tố nhất định phản ánh đặc điểm vốn có của tài sản, về tính chất, giá trỉ sử dụng, có thể đưa vào giao dich trong thực tiễn. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định một hành vi phạm vào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không cần căn cứ vào giá trị tài sản chiếm đoạt. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 sửa đổi quy định rõ yếu tố định lượng đối với tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên. Quy định này trở thành một trong những căn cứ quan trọng để xác định có xử lý hình sự đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không. Quy định yếu tố định lượng trong trường hợp này phân biệt rõ ràng ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, là cơ sở để áp dụng thống nhất pháp luật trên phạm vi toàn quốc, tạo điều kiện cho người dân hiểu rõ hơn các quy đinh của pháp luật, tự điều chỉnh hành vi của mình trong những trường hợp nhất định. * Dấu hiệu về mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, gồm hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. - Hành vi khách quan: là những xử sự có sự kiểm soát của ý thức và điều khiển của ý chí con người, là nguyên nhân gây thiệt hại cho các khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện các đặc điểm sau: có tính nguy hiểm cho xã hội, là hoạt động có ý thức của chủ thể, nó trái pháp luật hình sự và về hình thức thể hiện, hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi khách quan phải gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu, nguy hiểm cho xã hội, khi thực hiện hành vi, chủ thể đã được tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng và được thể hiện dưới dạng hành động nhận tài sản của người khác bằng các hình thức của hợp đồng, sau khi có được tài sản người phạm tội đã có hành vi chiếm đoạt tài sản đó. Người phạm tội muốn tạo lập cho mình quyền chiếm giữ, sử dụng, định đoạt đối với tài sản của người khác, họ sử dụng các cách thức làm hao hụt giá trị và giá trị sử dụng của tài sản, khiến nó không thể trở về trạng thái ban đầu được hoặc vì muốn biến tài sản của người khác (một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản) thành tài sản của mình nên đã có các hành vi, thủ đoạn gian dối như lật lọng, chây ì, thông tin giả dối về việc bị người thứ ba chiếm đoạt tài sản đó hoặc bỏ trốn, cố ý không trả lại tài sản cho chủ sở hữu,…khi đến hạn phải trả lại tài sản theo 13 hợp đồng. Vì gây thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm trên, nên tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi đã gây ra những thiệt hại về vật chất cho chủ tài sản. Hành vi bỏ trốn trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn rất khó để xác định và cũng chưa có Thông tư, Nghị quyết nào hướng dẫn. Trong thực tiễn, một người sau khi vay, mượn, thuê tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn, nhưng để chứng minh họ có bỏ trốn, nhằm chiếm đoạt tài sản hay không là vấn đề còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, nên đã phát sinh nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng, chỉ cần xác định được tình tiết một người nào đó sau khi nhận được tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn; không trả tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là đủ cơ sở kết luận người đó phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, không phụ thuộc vào lý do bỏ trốn của họ là nhằm mục đích gì. Trong khi đó, thực tế đã chứng minh, không phải tất cả mọi trường hợp bỏ trốn đều có ý thức chiếm đoạt tài sản. Nếu người phạm tội không có hành vi gian dối, không bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản nhưng lại dùng tài sản đó (tài sản nhận từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp) vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hiểu như thế nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là một vấn đề không đơn giản, nếu theo khái niệm thông thường thì “bất hợp pháp” là không đúng với pháp luật không phân biệt đó là pháp luật gì và nếu hiểu bất hợp pháp theo nghĩa rộng như vậy thì hấu hết các trường hợp mất khả năng thanh toán nợ cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đều là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử đã không coi việc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp theo khai niệm rộng như trên, mà chỉ coi những trường hợp dùng tài vào việc thực hiện tội phạm thì mới coi là bất hợp pháp với ý nghĩa là dấu hiệu cấu thành tội phạm như: dùng tiền vay được để hối lộ, để buôn lậu, để mua bán hàng cấm, để mua bán ma tuý, vũ khĩ quân dụng, chất độc, chất cháy... Ngoài ra, trong một số trường hợp do làm ăn thua lỗ đã mất khả năng thanh toán, nhưng vẫn tiếp tục vay mượn tiền hoặc tài sản rồi dùng tiền hoặc tài sản đó trả nợ cũ, hoặc dùng tài sản vay được ăn tiêu, mua sắm vật dụng trong gia đình, mua đất xây nhà... Nếu không dùng tài sản vào mục phạm tội mà dùng vào mục đích bất hợp pháp khác thì phải xem xét đánh giá từng trường hợp cụ thể, để xác định hành vi đó đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa. Cần phân biệt, dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp với việc sử dụng tài sản không đúng mục đích đã thoả thuận khi vay, mượn. Ví dụ: Khi vay tiền, nói là để phát triển chăn nuôi ( nuôi gà công nghiệp), nhưng sau khi vay được tiền lại không nuôi gà nữa mà dùng tiền vay được vào việc nuôi tôm sú, nhưng vì không có kỹ thuật nên bị thua lỗ dẫn đến không có khả năng thanh toán thì hành vi của người phạm tội không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà là phạm tội sử dụng trái phép tài sản quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự. - Hậu quả của tội phạm: Là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội là khách thể được Luật hình sự bảo vệ, nó được biểu hiện thông qua việc biến đổi tình 14 trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm gây ra được xác định thông qua đặc điểm về chất và lượng của chính đối tượng tác động. Tại Điều 140 BLHS năm 1999 sửa đổi đã chỉ ra rất rõ rằng, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ 4 triệu đồng trở lên mới bị xử lý về tội phạm này. Trong trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 4 triệu đồng thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc vào một trong các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa xóa án tích mà còn vi phạm (được hướng dẫn trong Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999). - Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Luật hình sự, một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả đó là kết quả của hành vi trái pháp luật mà thực hiện họ gây ra. Do đó, khi một người thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS và chỉ buộc họ phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình khi giữa hành vi và hậu quả có mối quan hệ nhân quả. Có nghĩa là về mặt thời gian, hành vi trái pháp luật hình sự được coi là nguyên nhân phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; Hậu quả là kết quả tất yếu do hành vi trái pháp luật hình sự gây ra; Một hành vi có thể dẫn đến nhiều hậu quả và một hậu quả có thể xuất phát từ nhiều hành vi khác nhau. Do vậy, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không dẫn đến hậu quả, không xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì người thực hiện hành vi ấy không phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Có hành vi mới có hậu quả tương ứng, hậu quả luôn có sau hành vi về mặt thời gian, hành vi phải là điều kiện tất yếu hình thành nên hậu quả. * Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lỗi của người phạm tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp, họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Ban đầu, khi giao kết hợp đồng, người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện hợp đồng đó đúng theo thỏa thuận, chỉ sau khi có được tài sản, ý thức chiếm đoạt tài sản mới hình thành, và vì vậy, ý thức chiếm đoạt của họ được xác định tại thời điểm họ chiếm đoạt tài sản chứ không xác định tại thời điểm họ nhận tài sản. Đây là một trong những căn cứ quan trọng để xác định người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm nào (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 hay tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 BLHS). Ngoài ra, đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích chiếm đoạt tài sản được coi là dấu hiệu bắt buộc, nó phải gắn liền với các hành vi dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản sau khi có được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp. Nếu không có mục đích chiếm 15 đoạt tài sản hoặc mục đích chiếm đoạt có trước thời điểm nhận tài sản thông qua hợp đồng, thì người thực hiện hành vi phạm tội không phạm tội hoặc phạm vào tội khác. * Dấu hiệu về chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chủ thể của tội phạm nói chung là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định. Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam chỉ có thể là cá nhân và cá nhân này phải đáp ứng các điều kiện nhất định về độ tuổi, về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Đối với chủ thể tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng phải đáp ứng những điều kiện như đã nêu trên. Căn cứ vào cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng (quy định tại khoản 2 Điều 140) của tội này, thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này khi hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 140 BLHS. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là người tham gia vào hợp đồng thuê, vay, mượn tài sản và sau đó không thực hiện đúng cam kết như đã thỏa thuận trong hợp đồng ban đầu nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản đó. Việc giao kết hợp đồng được thực hiện một cách hợp pháp theo đúng trình tự, thủ tục và các điều kiện nhất định về giao kết hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định. Tóm lại, bốn yếu tố của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho việc định tội danh đối với tội phạm này được chính xác, vì vậy quá trình tiến hành định tội danh đối với tội phạm trên, cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự không được bớt hoặc thêm bắt kỳ dấu hiệu nào. Mọi sự thêm, bớt hoặc xác định không đúng dấu hiệu nào đó để định tội một sai trái đều là hành vi vi phạm pháp luật. 1.3. Phân biệt dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt 1.3.1. Phân biệt dấu hiệu pháp lý của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 BLHS cũng có các dấu hiệu gồm các dấu hiệu thuộc mặt khách thể, khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, các hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (đã nêu tại tiểu mục 1.2.2 Mục 1.2 Chương 1), mặt khách thể của tội phạm là quan hệ sở hữu tài sản; Chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định quy định tại Điều 12 BLHS; Mặt khách quan và chủ quan cũng có nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên, giữa hai tội phạm này có những điểm khác biệt nhất định. Cụ thể: 16 Về việc sử dụng thủ đoạn gian dối. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện ở việc đưa ra những thông tin không đúng sự thật với nhiều chiêu thức khác nhau như qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, giả danh người khác, giả danh cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội….làm người này tin tưởng là thật và giao tài sản, việc giao tài sản cho người có thủ đoạn gian dối hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của người bị lừa dối do đánh giá không đúng về các thông tin đưa ra, từ đó mới giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi “dùng thủ đoạn gian dối” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao giờ cũng có trước hoặc đi liền với hành vi nhận tài sản từ người khác và được coi là điều kiện để thực hiện việc chiếm đoạt. Thủ đoạn gian dối của người phạm tội là nguyên nhân trực tiếp của việc chuyển dịch tài sản từ người quản lý sang người phạm tội Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt sau khi đã nhận tài sản từ người khác, hay nói cách khác, thủ đoạn gian dối trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ phát sinh sau khi người phạm tội có được tài sản thông qua các hợp đồng hợp pháp, hợp đồng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản và người có tài sản có sự chuyển giao tài sản cho người khác. Thủ đoạn gian dối trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thể hiện ở việc che đậy hành vi của người phạm tội nhằm không trả lại tài sản hoặc giá trị tài sản đúng nghĩa vụ của hợp đồng đã được giao kết trước đó. Người phạm tội có thể nói dối bị mất tài sản hoặc đánh tráo tài sản, rút bớt tài sản,…so với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối của người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xuất hiện sau khi đã nhận được tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp có sự chuyển giao tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp nhưng người phạm tội không dùng thủ đoạn gian dối mà có hành vi bỏ trốn với ý thức không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp (nhằm phân biệt với các vi phạm dân sự) để chiếm đoạt tài sản thì vẫn xác định đây là trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, vấn đề bỏ trốn của người phạm tội trong trường hợp này là điều cần thiết. Hoặc, trường hợp người phạm tội không sử dụng thủ đoạn gian dối, không bỏ trốn với ý thức chiếm đoạt tài sản nhưng lại sử dụng tài sản nhận được vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và bị xử lý. Có thể thấy, thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường đơn giản hơn, nhưng để xác định chính xác người phạm tội có sử dụng thủ đoạn gian dối hay không và làm thế nào để xác định được ý thức chiếm đoạt tài sản của người phạm tội (thời điểm sử dụng thủ đoạn gian dối) là vấn đề không hề đơn giản và đòi hỏi cần có sự kết hợp giữa nhiều yếu tố khác nhau, quan trọng nhất là kỹ năng, nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Về thời điểm hoàn thành tội phạm. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều là hai tội phạm có tính chất chiếm đoạt. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản, thời điểm tài sản bị chuyển dịch một 17 cách bất hợp pháp. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội đã sử dụng thủ đoạn gian dối để người chủ sở hữu hợp pháp hoặc người quản lý tài sản tin tưởng mà giao tài sản, từ đó thực hiện hành vi chiếm đoạt. Do vậy, thời điểm hoàn thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xác định là từ khi người phạm tội nhận được tài sản từ người đó, những trường hợp người phạm tội mặc dù dùng thủ đoạn gian dối làm cho người khác tin tưởng giao tài sản nhưng sau đó không có ý định chiếm đoạt mà nhằm mục đích khác (sử dụng tài sản hoặc làm hư hỏng, hủy hoại tài sản đó) thì không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, như đã trình bày, người phạm tội có được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp và bản thân họ, tại thời điểm giao kết hợp đồng hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện, ý thức chiếm đoạt chưa xuất hiện. Nhưng, sau khi nhận được tài sản, trong quá trình thực hiện hợp đồng, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt. Việc họ thực hiện hành vi chiếm đoạt là rất thuận lợi khi đã có được tài sản, họ có thể không trả lại tài sản như đã cam kết trong hợp đồng khi đến thời điểm phải trả tài sản, cũng có thể bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Vì thế, thời điểm hoàn thành của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được xác định kể từ thời điểm ngời phạm tội cố tình không thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản cho người có tài sản theo hợp đồng mà chiếm đoạt luôn tài sản đó. Về việc giao nhận tài sản giữa người có tài sản với người phạm tội. Đối với cả hai tội phạm này, người phạm tội đều nhận được tài sản do người có tài sản tự nguyện giao cho. Tuy nhiên, ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội được nhận tài sản do việc sử dụng thủ đoạn gian dối, họ tạo dựng các thông tin giả, khiến cho người có tài sản tưởng thật và giao tài sản. Trong khi đó, đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người có tài sản giao tài sản cho người phạm tội thông qua các hợp đồng, giao dịch hợp pháp, họ tin tưởng rằng, người phạm tội hoàn toàn có khả năng trả lại tài sản, có đủ điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng. 1.3.2. Phân biệt dấu hiệu pháp lý của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội Trộm cắp tài sản Trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 BLHS là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, nghĩa là người phạm tội thực hiện việc dịch chuyển trái pháp luật tài sản của người khác, biến tài sản của người khác thành tài sản của mình mà không để cho chủ sở hữu hoặc người trực tiếp đang quản lý tài sản biết. Cũng là một trong các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được quy định trong BLHS, ở tội trộm cắp tài sản, mục đích chiếm đoạt tài sản được thể hiện rõ ràng. Tuy nhiên, mặc dù về mặt nghiên cứu lý luận, các yếu tố cấu thành cơ bản của tội phạm này, đặc biệt là hành vi khách quan đã có sư phân định khá chi tiết nhưng vẫn không ít trường hợp trên thực tế, khi phát sinh tình huống phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố 18 tụng nhầm lẫn trong quá trình định tội danh với hai tội phạm trên. Do đó, khi định tội danh, cần thiết phải xác định rõ thủ đoạn, phương thức mà người phạm tội sử dụng. Trong một số trường hợp, người phạm tội trộm cắp tài sản cũng có sử dụng thủ đoạn gian dối. Tuy nhiên, thủ đoạn gian dối của người phạm tội chỉ là cách thức mà người phạm tội dùng để tiếp cận tài sản trước khi thực hiện hành vi “lén lút chiếm đoạt tài sản”. Người phạm tội trong trường hợp này lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó dùng thủ đoạn gian dối để dễ dàng đột nhập nơi có tài sản mà người phạm tội muốn chiếm đoạt, nó xuất hiện trước khi người phạm tội có được tài sản, nhưng thủ đoạn đó hoàn toàn không phải là nhằm tạo sự tin tưởng để người bị hại giao tài, mà nhằm che giấu hành vi lén lút chiếm đoạt sẽ được thực hiện tiếp theo sau đó. Còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối sau khi có được tài sản thông qua các giao dịch hợp pháp (vay, mượn, thuê tài sản,…) và quyền chiếm hữu tài sản được chuyển giao hợp pháp cho người phạm tội, sau đó họ mới dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. .3.3. Phân biệt Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với Tội tham ô tài sản So với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội tham ô tài sản được quy định tại Điều 278 BLHS có dấu hiệu chung là việc chiếm đoạt tài sản đang nằm trong sự quản lý của người phạm tội. Tuy nhiên, giữa hai tội phạm này cũng có những khác biệt nhất định. - Về đối tượng tài sản. Tài sản là đối tượng của tội tham ô phải là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, tài sản của doanh nghiệp trong đó nguồn vốn của Nhà nước chiếm từ 51% trở lên hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước và tài sản đó đang do người phạm tội trực tiếp quản lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản tài sản cũng do họ đang trực tiếp quản lý, nhưng tài sản đó không thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 278 BLHS. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì tài sản có thể thuộc bất kỳ hình thức sở hữu nào. - Về hành vi. Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình thông qua việc người phạm tội thực hiện việc vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng. Sau khi có được tài sản, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt đối với tài sản đó. Đối với tội tham ô tài sản, người phạm tội đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý theo luật định, biến tài sản chung thành tài sản riêng, định đoạt tài sản chung nhằm phục vụ mục đích cá nhân gây mất mát, thất thoát tài sản. Thủ đoạn của hành vi này rất đa dạng, người phạm tội có thể công khai chiếm đoạt, lén lút và nhiều trường hợp có sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc mang tài sản do mình quản lý bỏ trốn. - Về chủ thể của tội phạm. Chủ thể tội tham ô tài sản là những người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý tài sản, là chủ thể đặc biệt; Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 19 tài sản chỉ cần là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ đến tuổi nhất định theo quy định của pháp luật. CHƢƠNG 2 THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 2.1. Thực tiễn định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Như đã phân tích, định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quá trình nhận thức lý luận, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, để giải quyết vụ án hình sự. Để xác định một hành vi nguy hiểm diễn ra trên thực tế đã phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thì cơ quan, người có thẩm quyền phải trả lời hành vi ấy có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 140 BLHS hay không. Mặc dù cơ quan tiến hành tố tụng cũng nắm được những đề lý luận trên và thực hiện tương đối tốt hoạt động này, nhưng qua nghiên cứu thực tiễn nhận thấy nhiều trường hợp hành vi phạm vào tội này, nhưng cơ quan có thẩm quyền lại khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội về tội khác hoặc hành vi không phạm tội lại bị coi là tội phạm hoặc ngược lại vẫn còn xảy ra. Thực trạng trên gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng, tác động rất xấu đến trật tự an toàn xã hội, nó đã bị dư luận lên án. Các cơ quan chức năng trong thực tiễn cũng rất quan tâm, đưa ra nhiều biện để khắc phục tình trạng này, nhưng nó vẫn chưa chấm dứt và nhiều lúc diễn biến rất phức tạp, gây sự hoài nghi về trình độ, năng lực, sự khác quan, thận trọng và công tâm trong sử dụng quyền lực Nhà nước của các cá nhân tiến hành tố tụng. Thực trạng ấy là vật cản của quá trình nâng tầm nền tư pháp của nước ta với thế giới hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ thực trạng định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua các vụ án cụ thể là vấn đề cần thiết để có sự đánh giá toàn diện và chính xác, qua đó rút ra được những nguyên nhân và tìm những giải pháp khắc phục. *Về thực trạng định sai tội danh. Vụ thứ nhất. Vào năm 2009, Lê Văn Bích - Cán bộ UBND xã đã thực hiện việc vay tiền của nhiều người, sau đó cho những người đến hạn thanh toán nợ ngân hàng vay lại để hưởng phần chênh lệch. Hàng tháng khi đến hạn, Bích vẫn trả nợ vay, lãi vay đúng thời hạn cho 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan