Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo nam bộ nửa đầu thế kỷ xx...

Tài liệu Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo nam bộ nửa đầu thế kỷ xx

.DOC
88
177
94

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KIỀU NGỌC DUNG DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Đề tài luận văn “Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX” là kết quả nghiên cứu độc lập của tôi. Các thông tin có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc trích dẫn tài liệu. Nghiên cứu hoàn toàn trung thực và chưa hề được công bố ở công trình đề tài nào. Tác giả luận văn Kiều Ngọc Dung MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. THỂ LOẠI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN.....10 CỦA DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX............................. 10 1.1. Diện mạo của du ký.......................................................................................... 10 1.2. Sự hình thành và phát triển của du ký về biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX . 19 CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX.................................................................................................. 31 2.1. Biển đảo Nam Bộ với tư cách là một đối tượng của du ký nửa đầu thế kỷ XX 31 2.2. Thiên nhiên vùng biển đảo Nam Bộ................................................................. 33 2.3. Lịch sử, văn hoá và hiện thực đời sống vùng biển đảo Nam Bộ.......................38 CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX........................................................................................ 53 3.1. Điểm nhìn trần thuật......................................................................................... 53 3.2.Thời gian và không gian nghệ thuật.................................................................. 59 3.3. Ngôn ngữ.......................................................................................................... 71 KẾT LUẬN............................................................................................................. 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 80 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm đầu thế kỷ XX nền văn học Việt Nam chuyển mình theo hướng hiện đại hoá. Cùng với sự ra đời của các trào lưu văn học mới, du ký hiện diện góp phần làm nên diện mạo và thành tựu văn học thời kỳ này.Tuy nhiên dựa vào số lượng hạn chế các công trình chọn du ký làm đối tượng nghiên cứu có thể thấy du ký chưa được quan tâm nhiều.Tìm hiểu về du ký đặc biệt là du ký đầu thế kỷ XX nhằm xác định lại chỗ đứng của thể loại này trong tiến trình văn học đồng thời phác hoạ chân thực chặng đường đổi mới của văn học Việt Nam. Du ký nửa đầu thế kỷ XX có một đề tài rất mới mẻ đó là đề tài biển đảo.Viết về đề tài này, du ký tạo nên một vùng văn học và được tiếp nối đến tận bây giờ. Đặc biệt, những trang du ký viết trong chuyến “chu du” đến vùng biển đảo Nam Bộ như những bức tranh sinh động, nhiều màu sắc về địa lý, văn hoá, con người vùng biển đảo Nam Bộ Việt Nam. Bên cạnh đó, hội nhập và giao lưu kinh tế đã tạo nên những thách thức cho ngành du lịch Việt Nam. Mỗi trang du ký về biển đảo Nam Bộ luôn là một sự sáng tạo có ý nghĩa thiết thực giúp độc giả hiểu sâu sắc về giá trị thẩm mĩ, văn hoá của các danh lam, thắng cảnh vùng biển đảo tựa như “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”. Du ký Việt Nam vùng Nam Bộ góp phần cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ hơn về vùng biển đảo Nam Bộ trong nhận thức và thực tiễn hoạt động của người Việt. Trong một không gian sinh tồn và phát triển, nơi mà nhiều thế hệ người Việt đã trải qua nhiều gian nan, vất vả để chế ngự các thế lực tự nhiên và phát triển kinh tế, xã hội, thấy được không gian thử thách trí tuệ, bản lĩnh, sự sống kiên cường và khát vọng về bảo vệ chủ quyền của đất nước đầy gian nan, thử thách. Trên cơ sở của hoạt động khai thác biển, bảo vệ vùng biển của Tổ quốc mà “Tư duy hướng biển” của người Việt được phát triển và hoàn thiện. Từ một số đề tài nghiên cứu về các vùng trên đất nước như du ký vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ… qua đó cho thấy mỗi một vùng miền có một giá trị về địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán và trên cơ sở đó đã 1 hình thành nên một nền văn học mang đặc trưng riêng cả về nội dung và nghệ thuật. Đối với du ký biển đảo phía Nam mà cụ thể là vùng Nam Bộ đã có một số tác giả tìm hiểu và nghiên cứu ở những góc độ về lịch sử, phong tục tập quán và văn hóa. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu và phân tích để làm rõ những đóng góp cả về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của du ký vùng biển đảo phía Nam của Tổ quốc để đem đến cho độc giả một cái nhìn toàn diện về thiên nhiên và con người cùng với chiều sâu văn hóa nơi đây. Hiện nay, vùng biển Nam Bộ là một bộ phận nằm trong vịnh Thái lan thuộc về vùng biển của 7 tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau. Gồm quần đảo “Hòn Khoai, Thổ Chu, An Thới, Hải tặc, bà Lụa, Củ Tron, và hòn đảo Hòn Chuối, Hòn Bông, cụm hòn Đá Bạc…với vị trí thuận lợi cho các hoạt động hải thương và sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vùng biển Nam Bộ từ rất sớm đã giữ những vị trí quan trọng của nhiều quốc gia phong kiến. Người viết chọn đề tài: "Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX". Hy vọng sẽ có thêm những đóng góp cho quá trình tìm hiểu về dấu ấn văn hóa vùng biển đảo Nam Bộ cũng như thiên nhiên và con người nơi đây. 2. Tình hình nghiên cứu Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, du ký là một thể loại ra đời từ rất sớm, Trong lịch sử nghiên cứu về du ký chưa có một công trình lí luận và lịch sử nào dành riêng cho thể loại này và tương xứng với giá trị của nó trong nền văn học nước nhà. Khi bàn về vị trí của thể loại du ký trong quá trình hiện đại hóa văn học, năm 1942, trong cuốn sách nghiên cứu nổi tiếng - nhà văn hiện đại, khi nói tới nhóm nhà văn trong Nam Phong tạp chí Vũ Ngọc Phan đã nói sơ lược về thể tài du ký đồng thời điểm danh một số tác phẩm tác giả, trong đó có Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký. [43] Trong chương IV - “truyện ký” của cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 1, Phạm Thế Ngũ gọi Thượng kinh ký sự là “Một truyện dài du ký” - là loại văn nhằm ghi chép những điều tai nghe mắt thấy sau những bước chân từng trải trong 2 những dịp đi xa. Trong tập 3 của cuốn sách này, Phạm Thế Ngũ bàn tới thể tài du ký dựa trên những sáng tác của Phạm Quỳnh - chủ bút Nam phong tạp chí. Tác giả ghi nhận Phạm Quỳnh chính là người mở đầu cho lối văn du hành trên Nam phong. [38] Năm 2006, hai tác giả Bích Thu và Vũ Tuấn Anh trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945) khẳng định du ký Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của P.J.P Trương Vĩnh Ký là tác phẩm văn xuôi ra đời sớm nhất. Ở những công trình này, du ký hầu như được “điểm danh” và được gợi ra từ các trường hợp tác phẩm, tác giả cụ thể. Các tác giả không quên khẳng định vị trí của du ký trên hàng ghế danh dự của những thể tài, thể loại văn học đi đầu trong công cuộc hiện đại hóa văn học, nói như Vũ Tuấn Anh trong bài viết Đọc du ký Việt Nam trên Nam Phong tạp chí và cuộc du ngoạn ngược thời gian: Trong rất nhiều công trình nghiên cứu lí luận văn học của các tác giả Việt Nam, du ký được xem là một tiểu loại nằm trong thể loại ký. Bởi vậy, nghiên cứu về du ký xuất hiện tản mác, nhỏ lẻ trong những công trình viết khái quát về thể ký. [38] Năm 1967, Tạp chí Văn học, số 02 cho đăng bài Về thể ký của tác giả Tầm Dương. Ở bài viết này, du ký được quan niệm là một phần của ký sự: “Du ký là “ký” lại các sự (những điều mắt thấy tai nghe) trong lúc “du”. Du ký đứng song song với các tiểu loại khác như: Hồi ký, truyện ký… Cùng năm, trên Tạp chí Văn học số 06, Nam Mộc có bài Thể ký và vấn đề viết về người thật việc thật phân chia ký thành các tiểu loại: Phóng sự, ký sự, tùy bút, bút ký. Du ký được nhà nghiên cứu xếp và một tiểu loại của bút ký, cùng với nhật ký, hồi ký, tạp văn và tiểu phẩm… Tác giả cuốn: Văn học Việt Nam thế kỉ XX, khi nêu ra quan niệm về thể ký cũng cho rằng: “Ký là loại hình trung gian giữa báo chí và văn học. Ký bao gồm nhiều thể dưới dạng văn xuôi tự sự như bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phóng sự, tùy bút và cả hồi ký tự truyện” Đây đồng thời cũng là hướng đi của tác giả cuốn 150 thuật ngữ văn học - Lại Nguyên Ân (2004) [3] hay Giáo trình lí luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên (2009), Năm bài giảng về thể loại của Hoàng Ngọc Hiến (1992), Giáo trình Lí luận văn học(Hà Minh Đức chủ biên-1995 cũng xem du ký là một trong các hình thức 3 của thể loại ký, luận văn Ký - những vấn đề đặc trưng thể loại của Nguyễn Thị Ngọc Minh (2005)… Các công trình này nhìn chung đã bước đầu đưa ra những định nghĩa cho thể tài du ký cùng với một số đặc điểm chính. Du ký, giống như thể loại bao trùm nó - ký được nhấn mạnh ở khả năng ghi chép sự thật. [2]. Trong nền văn học Việt Nam cũng như các tạp chí cùng thời đã xuất hiện các thành tựu đáng trân trọng, lưu giữ của du ký các vùng miền trên đất nước Việt Nam, tiêu biểu như Nguyễn Đăng Hai tìm hiểu về Thiên nhiên và con người đồng bằng sông Cửu Long qua một số tác phẩm du ký tiêu biểu giai đoạn 1900 - 1945 (Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 6, 2012) qua các tác phẩm Cảnh vật Hà Tiên, Thăm đảo Phú Quốc, Tôi ăn tết ở Côn Lôn. Nguyễn Hữu Sơn tìm hiểu về các cùng địa lý - văn hóa với các địa danh, các vùng của đất nước như Thể tài du ký về Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX (Văn nghệ quân đội, số 10, 2000), Phác thảo du ký Hà Nội trước Cách mạng Tháng Tám (Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 6, 2000), Du ký Ninh Bình nửa đầu thế kỷ XX (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 6, 2004)… Qua các bài viết, Nguyễn Hữu Sơn giúp người đọc thấy rõ hơn bức tranh đa dạng về du ký Việt Nam từ các tác phẩm trung đại cho tới các du ký nửa đầu thế kỷ XX trên Nam phong tạp chí và tìm thấy ở mỗi du ký là một phác thảo độc đáo, tạo thành bức tranh đa màu sắc về các vùng ở Việt Nam. Cho đến nay xem du ký là một thể tài không phải là duy nhất nhưng vẫn là quan điểm đóng vai trò chủ chốt, chiếm đa số và tỏ rõ được nhiều thành tựu hơn cả trong các nghiên cứu về du ký của văn giới. Một số khác đi theo hướng coi du ký là một thể loại văn học. Cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học (2000), do nhà nghiên cứu Mã Giang Lân chủ biên đã khẳng định vị trí tiên phong của thể tài du ký: “Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ phải kể đến du ký” đồng thời cũng đưa ra một số đặc điểm để nhận dạng. Võ Thị Thanh Tùng trên tạp chí Khoa học xã hội, số 4 năm 2013 có bài viết điểm qua “Một vài đặc điểm của thể loại du ký Việt Nam” trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tính chất phức hợp, giao thoa thể loại có trong du ký. Cho rằng du ký là trung gian giữa báo chí và văn học, du ký có sự giao thoa với chính luận, tác giả đánh giá: 4 “Từ khi ra đời đến nay, du ký cùng với phóng sự, tùy bút… đã gia nhập vào đời sống văn học sôi động trên cả nước, làm nên một khởi đầu ngoạn mục cho việc đưa văn xuôi tiến dần vào vị trí trung tâm, đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển chung của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu các thể loại như kịch, tiểu thuyết, được học tập và mô phỏng theo mô hình thể loại của phương Tây, thì du ký là thể loại được tiếp nối từ truyền thống, nhưng có những cách tân mới mẻ về chữ viết, cách hành văn, cách phản ánh những vấn đề thẩm mỹ do thời đại đặt ra… nên càng hấp dẫn hơn ” [71]. Luận án Đặc điểm du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Hữu Lễ (2015) là công trình mới nhất đã có nhiều cố gắng trong việc khảo cứu thực tiễn sáng tác hướng tới góp phần định danh thể loại du ký, làm rõ đặc điểm của thể loại này. Với quan điểm: “Đã đến lúc du ký cần được làm sáng tỏ về mặt thể loại” tác giả cho rằng đây là xu hướng nghiên cứu phù hợp trong tình hình hiện nay, một khi du ký được định danh rõ ràng thì những “vấn đề về đặc điểm và cách tiếp cận nghiên cứu du ký không còn bị cản trở bởi sự giao thoa và các lằn ranh thể loại cùng với quan niệm mơ hồ về du ký” [29] Du ký từ điểm nhìn địa - văn hóa cũng là một hướng để tiếp cận các sáng tác du ký. Nguyễn Hữu Sơn là người đã khơi gợi hướng nghiên cứu du ký về các cùng địa lý văn hóa: Vùng cao phía Bắc, vùng Quảng Ninh, Thanh Hóa, xứ Huế, Hà Nội, Sài Gòn Gia Định... Ông là tác giả của hàng loạt bài viết: Thể tài du ký về Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ quân đội số 10, 2000), Phác thảo du ký Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám (báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 6, 2000), Du ký Ninh Bình nửa đầu thể kỷ XX (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 6, 2004, Du ký viết về Sài Gòn - Gia Định nửa đầu thế kỷ XX từ điểm nhìn những năm đầu thế kỷ XXI (tạp chí Khoa học xã hội, số 11, 2008), Du ký xứ Thanh nửa đầu thế kỷ XX (báo Tổ Quốc, 2010), Diện mạo và đặc điểm của du ký xứ Huế nửa đầu thế kỷ XX (báo Du lịch Sài Gòn, số 6, 2015), Nhận diện du ký biển Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX theo các vùng văn hóa (Tạp chí Biển, số 6, 2016)… Bằng việc tập hợp các tác phẩm tiêu biểu viết về từng vùng riêng biệt, Nguyễn Hữu Sơn tìm thấy ở mỗi du ký là một phác thảo 5 độc đáo, tạo thành bức tranh đa màu sắc về các vùng, miền ở Việt Nam. Võ Thị Thanh Tùng khai thác Tính cách con người Nam Bộ - dấu ấn đặc sắc trong du ký Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX (Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm thành phố Hồ chí Minh, số 44, 2013) hay Nguyễn Đăng Hai tìm hiểu về Thiên nhiên và con người đồng bằng sông Cửu Long qua một số tác phẩm du ký tiêu biểu giai đoạn 1900 1945 (Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, số 6, 2012). Chu Thị Yến khai thác Du ký về biển đảo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 2016)...Khai thác các sáng tác du ký từ khía cạnh văn hóa cũng là hướng tiếp cận của bài viết Giá trị văn hóa và văn học của du ký (khảo sát qua sách Du ký Việt Nam của tác giả Nguyễn Thúy Hằng (2009), khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị Hoài Phương với đề tài khá mới lạ - Vùng tiếp xúc trong du ký Phương Đông lướt ngoài cửa sổ (2013), luận văn Thể du ký trong tiến trình hiện đại hóa văn hóa Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ 20 của Nguyễn Thị Thúy Hồng (2008) [56]. Những nghiên cứu về du ký nói chung, du ký nửa đầu thế kỷ XX nói riêng như vậy chưa thể coi là phong phú và tương xứng với số lượng và chất lượng của các tác phẩm. Là một bộ phận không nhỏ trong hệ thống du ký nửa đầu thế kỷ XX, những sáng tác viết về biển đảo Nam Bộ cũng đã xuất hiện trong một số nghiên cứu như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở những bài viết tản mác về những địa danh cụ thể ở Nam Bộ chứ chưa khảo sát cả một vùng văn hóa rộng lớn. Nguyễn Hữu Sơn là người kỳ công sưu tầm những tác phẩm du ký viết về các địa danh khác nhau dọc miền Nam Bộ … Hứng thú sưu tầm và những bài viết của tác giả đã thôi thúc tôi tiếp tục khảo sát và đi sâu vào nghiên cứu: Du ký viết về biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Với đề tài Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Công việc của luận văn cần đạt được các mục tiêu cụ thể sau đây: 6 - Nhấn mạnh đặc điểm của du ký viết biển đảo Nam Bộ ở các vấn đề: Nội dung cảm hứng, điểm nhìn trần thuật, ngôn từ nghệ thuật, sự giao thoa thể loại. Không gian và thời gian nghệ thuật để tạo nên nét đặc trưng riêng của du ký biển đảo phía Nam của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. - Đề tài khẳng định vai trò của du ký trong giai đoạn hiện đại hóa nền văn học dân tộc. là một nguồn tư liệu hữu ích đóng góp cho quá trình tìm hiểu về đời sống tự nhiên, văn hóa, xã hội vùng biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX dưới góc nhìn của một thể lại văn học. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát các văn bản du ký viết về vùng biển đảo Nam Bộ, khai thác các tác phẩm du ký từ điểm nhìn văn hóa. - Xác định đặc điểm của du ký biển đảo Nam Bộ trên phương diện nội dung. - Xác định đặc điểm của du ký viết về biển đảo Nam Bộ trên phương diện hình thức. - Đánh giá đóng góp của du ký về biển đảo Nam Bộ trong sự phát triển của du ký Việt Nam đầu thế kỉ XX và trong lịch sử văn học dân tộc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm du ký viết về biển đảo Nam bộ Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, bao gồm khu vực biển đảo thuộc 7 tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bến Tre, Kiên Giang, Cà Mau, Hà Tiên. Các văn bản này được đăng trên các báo và tạp chí đầu thế kỉ XX như: Nam kì tuần báo, Nam phong tạp chí, Công luận báo, Tràng An báo, Phong hóa, Tri tân tạp chí… Phạm vi nghiên cứu tư liệu của luận văn bao gồm các tác giả tác phẩm viết về vùng biển đảo Nam Bộ Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Đến thời điểm hiện tại, tôi sưu tầm và giới thiệu trong luận văn 15 du ký của các tác giả có phụ lục kèm theo. Du ký biển đảo Nam bộ nửa đầu thế kỉ XX có sự phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, đặc biệt là sự đa dạng của những cây bút viết du ký. 7 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu đã được xác định, để đáp ứng yêu cầu và đạt được mục tiêu của đề tài đặt ra, trong quá trình triển khai, tôi vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp sưu tầm, thống kê: Tìm kiếm và tập hợp các tác phẩm thuộc thể tài du ký viết về vùng biển đảo phía Nam Bộ đăng tải trên một số báo, tạp chí nửa đầu thế kỷ XX. - Phương pháp cấu trúc hệ thống : Nghiên cứu đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX như một chỉnh thể hoàn chỉnh, như một cấu trúc chặt chẽ, hợp logic trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố, giữa lý thuyết và thực tiễn sáng tác. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Dựa trên các phương diện, quan điểm liên quan đến lý thuyết về thể tài du ký; tiến hành phân tích các tác phẩm cụ thể để tổng hợp, khái quát những đặc điểm của du ký viết về vùng biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. - Phương pháp so sánh đối chiếu: Để làm rõ các giá trị văn hóa, xã hội, lịch sử , phong tục, tập quán của con người nơi đây. Đồng thời làm nổi bật về thời gian và không gian nghệ thuật để tạo nên nét đặc trưng riêng có của vùng biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. - Phương pháp liên ngành: Phong cách học, Văn bản học, Thi pháp học… để làm sáng tỏ các đặc trưng nội dung và nghệ thu các tác phẩm du ký về biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về lý luận - Xác lập các quan điểm về du ký và đặc điểm về du ký Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Xác lập được điểm nhìn trần thuật, thời gian và không gian nghệ thuật cũng như những đặc trưng ngôn ngữ của vùng miền là cơ sở tạo nên đặc trưng du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. 8 6.2. Về thực tiễn - Luận văn tập trung nghiên cứu về các tác phẩm du ký viết về biển đảo Nam Bộ để thấy được những đóng góp của thể tài du ký trong quá trình hiện đại hoá văn học và làm phong phú diện mạo văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. - Phân tích các tác phẩm văn du ký vùng biển đảo Nam Bộ giai đoạn đầu thế kỷ XX với các điểm nhìn lý luân như trên để có những đánh giá đầy đủ và toàn vẹn trong đời sống văn hóa, xã hội và sự đổi thay, tiếp nối giữa các giá trị truyền thống và quá trình hiện đại hóa văn học trong thời kỳ lịch sử nửa đầu thế kỷ XX gắn liền với khát vọng giải phóng dân tộc và quá trình chuyển giao thời đại và tư duy văn học Việt Nam diễn ra trên một quy mô lớn và toàn diện. - Nhấn mạnh giá trị và bài học của các tác phẩm du ký viết về biển đảo Nam Bộ đối với việc nêu cao ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc và sự phát triển ngành du lịch Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX và hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Chương 1.Thể loại du ký và cơ sở hình thành, phát triển của du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Chương 2. Đặc điểm nội dung của du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Chương 3.Đặc điểm nghệ thuật của du ký biển đảoNam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. 9 Chương 1 THỂ LOẠI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 1.1. Diện mạo của du ký 1.1.1. Quan niệm về du ký Những năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam, dưới sự thống trị của thực dân Pháp đã thay đổi mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…trong đó, văn học Việt Nam đã xuất hiện những luồng tư tưởng mới, nhiều thể loại văn học mới đã được du nhập và ra đời, dần thay thế cho các dòng chảy của văn học Trung đại trước đó từng bị chi phối trực tiếp bởi hệ tư tưởng Nho giáo làm cho nền văn học vốn già cỗi của nước ta như được thay da đổi thịt. Luồng gió văn học phương Tây, mà nhất là văn học Pháp, thổi mạnh vào Việt Nam.Trong đó, sự thay đổi dễ nhận thấy nhất là sự thay đổi về mặt thể loại. Hàng loạt thể loại văn học mới được du nhập từ Tây như thơ mới, kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn… Đã làm cho diện mạo văn học dân tộc như mang xu hướng của thời đại mới. Du ký là một thể loại đặc biệt của văn học, hay nói cách khác du ký là một hình thức bút ký văn học thường được ghi lại bằng văn xuôi, thuật lại những chuyến đi, ghi lại những cảm xúc, tình cảm và suy ngẫm của tác giả khi đến những vùng đất khác nhau. Du ký có nguồn gốc từ ký, theo quan điểm của Vũ Phương Đề, thì “khi việc quan rảnh rỗi thường ghi chép lại những điều bấy lâu mình nghe được, cùng những chuyện biết được từ các bậc học rộng đương thời, tất cả đều theo đúng sự thực mà viết lại thành bài”. Sự việc ấy bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, địa lí, xã hội, nông nghiệp, thậm chí là những ghi chép linh tinh… Nghĩa là tất cả “Những việc gì lạ mà mắt thấy tai nghe đều ghi lại tất…”. Sau đó, động từ ký được chuyển thành danh từ và có nhiều biến thể cũng có nghĩa là ghi chép sự việc. Thời trung đại thì có chí, lục, ngữ lục, tạp văn, tạp lục, mạn lục, thực lục, tiểu lục, khảo… Sang thời hiện đại thì có phóng sự, du ký, nhật ký, hồi ký, tản văn, ký chính luận… Vì là ghi chép sự việc, nên đối tượng mà ký hướng tới nhất thiết phải là người thật việc thật.Sự việc và con người phải được phản ánh một cách khách quan, 10 “có địa chỉ chính xác của nó” . Ký không cho phép người viết thêm thắt hay bịa đặt vì điều đó khiến cho người đọc thiếu tin cậy vào những nội dung mà người viết đưa ra.Với các thể loại văn học khác thì hư cấu chính là nét đặc trưng tạo nên dấu ấn riêng của tác phẩm và cá nhân người viết.Nhưng với thể loại ký tuyệt đối không hư cấu là đặc trưng thể loại cơ bản của ký, “vi phạm đặc trưng này, nhà văn nhất định sẽ phá hoại tính chân thực lịch sử và cả tính chân thực nghệ thuật của tác phẩm”. Chính đặc điểm không hư cấu, không tưởng tượng sẽ tạo nên niềm tin cậy cả độc giả với tác giả và tác phẩm. Thể loại chỉ có thể tồn tại được khi đặc trưng cơ bản được tôn trọng, nếu không ranh giới của thể loại sẽ dễ bị xóa mờ sẽ dẫn tới tình trạng thiếu sự tôn trọng, trân trọng và niềm tin của người đọc trước tác phẩm. Là thể loại văn học nằm trong nhóm thể loại ký, du ký cũng không thoát ly khỏi những đặc trưng chung của hệ thống thể loại. Sách các thể văn chữ Hán Việt Nam do Trần Thị Kim Anh và Hoàng Hồng Cẩm biên soạn, định nghĩa khá đầy đủ: “Văn du ký là loại văn được viết ra trong những chuyến đi, vừa để ghi lại hành trình, vừa để bày tỏ cảm xúc về những điều mắt thấy tai nghe. Đặc điểm của du ký là chuyên lấy việc mô tả thắng cảnh núi sông, phong vật làm đề tài, cách viết đa dạng, có thể miêu tả, có thể trữ tình, có thể nghị luận và phải là chính tác giả ghi chép về chính chuyến đi của mình, miêu tả lại cảm thụ của bản thân trước non sông phong vật”. Sách Lí luận Văn học, tập 2: Tác phẩm và thể loại văn học, do Trần Đình Sử chủ biên đưa ra cách hiểu: “Có thể hiểu du ký là thể loại ghi chép về vẻ kì thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời, những cảm nhận, suy tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn, du lịch. Du ký phản ánh, truyền đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người đi du lịch về những điều mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, những nơi mọi người ít có dịp đi đến, chứng kiến” [14] . Vũ Ngọc Phan nhân bàn về tác phẩm Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Kỳ, ông đã nhắc đến du ký: “Tập du ký này viết không có văn chương gì cả, nhưng tỏ ra ông là một người có mắt quan sát rất sành, vì cuộc du lịch của ông là cuộc du lịch lần đầu, ông lại đi rất chóng. Tuy không có văn chương nhưng công nhận ngòi bút của ông rất linh hoạt” Như vậy, 11 Vũ Ngọc Phan có chỉ ra được đặc điểm cơ bản là “bài ghi chép cuộc hành trình” Tuy chưa nêu quan điểm về thể loại của du ký. Chỉ đến khi nhà Nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn - người có bề dày về nghiên cứu du ký vào bậc nhất ở Việt Nam hiện thì vấn đề du ký đã được “duy danh” và nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật nơi người viết. Ông nhận định “Một tác phẩm du ký hay không đơn thuần chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn có dung chứa trong đó nhiều yếu tố lịch sử, địa lý, giáo dục và đôi khi còn phản ánh cả phương diện chính trị xã hội nữa. Nói cách khác, du ký cùng với bút ký, hồi ký, nhật ký, ký sự, phóng sự, tùy bút… nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học”. Giống như tùy bút, phóng sự, hồi ký… du ký cũng là một thể tài thuộc thể loại ký. Hiển nhiên nó hội tụ đầy đủ những phẩm chất chung của thể loại này [55]. Như vậy, du ký là thể loại ký có cốt truyện ghi chép về vẻ kỳ thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời những cảm nhận, suy tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn.Trong đó yếu tố cốt lõi là đi, xem và ghi chép. Nhưng tất nhiên ghi chép sự thật không có nghĩa là ghi chép một cách cơ học, máy móc, mà sự thật ấy phải được sàng lọc hay sáng tạo để tạo nên những giá trị thẩm mỹ mới mang tính tiêu biểu, điển hình, giúp ký đạt đến chỗ có giá trị văn học. Đã là một thể loại văn học thì trong du ký phản ánh, truyền đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người khám phá về những điều mắt thấy tai nghe bằng cái nhìn, cảm nhận chủ quan của người viết. Thông qua các thể loại sáng tác bằng thơ, phú, tụng hay những bài văn xuôi theo các phong cách ký như: ghi chép, hồi ký, phóng sự, khảo cứu, hồi ức. Tuy nhiên, bao trùm toàn bộ tinh thần của du ký là niềm say mê khát khao tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ là cảm hứng phiêu lưu. Những khám phá đầy bất ngờ, thú vị về phong cảnh thiên nhiên, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo luôn là những điều mới lạ, những nét đặc trưng riêng của mỗi vùng miền. từ nhiều lĩnh vực của đời sống hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi cuộc hành trình ấy, mỗi chuyến đi ấy luôn là những dư âm hết sức ấn tượng đối với cá nhân người khám phá, bởi những cái mới lạ luôn kích thích sự tưởng tượng, 12 sáng tạo và đam mê, để rồi suy ngẫm về cuộc sống với cái nhìn toàn vẹn hơn, thực tiễn hơn và cũng triết lý hơn về không gian và thời gian của văn hóa, về thế giới nhân sinh quan và giá trị của chính bản thân mình cũng như sự cống hiến của cá nhân mình cho xã hội. Chính vì thế làm nên cái hồn cho tác phẩm vẫn là tư duy, cách nhìn và cách tiếp cận của bản thân với những gì mình nhìn thấy, nghe thấy, những gì mình khám phá, trải nghiệm.Tất cả những giá trị đó sẽ là một định vị về cảm xúc, hình thành một nhu cầu tự thân đối với người đọc về mong muốn cũng được đi, được khám phá và trải nghiệm như người viết. Trên thực tế, có những tác phẩm du ký không thấy định danh thể loại. Có những tác phẩm không được gọi đích danh là du ký nhưng bản chất vẫn là tác phẩm du ký như Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký, Ngày và đêm ở Đà Lạt của Du Tử, Hương Cảng nhơn vật của Trần Chánh Chiếu,… Bản chất du ký là ghi chép về sự đi, sự xê dịch, thưởng ngoạn cảnh quan xứ lạ, thế nhưng nội hàm của khái niệm này lại khá phức tạp.Bằng chứng là các nhà nghiên cứu không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau về điểm nhìn nghiên cứu cách định danh. Khi nhìn nhận và xác định một nội dung có phải là du ký cần dựa trên một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất,Tác phẩm du ký được thực hiện gắn với ghi chép tư liệu. Một tác phẩm du ký không đơn giản là một tác phẩm văn học mà còn chứa đựng trong nó cả một kho kiến thức lịch sử địa lí, giáo dục, chính trị, văn hóa, phong tục tập quán mỗi vùng miền, rồi cả những cảm nhận, suy tưởng của nhà văn trong quá trình tiếp xúc với người thật việc thật. Du ký thường là miêu tả những sự việc mắt thấy tai nghe của người đi trên hành trình, nó gần như một dạng nhật ký hành trình. Điều này không chỉ kích thích sự tò mò, nhu cầu muốn được khám phá thế giới mà còn là sự tìm kiếm cơ hội khẳng định bản thân, tìm sự khác biệt cả về cách đi và cách tường thuật trong văn bản du ký để tạo sự độc đáo cá nhân. Lối tường thuật cũng có sự biến chuyển dạng thức, từ việc kể chuyện người sang kể chuyện mình, từ các câu chuyện mang màu sắc huyền thoại sang những câu chuyện có thực xuất phát từ những điều mắt thấy tai nghe, từ lối kể chuyện khách 13 quan chuyển sang sự lồng ghép những cảm nhận, cảm xúc cá nhân. Về tính chất thông tin của lộ trình cũng có sự thay đổi, từ những thông tin mang tính ước đoán, phỏng đoán sang những thông tin được tái hiện một cách cẩn trọng và chính xác như những khảo cứu khoa học. Để viết được tác phẩm du ký xuất sắc thì nhà viết ký cũng phải hội tụ đầy đủ những phẩm chất như bất kì nhà văn, nhà thơ nào. Vốn sống, tài năng cũng như tư tưởng tình cảm của người viết sẽ được bộc lộ trực tiếp qua lời văn, “Cho nên đối với người viết ghi chép cũng như người viết văn nói chung, phải có tư tưởng sâu sắc và vốn sống phong phú thì mới sáng tác thành công được”. Để có thể ghi chép tư liệu tốt, chuyển hóa những chất liệu của hiện thực trở thành một tác phẩm du ký có chất lượng, có những giá trị tươi mới, tư chất mà nhà văn cần có như: Năng lực trí tuệ sắc bén, trí tưởng tượng sáng tạo, phông văn hóa, kĩ thuật nghề nghiệp, thông qua kỹ năng thu thập, xử lý thông tin, nghiên cứu, khả năng tư duy logic, sáng tạo.khả năng quan sát tinh tế, thì sự cần thiết của vốn sống nổi lên như một điều kiện quan trọng hàng đầu. Năng động, tự tin, có trách nhiệm, nghiêm túc trong công việc, hoà đồng, cầu tiến.Biết học hỏi, tìm tòi để xây dựng cho mình một vốn văn hóa, vốn sống phong phú và phong cách viết riêng. Thứ hai,Tác phẩm du ký thể hiện rõ nhận định và vốn kiến thức của tác giả. Trong những tác phẩm du ký, ngoài việc kể truyện thì tác phẩm đậm tính chất tư liệu, hướng vào việc tái hiện chính xác thực tại với những sự kiện có thực, thường kèm theo sự lý giải, đánh giá tùy theo sự nhạy cảm và cách hiểu của tác giả. Vì du ký là thể loại được lấy cảm hứng từ những chuyến đi. Do đó trên hành trình lãng du, khám phá của mình, được tiếp xúc với những điều mới lạ. Trong cuộc hành trình du ký có một sức hấp dẫn lạ kì, kích thích trí tò mò và bản năng khám phá của con người với những điều chưa từng được biết đến, chưa từng được tiếp xúc hoặc đã nghe từ lâu giờ mới được thấy, được thưởng ngoạn. Cộng thêm khối kiến thức vô cùng phong phú được góp nhặt trên từng dặm đường khiến du ký vừa giàu giá trị nghệ thuật vừa giàu giá trị thông tin. 14 Những câu chuyện được nghe, được chứng kiến trong cuộc hành trình luôn làm cho du ký có một sức hấp dẫn lạ kì, kích thích trí tò mò cũng như bản năng khám phá của con người, cộng thêm khối kiến thức vô cùng phong phú được góp nhặt trên từng dặm đường khiến du ký vừa giàu giá trị nghệ thuật vừa giàu giá trị thông tin. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy khoa học với tư duy nghệ thuật mà Gorki gọi là “sự hợp nhất giữa truyện và nghiên cứu” là nét rất riêng, làm nên đặc trưng cơ bản cho thể loại này. Tư duy nghệ thuật cho phép du ký được tự do “bay bổng”, thỏa sức bày tỏ những cung bậc cảm xúc trước hiện thực muôn màu. Còn tư duy khoa học lại góp phần làm giàu cho nhận thức của người đọc. 1.1.2. Vài nét sơ lược về du ký Việt Nam Trước khi du ký xuất hiện, trong văn học Việt Nam thời kỳ trung đại, đã tồn tại một số tác phẩm có phương thức sáng tác là nghi chép về những điều mắt thấy, tai nghe, những điều mới lại về thiên nhiên, cuộc sống và con người, qua những chuyến đi xa. Những chuyến đi thời trung đại hầu hết không phải là những chuyến du lịch theo đúng nghĩa mà đều là những chuyến công cán, đi sứ, đi thi, hoặc có mục đích khác. Trong nước những lúc nhàn rỗi và khi về ngồi hồi tưởng lại, ghi những cảm tưởng, suy nghĩ, những quan sát thu nhận được trên đường du lữ, để lại các áng văn thơ du ký. Văn du ký trung đại cũng khá phong phú về hình thức: Thơ, văn xuôi… Số lượng sáng tác du ký còn giữ được không nhiều, chủ yếu tập trong trong khoảng gian từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX. Xét mục đích chuyến đi, địa điểm di chuyển đến và hình thức chữ viết, có thể tạm thời chia văn du ký trung đại thành ba loại: Loại văn du ký của các sứ thần Việt Nam đi Trung Quốc và đến giữa thế kỷ XIX có văn du ký của sứ thần nhà Nguyễn sang Đông Nam Á và Pháp; văn du ký của các nhà nho đi lại giữa các vùng trong nước; một loại thứ ba là văn du ký viết bằng chữ cái la tinh mà ngày nay ta gọi là chữ quốc ngữ của Philiphê Bỉnh và Trương Vĩnh Ký, những tác phẩm này đã có những nét của du ký hiện đại. - Du ký của các Nhà nho trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam; các chuyến đi trong phạm vi không gian của nước Việt được ghi chép lại cũng khá đa dạng. Về 15 thời gian, du ký ở các thế kỷ trước đã lác đác xuất hiện ví dụ Bài ký tháp Linh tế núi Dục Thúy của Trương Hán Siêu (chưa kể thơ, phú có nội dung du ký như thơ của Nguyễn Trãi về Côn Sơn, phú của Nguyễn Hoàng Đại đồng phong cảnh phú.Nhưng phải đợi đến thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, thể loại du ký văn xuôi này mới thực sự nở rộ. Đó là bài ký động Nhị Thanh của Ngô Thì Sỹ. Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác từ Hà Tĩnh ra Thăng Long chữa bệnh cho Trịnh Cán với những cuộc du ngoạn trong lúc rảnh rỗi được chép lại . Tác phẩm được hoàn thành vào cuối năm Quý Mão, Cảnh Hưng 44 (1783) là một tác phẩm ký sự bằng chữ Hán rất có giá trị trong văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, một tập bút ký ghi lại hành trình lên kinh đô, vào phủ khám chữa bệnh chữa bệnh cho chúa. Trước thời thế và nhân tình, không ngăn được nỗi ưu sầu, Lãn Ông đã mượn thơ giãi bày tâm sự.Chất thơ ca, du ký, nhật ký, ký sự… hòa quyện với nhau khó mà tách bạch. Điều này cho thấy tính chất giao thoa, đan xen giữa tư duy nghệ thuật tự sự và trữ tình, văn xuôi và thi ca, kể sự và ngụ tình, kể chuyện và đối thoại, tự thuật và ngoại đề, ghi chép thực tại và hồi cố trong tác phẩm. Để cho phù hợp với sự tiếp nhận của đời sau, người dịch tác phẩm này đã tổ chức lại: “Tập Thượng kinh ký sự viết theo lối du ký, theo thời gian chép việc trước, việc sau.Tuy nhiên, tự sự cũng có đoạn mạch. Ông Nguyễn Trọng Thuật đem dịch ra Việt văn có ý dựa theo ý mà chia thành mười lăm chương”. Cùng với những kiến giải trong quá trình phân tích sự kiện của Phạm Thế Ngũ cho thấy tính không đồng nhất trong quan niệm về thể loại du ký mang tính lịch sử như trường hợp của tác phẩm Thượng kinh ký sự trong cách tiếp nhận của thế hệ sau này. Vì thế, tác phẩm không chỉ được gọi là tập du ký mà còn được định danh bởi các thể loại khác như: ký sự, truyện ký lịch sử, bút ký…[38] Chuyến du ngoạn từ Thăng Long lên núi Sài Sơn vãn cảnh chùa Phật Tích, đền Trấn Vũ, tháp Bảo Thiên, chùa Tiên Tích của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án còn ghi lại trong Tang thương ngẫu lục, với rất nhiều cảm xúc khác nhau. Nhưng xem truyện đủ biết Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án hòa mình vào thiên nhiên, tôn 16 giáo để quên đi cuộc đời. Tuy nhiên, Tang thương ngẫu lục là những tài liệu quý về lịch sử, địa lý, điển lễ, phong tục, lễ nghi ở cuối đời Lê [21]. Tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ cùng với Nguyễn Án là một tác phẩm rất tiêu biểu. Với những nội dung ghi chép lại những việc xảy ra trong xã hội lúc bấy giờ từ việc trong phủ chúa đến ngoài xã hội [21]. Ngoài ra, thế kỷ XVIII-XIX còn để lại nhiều bài ký đi thăm chùa chiền, danh lam thắng cảnh khác trong lãnh thổ Việt Nam. Tinh thần chung của du ký thời trung đại là ghi chép về phong cảnh và các di tích văn hóa lịch sử. Văn du ký của xứ thần Việt Nam có các áng văn du ký tiêu biểu thuộc loại này có Bắc sứ thông lục của Lê Quý Đôn (1726 -1784), Bắc hành tùng ký của Lê Quỳnh. Trong bài tựa cho Bắc sứ thông lục cho biết thơ viết đi sứ của sứ thần Việt Nam trong lịch sử thì rất nhiều, song văn xuôi thì mãi đến Lê Hữu Kiều mới viết Sứ Bắc kỷ sự (chuyến đi sứ năm 1737) (theo tập 88,1) - tập này hiện không còn. Và tập Bắc sứ thông lục là tập văn du ký thứ hai của sứ thần Việt Nam, viết bằng văn xuôi chữ Hán trong chuyến đi sứ năm 1760 -1761. Lê Quý Đôn ghi chép tỉ mỉ, chi tiết trước hết các nội dung liên quan đến chuyến đi sứ, từ thành phần sứ đoàn, các cống vật, lễ vật; hành trình qua các ngày tháng, các địa điểm được ghi chép theo hình thức nhật ký…Trong giai đoạn đầu của nền quốc văn, du ký quốc ngữ phát triển sôi nổi như một thể tài tiên phong mang nhiệm vụ tiếp biến nền văn học. Từ những tác phẩm khởi đầu với quy mô, tầm vóc lớn như “Sách sổ sang chép các việc” của Philipphê Bỉnh, “Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi” của Trương Vĩnh Ký đến hai du ký bằng thơ trường thiên của Trương Minh Ký, “Như Tây nhựt trình”, ‘Chư quấc thại hội”, du ký đã chứng minh được sự tiếp nối vững chắc của nền văn chương mới. Hoàng Xuân Việt đã ghi dấu sự phát triển chữ quốc ngữ trong du ký của Trương Minh Ký thể hiện qua đoạn trích Như Tây nhựt trình như sau: “Chữ quốc ngữ ở đây thật điêu luyện đến mức đáng ngạc nhiên. Đây có thể xem là bước đầu khai mở một khả năng diễn đạt mới của chữ quốc ngữ”. Du ký quốc ngữ phát triển phong phú ở cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là yêu cầu tất yếu của cuộc chuyển giao nhiệm vụ giữa nền văn học mang tính khu vực 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan