Sau ngày miền Nam giải phóng (1975), đặc biệt là từ sau Đổi mới (1986), đời sống văn học Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức và tiếp nhận nghệ thuật. Việc phản ánh cuộc sống và con người trong văn học được suy ngẫm và phân tích một cách sâu sắc những đối cực giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, chân thực, giả tạo… Từ góc độ khám phá hiện thực khác nhau, nhà văn đã cố gắng thể hiên số phận con người với những chiến công và chiến bại, những niềm vui lẫn day dứt đau thương, có khi rất riêng tư rong sâu thẩm của tâm hồn, có khi lại hòa đồng với những lo toan, trăn trở đi lên của dân tộc. Có thể xem tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh là một thành tựu đặc sắc của văn học thời kỳ đổi mới ở mảng đề tài viết về chiến tranh sau chiến tranh. Vì trong TT, BN đã có cái nhìn sâu hơn về thân phận con người trải qua trận mạc, sự mất mát của các cá nhân trong thời chiến. Tác giả thể hiện sự bi quan của cá nhân đối với cuộc chiến: Chiến tranh không chỉ có vinh quang, hay đấu tranh vì chính nghĩa - chiến tranh tóm gọn lại là sự chết chóc, sự hủy diệt.
1
MB:
Sau ngày miềền Nam giải phóng (1975), đặc bi ệt là t ừ sau Đ ổi m ới (1986),
đời sốống văn học Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng trong nh ận
thức và tiềốp nhận nghệ thuật. Việc phản ánh cuộc sốống và con ng ười trong
văn học được suy ngẫẫm và phẫn tích một cách sẫu săốc những đốối c ực gi ữa
thiện và ác, cao cả và thẫốp hèn, chẫn thực, giả tạo… Từ góc đ ộ khám phá
hiện thực khác nhau, nhà văn đã cốố găống thể hiền sốố phận con người với
những chiềốn cống và chiềốn bại, những niềềm vui lẫẫn day d ứt đau th ương, có
khi rẫốt riềng tư rong sẫu thẩm của tẫm hốền, có khi lại hòa đốềng v ới nh ững lo
toan, trăn trở đi lền của dẫn tộc. Có thể xem tiểu thuyềốt Nốẫi buốền chiềốn
tranh của nhà văn Bảo Ninh là một thành tựu đặc săốc của văn học thời kỳ
đổi mới ở mảng đềề tài viềốt vềề chiềốn tranh sau chiềốn tranh. Vì trong TT, BN đã
có cái nhìn sẫu hơn vềề thẫn phận con người trải qua trận m ạc, sự mẫốt mát
của các cá nhẫn trong thời chiềốn. Tác giả thể hiện sự bi quan c ủa cá nhẫn
đốối với cuộc chiềốn: Chiềốn tranh khống chỉ có vinh quang, hay đẫốu tranh vì
chính nghĩa - chiềốn tranh tóm gọn lại là sự chềốt chóc, sự h ủy di ệt.
TB:
Chiếến tranh là phương tiện giếết người một cách dã man, tàn
nhẫẫn nhẫết.
Chiềốn tranh đốềng nhĩa với chềốt chóc, mẫốt mát, đau th ương. Chiềốn tranh đã
cướp đi của con người tẫốt cả: người thẫn, gia đình, tuổi trẻ, tình yều và c ả
nhẫn tính,..chiềốn tranh thật sự khốốc liệt, nghiệt ngã và ề chềề.
Bốối cảnh mở ra là một trận đánh mở màng vố cùng khốốc liệt và bi th ảm ở
khu vực mà Kiền cùng đốềng đội gọi đó là Truống G ọi Hốền. B ức tranh hi ện
thực của cuộc chiềốn tranh hiện lền thật ngột ngạt và căng thẳng. Tác giả đã
tái hiện một cách chẫn thực và sốống động những trận càng quét dã man
của kẻ thù: “một trận đánh thật ghề rợn, độc ác, tàn bạo… mùa khố ẫốy,
năống to gió lớn, rừng bị ướt đẫẫm xăng đặc, cuốền cuộn lửa luyện
ngục.” ,“Trền đẫều trực thăng rà rạp các ngọn cẫy”, mọi người “máu tung xốối.
chảy tóe, ốềng ộc, nhoe nhoét”, “Trền mặt nước lềềnh bềềnh xác người xẫốp
ngửa, xác muốn thú cháy thui”. Sau khi trận đánh ngừng, mưa ngơi bớt, lũ
2
đã tan thì cảnh vật xung quanh xơ xác, tiều điềều đềốn ghề r ợn “mọi vật trốềi ra
dưới năống lẫềy nhẫềy bọc trong lớp bùn đặc ghề tanh nh ư th ịt thốối”.
Khống chỉ nói vềề khống khí tàn bạo của chiềốn tranh, mà còn nói vềề nh ững các
chềốt, những cái chềốt đẫềy ám ảnh Kiền khi Kiền nhớ lại các đốềng đ ội – nh ững
người đã dung cảm hy sinh cho cuộc chiềốn dẫn tộc. Vềề Can, ng ười chiềốn sĩ đã
trốốn đi khỏi tiểu đoàn chỉ muốốn vềề thăm người mẹ già, khi v ệ binh tìm đ ược,
chỉ tìm được xác của Can: “Cái xác lở loét, ốốm o như xác nhái… Mặt của xác
chềốt bị quạ rỉa, miệng nhét đẫềy bùn và lá mục” , hai hốố măốt trống như cái
tăng xề, mọc rều xanh lè. Vẫn thì chềốt cháy cùng với chiềốc T54, thẫn xác ra tro
nền chẳng cẫền huyệt mộ. Hay cái chềốt đau đớn của Quảng – người tiểu đội
trưởng đẫều tiền của Kiền. “Bụng rách trào ruột, xương xẩu dường như gãy
hềốt, mạn sườn lõm vào, tay lủng liểng và hai đùi tím ngăốt.” Ôi chiềốn tranh
bom đạn đã biềốn con người khống còn hình dạng con người n ữa. Nh ưng còn
gì đau đớn hơn khi phải chứng kiềốn đốềng đội mình xin được chềốt “Thương
anh đừng băốt anh lề lềốt mãi” “Cho anh được chềốt đi…m ột phát thối mà…là
xong…Nào!”.
Những cuộc chiềốn, những cái chềốt trong Nốẫi buốền chiềốn
tranh khống phải miều tả như những sự kiện, những chiềốn d ịch,
những trận đánh, mà nó hiện lền trong hốềi ức c ủa người lính đã
từng mười năm cẫềm súng, đã chứng kiềốn bao nhiều cái chềốt và t ự
mình giềốt chềốt bao nhiều mạng người. Băềng cách này hay cách
khác, trực tiềốp hay gián tiềốp, cuộc chiềốn đi qua rốềi nh ưng đ ẻ l ại nốẫi
buốền vố tận, khốn nguối.
Ám ảnh vếề chiếến tranh
ð
Mười bảy tuổi, Kiền tham gia bộ đội. Sau mười năm tham gia chiềốn tranh
Kiền đã nhận biềốt được thềố nào là sự khốốc liệt của chiềốn tranh, Kiền đã
chứng kiềốn được sốố phận nhỏ nhoi của người lính trong trong cu ộc chiềốn
tranh. Đốối với Kiền, chiềốn tranh như là trò đùa trền sinh m ạng con ng ười.
Trong mười năm đó, Kiền đã nhận ra được thềố nào là sự vố nghĩa c ủa chiềốn
tranh, thềố nào là nốẫi cố đơn. Có những lúc Kiền muốốn được chềốt cho xong
cuộc đời mình “anh chỉ muốốn được yền thẫn, chềốt một cách yền thẫn, yền với
thẫn phận con sẫu cái kiềốn của chiềốn tranh”.
Nốẫi buốền chiềốn tranh còn cho chúng ta một cái nhìn khác vềề ng ười lính trong
thời bình. Tưởng như hòa bình seẫ đem lại cuộc sốống tốốt đẹp cho những
người lính từng tham gia chiềốn tranh. Nhưng khống, với nh ững ng ười như
3
Kiền hòa bình khống có ý nghĩa gì hềốt. Cuộc chiềốn tranh c ủa c ả dẫn t ộc đã
kềốt thúc, nhưng đốối với Kiền vẫẫn còn nguyền vẹn cuộc chiềốn tranh c ủa riềng
anh. Sau những năm tháng ác liệt của chiềốn tranh, đáng leẫ Kiền ph ải đ ược
hưởng một cuộc sốống hòa bình trọn vẹn, nhưng khi hòa bình đềốn cũng là lúc
Kiền đánh mẫốt những gì cao đẹp nhẫốt. Tu ổi trẻ, tình yều đã b ị chiềốn tranh
nghiềền nát, ngay cả cuộc sốống bình thường như mọi người Kiền cũng khống
thể có. Khi đi giữa phốố phường Hà Nội anh lại cảm thẫốy như lạc vào “giẫốc
mơ khi tỉnh…tưởng mình đang đi qua đốềi “Xáo Thịt” la li ệt ng ười chềốt sau
trận xáp lá cà tăốm máu cuốối tháng chạp 72.” Có đềm Kiền lại giật mình thức
giẫốc vì nghe tiềống quạt trẫền thành tiềống rít của trực thăng vũ trang. Kiền lúc
nào cũng cảm thẫốy “các hốền ma rách nát thường vẫẫn hiện hình, ốm theo
những vềốt thương đỏ lòm, toác hoác”. Kiền luốn ám ảnh vềề cuộc chiềốn đẫốu đã
qua, lúc nào những cái chềốt của đốềng đội, những c ảnh rùng r ợn c ủa chiềốn
tranh cũng hiện vềề trong anh. Những cuộc chiềốn tranh đã ám ảnh Kiền mãi,
nhẫốt là khi anh ngủ : “Đối khi là những ác mộng rợn người… Vố vàng những
ám ảnh từ đời nảo đời nào trong chiềốn tranh…hùa theo nhau th ức c ả d ậy.”
Chính những ám ảnh ẫốy, giẫốc mơ ẫốy đã làm cho tẫm hốền Kiền “mốẫi ngày một
thềm hoang phềố”. Sau những giẫốc mơ ẫốy thì Kiều đềều “toàn thẫn tối lạnh giá
nhưng đẫẫm mốề hối, cổ họng đau rát vì mề hoảng la hét, mối r ớt máu, cúc áo
ngủ đứt tung, ngực bị móng tay cào xoạc da.” Vì ám ảnh, vì tẫm hốền anh đã
bị mục nát theo thời gian, anh đã băốt tay vào viềốt ti ểu thuyềốt, anh viềốt nh ư
thể “lao vào chiềốn đẫốu lại cuộc chiềốn đẫốu của đời mình, m ột cách đ ơn đ ộc,
phi hiện thực, một cách cay đăống, đẫềy rẫẫy va vẫốp và lẫềm l ạc”. Anh trở thành
một nhà văn “ phường”, một anh “ khùng” như láng giềềng vẫẫn gọi. Kiền
mang trong lòng một cuộc chiềốn tranh cua riềng mình. Anh sốống v ới những
hốềi ức vềề những đốềng đội, kẻ còn sốống, người đã chềốt, và những con ma hi ện
hình trong Truống Gọi Hốền ở Trường Sơn, vềề những cảnh chém giềốt đẫẫm
máu, vềề lòng dũng cảm, sự hi sinh và sự đốốn mạt c ủa con ng ười.
Khống chỉ mình Kiền bị ám ảnh bởi chiềốn tranh, cũng có rẫốt nhiềều ng ười lính
như Kiền sau khi chiềốn đẫốu, họ cũng mang trong mình những t ổn th ương
tẫm lý dù ít hay nhiềều. Vượng, anh lính lái xe giải ngũ cứ tưởng seẫ tiềốp tục
hành nghềề lái xe để sốống đời dẫn thường chẳng ngờ lại măốc chứng b ệnh oái
ăm. Vượng chịu được xóc nảy ổ gà, ổ voi khi lái xe trong chiềốn tr ường
nhưng với những con đường “ềm ềm, nhũn nhũn” thời bình lại khiềốn anh
nốn ọe, say xe.
4
Đốối với Kiền, Phương là người đánh thức tình yều trong anh thời tu ổi tr ẻ, là
nguốền sức mạnh chập chờn trong quãng đời chiềốn tr ận của anh nh ưng
đốềng thời, Phương cũng là một nạn nhẫn của chiềốn tranh, b ị làm nh ục ngay
trong những giờ khăốc khởi đẫều của cuộc chiềốn và mốối tình c ủa h ọ mãi mãi
là một mốối tình đau khổ khống thành với những vềốt thương khống th ể ch ữa
lành trong cuộc sốống thời bình. Cái chềốt của những người lính, sự tan vỡ
của tình yều và sự chà đạp nhẫn phẩm người phụ nữ là những m ặt bi ểu
hiện sức mạnh hủy diệt của chiềốn tranh, sức mạnh chà đạp lền đời sốống con
người. Có thể thẫốy trong Nốẫi buốền chiềốn tranh, cuộc chiềốn cũng có khuốn
mặt của phụ nữ, là một điềều rẫốt khác với các tiểu thuyềốt chiềốn tranh khác.
Cái mới
Trong Nốẫi buốền chiềốn tranh, chiềốn tranh đã được nhìn nhận ở nh ững góc đ ộ
khác trước, hẫều như đã khống còn cảm hứng căốt nghĩa, lí giải, tái nh ận th ức
mà là một cảm hứng mới: chiềốn tranh như một vẫốn đềề, m ột b ộ ph ận c ủa đ ời
sốống nhẫn sinh chứ khống phải một hiện thực tự thẫn được lẫốy làm đốối
tượng của sự thức nhận. Có vẻ như tiểu thuyềốt hậu chiềốn đã đáp ứng được
yều cẫều tái nhận thức vềề chiềốn tranh, vềề người lính. Và với những thành tựu
tiều biểu đã đạt được, đã đềốn lúc có thể khẳng định những đóng góp ti ểu
thuyềốt hậu chiềốn đốối với quá trình đổi mới văn xuối Vi ệt Nam sau 1975. Đó là
nốẫi đau, nốẫi mẫốt mát, nốẫi ám ảnh kinh hoàng của người lính vềề s ự tàn khốốc
của chiềốn tranh. Lớn hơn nốẫi đau vềề thể xác, đó là nốẫi đau vềề tinh thẫền, điềều
mà chúng ta gọi là “hội chứng chiềốn tranh”.
KL:
Bảo Ninh viềốt vềề “nốẫi buốền chiềốn tranh”, “nốẫi buốền tình yều”, vềề m ột th ời đã
qua khống bao giờ trở lại. Đọc tác phẩm này chúng ta hi ểu con ng ười đau
khổ, trăn trở, nhận thức như thềố nào vềề quá khứ, vềề chiềốn tranh, vềề những gì
được mẫốt trong cuộc đời. Cho dù nhiềều người trở vềề sau chiềốn tranh khống
hềề bị thương tích song vềốt thương trong lòng họ lại vố cùng đau đớn và luốn
rỉ máu. Đẫy là một bức tranh trung thực và tàn nhẫẫn đềốn kinh ng ạc. Vì v ậy,
NBCT là một bước tiềốn trền con đường hiện đại hóa ti ểu thuyềốt Vi ệt Nam con đường đi tới diềẫn tả sốố phận tinh thẫền của con ng ười, tăng thềm chiềều
sẫu tư tưởng, nẫng cao vai trò của chủ quan nhà văn trong sáng t ạo ngh ệ
thuật.
5
- Xem thêm -