Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh bình phước...

Tài liệu Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh bình phước

.PDF
86
638
85

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ BÍCH TRÂM DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƢỚC Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN HỮU MINH HÀ NỘI, 2016 HÀ NỘI - năm LỜI CAM ĐOAN Đề tài nghiên cứu “Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng tìm tòi và nghiên cứu của bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Nguyễn Hữu Minh. Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của đề tài hoàn toàn là kết quả điều tra, khảo sát mà tôi đã tiến hành tại tỉnh Bình Phước. Hà Nội, tháng 6/2016 Học viên Vũ Thị Bích Trâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU: ...................................................................................................................... 1 Chƣơng1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .................................................................... 12 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của Trẻ khuyết tật ................................................ 12 1.2. Cơ sở lý luận về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật: .......................... 17 1.3. Cơ sở pháp lý của dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật ........................... 25 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật ............ 30 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT .............................................. 34 2.1. Đặc điểm địa bàn và khách thể nghiên cứu.............................................................. 34 2.2. Thực trạng về Trẻ khuyết tật tỉnh Bình Phước......................................................... 36 2.3 Thực trạng hoạt động cung cấp Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình Phước ........................................................................................... 42 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật ............. 52 2.5. Đánh giá Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình Phước............................................................................................................................... 59 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÁC DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI .............................................................. 62 3.1. Các định hướng cho việc đảm bảo dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật .. 62 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình Phước ........................................................................................... 65 KẾT LUẬN ................................................................................................................... 67 KIẾN NGHỊ ................................................................................................................... 68 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BVCSTE: bảo vệ chăm sóc TE CTXH: công tác xã hội CTV: CTV DV: dịch vụ DVCTXH: dịch vụ công tác xã hội GDHN: giáo dục hòa nhập NKT: người khuyết tật NTT: người tàn tật TE: TE TKT: trẻ khuyết tật DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Quy mô về độ tuổi Trẻ khuyết tật và các dạng khuyết tật ..................... .39 Bảng 2.2: Cơ cấu về độ tuổi khuyết tật và các dạng khuyết tật. ............................ .40 Bảng 2.3: Mức độ khuyết tật. ................................................................................... 40 Bảng 2.4: Nhận thức của cộng đồng đối với Trẻ khuyết tật. ................................... 60 Biểu đồ 2.1: Thực trạng hoàn cảnh sống của Trẻ khuyết tật ................................... 41 Biểu đồ 2.2: Thực trạng sức khỏe của Trẻ khuyết tật. .......................................... . 43 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em nói chung và Trẻ khuyết tật nói riêng là những đối tượng cần được quan tâm của Đảng, nhà nước, gia đình và của toàn xã hội do các em chưa phát triển hoàn thiện về mặt thể chất và tinh thần. Trẻ khuyết tật có nhiều thiệt thòi hơn so với các bạn cùng độ tuổi vì các em bị khiếm khuyết về thể chất và tinh thần. Vì khuyết tật nên các em gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia vào các hoạt động xã hội vì thế các em cần được sự quan tâm đặc biệt của gia đình, cộng đồng và của toàn xã hội. Nhưng cũng giống như những Trẻ em khác, Trẻ khuyết tật vẫn có thể học tập, phát huy tiềm năng để phát triển, giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội nếu các em được quan tâm và hỗ trợ các dịch vụ phù hợp. Do đó việc chăm lo, hỗ trợ cho Trẻ khuyết tật là nghĩa vụ của mỗi gia đình, cộng đồng xã hội và nhà nước. Pháp luật Việt Nam hiện hành có nhiều quy định để để bảo vệ, chăm sóc nhằm đáp ứng các nhu cầu của Trẻ em nói chung và Trẻ khuyết tật nói riêng như Hiến pháp năm 2013, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Người khuyết tật năm 2012, Quyết định số 1019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020, Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định 267/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sau 03 năm thực hiện pháp luật về Người khuyết tật và các chương trình về bảo vệ, chăm sóc trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhà nước đã tạo được hành lang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho Trẻ khuyết tật hoà nhập cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của Người khuyết tật, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp Trẻ khuyết tật có hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật về Người khuyết tật và các chương trình hỗ trợ Trẻ khuyết tật thực tế còn nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa các quy định và thực tế, nguồn lực đầu tư cho công tác chăm sóc, hỗ trợ cho trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tương đối lớn nhưng hầu như chưa tương xứng với nhu cầu thực tế. 1 Vì vậy, vẫn còn tình trạng Trẻ khuyết tật chưa được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của mình để phát triển và hòa nhập cộng đồng vì đối với Trẻ khuyết tật ngoài những nhu cầu chung của Trẻ em thì các em còn có những nhu cầu đặc thù khác cần được đáp ứng, hỗ trợ để phù hợp với điều kiện về thể chất và tinh thần. Việc bảo đảm cho Trẻ khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn hoá, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông công cộng thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại, phần lớn Trẻ khuyết tật chưa tiếp cận được với các dịch vụ giáo dục, dịch vụ giải trí, y tế. . . nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bình Phước là một tỉnh nghèo, chịu ảnh hưởng nặng nề sau chiến tranh, cùng với hậu quả chiến tranh để lại, sự tác động của ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh vì vậy số Trẻ khuyết tật của tỉnh được dự báo là sẽ không giảm trong những năm tới. Hơn lúc nào hết cần phải tổ chức tốt các dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật nhằm giúp các em tiếp cận được các dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao và các dịch vụ khác phù hợp để các em được hạn chế những khó khăn do khuyết tật gây ra, có cơ hội phát triển, giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội. Xuất phát từ những cơ sở nêu trên, việc cung cấp các dịch vụ xã hội để đáp ứng nhu cầu của Trẻ khuyết tật là cấp thiết để đảm bảo việc thực hiện các quyền của Trẻ em theo pháp luật và phát huy hiệu quả của các hoạt động công tác xã hội. Trước bối cảnh đó, tôi đã chọn đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” làm đề tài nghiên cứu nhằm đưa những khuyến nghị, giải pháp cụ thể để cung ứng các dịch vụ công tác xã hội cho Trẻ khuyết tật đáp ứng nhu cầu và đạt hiệu quả hơn 2.Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề trẻ Trẻ khuyết tật, công tác xã hội với Người khuyết tật đã có nhiều nghiên cứu, văn bản của các Bộ, ngành, các cấp chính quyền và các nhà nghiên cứu. Cụ thể: “ Báo cáo Quyền của Trẻ khuyết tật tại Việt Nam” của tác giả Eric Rosenthal và Viện Quốc tế bảo vệ quyền Người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu 2 UNICEP Việt Nam năm 2009. Báo cáo đã nhận định tại Việt Nam cũng như nhiều nơi trên thế giới, Trẻ khuyết tật phải đương đầu với nhiều khó khăn khi tiếp cận với môi trường vật chất cũng như tiếp cận những dịch vụ dựa vào cộng đồng, dịch vụ y tế giáo dục và hệ thống bảo vệ trẻ em. Vấn đề thiếu khả năng tiếp cận đối với Người khuyết tật tại Việt Nam đặc biệt trầm trọng đối với Trẻ khuyết tật, nó tạo ra những rào cản đến các dịch vụ y tế, giáo dục, vui chơi giải trí, văn hóa thể thao và những hoạt động khác rất thiết yếu cho sự phát triển của một đứa trẻ. Bên cạnh đó, báo cáo cũng đã nêu rõ những quyền của Trẻ khuyết tật đó là quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử chỉ vì khuyết tật, quyền tiếp cận những khu vực công và dịch vụ công, quyền sống trong cộng đồng, quyền được gia đình bảo vệ, quyền được dịch vụ và đủ tiêu chuẩn cuộc sống, quyền được chăm sóc sức khỏe miễn phí và đặc biệt, quyền được giáo dục, quyền về danh tính, khai sinh và năng lực pháp lý. “Báo cáo phân tích tình hình Trẻ em ở Việt Nam” do UNICEF thực hiện năm 2010 đã nêu rõ bên cạnh những thành công về kinh tế, Việt Nam cũng đã đạt những tiến bộ lớn cho trẻ em trong thời gian khá ngắn. Báo cáo cũng chỉ ra những lĩnh vực cần nhiều tiến bộ hơn nữa và cả tính cấp bách của nó như vẫn còn một bộ phận trẻ em và trẻ vị thành niên ở Việt Nam vẫn sống trong điều kiện chưa được hưởng quyền và chưa được hòa nhập với xã hội như chăm sóc y tế có chất lượng, giáo dục trung học và nước sạch vẫn chưa tiếp cận được một cách bình đẳng với mọi trẻ em; tình trạng không hòa nhập xã hội do một vài nhân tố gây ra bao gồm sự chênh lệch về kinh tế, bất bình đẳng giới, sự khác biệt đáng kể giữa nông thôn, thành thị cũng như giữa các vùng địa lý; Trẻ khuyết tật cho dù sống với gia đình hay ở các trung tâm, việc giáo dục các em trở thành những thành viên hòa nhập xã hội và độc lập về tài chính đều có cùng một thách thức. “Báo cáo tình hình Trẻ em thế giới 2013 với chủ đề Trẻ khuyết tật” do UNICEF thực hiện đã khuyến cáo Trẻ khuyết tật và cộng đồng sẽ cùng được lợi nhiều hơn nếu xã hội quan tâm tới những gì Trẻ khuyết tật có thể làm được thay vì tập trung chú ý vào khiếm khuyết của các em. Báo cáo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cần có sự tham gia của Trẻ em và người chưa thành niên có khuyết tật thông 3 qua việc khảo sát lấy ý kiến của chính các em trong quá trình xây dựng và đánh giá các chương trình và dịch vụ dành cho Trẻ khuyết tật. Bài viết “Dịch vụ xã hội cho người khuyết tật thách thức và triển vọng” của tác giả Tạ Hải Giang – Trung tâm phát triển sức khỏe bền vững – Viethealth. Bài viết nêu rõ ở nước ta, những dịch vụ xã hội cơ bản dành cho Người khuyết tật như y tế, giáo dục, sinh kế và việc làm đã được triển khai, tuy nhiên với rất nhiều Người khuyết tật thì việc tiếp cận các dịch vụ này gặp rất nhiều rào cản đó là thiếu thông tin, sự kỳ thị, thiếu những dịch vụ ở cấp độ cá nhân. Mặc dù nhà nước và các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đã nổ lực cải thiện tình trạng này nhưng việc cung cấp các dịch vụ xã hội cho Người khuyết tật vẫn còn nhiều vướng mắc về kinh phí, nguồn nhân lực, nhận thức về Người khuyết tật còn hạn chế. Bên cạnh đó, bài viết cũng nêu quan điểm, các dịch vụ xã hội nên và cần có sự góp sức của nhân viên xã hội. Trong tương lai gần, nhân viên xã hội hoàn toàn có thể tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ cho Người khuyết tật như giáo dục hòa nhập, hướng nghiệp việc làm. Báo cáo “Trẻ em ngoài nhà trường” do Bộ giáo dục và Đào tạo chủ trì thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của UNICEP Việt Nam đã nêu rõ trẻ em chưa từng đi học, bỏ học hoặc có nguy cơ bỏ học gồm nhiều đối tượng trong đó có Trẻ khuyết tật. Nghiên cứu cũng nhận định Trẻ khuyết tật có bất lợi rõ rệt về giáo dục, với tỷ lệ đi học rất thấp và ngược lại tỷ lệ Trẻ em ngoài nhà trường rất cao. Tỷ lệ Trẻ em ngoài nhà trường ở bậc tiểu học và Trung học cơ sở là khoảng 25% đối với Trẻ khuyết tật một phần và lên đến trên 90% đối với Trẻ khuyết tật; tỷ lệ Trẻ khuyết tật chưa từng đi học hoặc thôi học, Trẻ em ngoài nhà trường, luôn có tỉ lệ cao hơn 80% ở mọi độ tuổi. Đặc biệt, tỷ lệ này lên tới 91,4% ở Trẻ khuyết tật từ 11 - 14 tuổi. Báo cáo nghiên cứu cũng phân tích một số các rào cản và vướng mắc, đến từ phía cầu tức bản thân Trẻ em và cha mẹ và phía cung cấp dịch vụ giáo dục, bao gồm hệ thống giáo dục đồng thời có liên quan đến các bên khác như các cơ quan quản lý quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp. Nổi bật về rào cản liên quan đến phía cầu là gia đình nghèo, chi phí đắt đỏ cho các khoản liên quan đến học tập 4 của trẻ. Rào cản về phía cung gồm sự tác động từ cơ sở vật chất, giáo viên, quản lý giáo dục và một số vấn đề mang tính hệ thống như chương trình, hệ thống thông tin số liệu, quản trị xã hội, năng lực và cơ chế tài chính. Đề tài “công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Thanh Hóa” của tác giả Đỗ Thị Liên, tác giả nhận định cùng với sự phát triển của đời sống xã hội thời kỳ đổi mới, sự quan tâm của xã hội trên góc độ hệ thống chính sách xã hội và các hoạt động bảo trợ, các hoạt động xã hội ngày càng được quan tâm và đầu tư nhằm nâng cao khả năng hòa nhập cho Người khuyết tật. Mặc dù có sự thay đổi rõ nét về hệ thống chính sách xã hội, hệ thống Dịch vụ xã hội hướng đến trợ giúp kinh tế, đời sống của Người khuyết tật vẫn gặp nhiều hạn chế và rào cản từ góc độ nhận thức xã hội đến rào cản về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội chuyên nghiệp cũng như cơ hội phát triển và vấn đề việc làm. Từ những khó khăn chung về cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận và điều kiện xã hội, Người khuyết tật vẫn chưa được hưởng các mô hình trợ giúp xã hội và Dịch vụ xã hội mang tính chuyên môn, vì vậy nó tác động không tích cực trở lại đến quá trình hòa nhập xã hội của Người khuyết tật. Bài viết “Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển các Dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em” của Tiến sỹ Đỗ Thị Ngọc Phương nêu rõ sự cần thiết của việc phát triển dịch vụ đối với công tác bảo vệ trẻ em. một số quốc gia như Anh, Mĩ, c, Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, việc cung cấp Dịch vụ xã hội chủ yếu là trách nhiệm của các bộ và cơ quan nhà nước. một số quốc gia, dịch vụ công tác xã hội thường tập trung vào trị liệu tâm lý xã hội và tham vấn, ở một số quốc gia khác, dịch vụ công tác xã hội có vai trò cụ thể và ảnh hưởng nhiều hơn đến việc quản lý các dịch vụ xã hội của chính phủ. Anh, các cách tiếp cận dịch vụ có thể là do thân chủ tự tìm đến dịch vụ, hoặc được cán bộ chuyên môn giới thiệu như bác sỹ hoặc giáo viên , hoặc thông qua lệnh của tòa án dựa trên đánh giá của cán bộ xã hội cấp quận/huyện; Mĩ Cũng giống như mô hình ở Vương quốc Anh, những người cần dịch vụ có thể tự tìm đến dịch vụ hoặc do cán bộ chuyên môn hoặc tòa án giới thiệu đến. Công tác xã hội tại Philippines ngày càng nhấn mạnh hơn vào vấn đề chính 5 sách và phát triển cộng đồng trong đó các cán bộ hoạt động trực tiếp kết hợp vai trò cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội cho nhu cầu của các cá nhân và gia đình với các hoạt động tổ chức cộng đồng. Các dịch vụ chuyên biệt được cung cấp tại các trung tâm dành cho người có nhu cầu hoặc ở cấp vùng, cấp quốc gia. Liên quan đến tính thể chế của các dịch vụ công tác xã hội, kinh nghiệm ở một số nước cũng cho thấy tính pháp lý có ý nghĩa rất lớn giúp tạo điều kiện cho người hành nghề các dịch vụ công tác xã hội được thuận lợi và thực sự được coi đó là một nghề. “Nghiên cứu định tính về Trẻ khuyết tật tại An Giang và Đồng Nai, kiến thức – thái độ- thực hành” do tác giả Trịnh Thắng và các cộng sự thực hiện năm 2010. Nghiên cứu đã phân tích tình hình chung về kiến thức, thái độ và hành vi của cộng đồng đối với Trẻ khuyết tật tại 2 tỉnh An Giang và Đồng Nai. Về kiến thức, tác giả đưa ra nhận định sự hiểu biết các khái niệm, các nguyên nhân và phân loại Trẻ khuyết tật không đồng đều giữa các nhóm đối tượng khác nhau, hầu như dựa vào kinh nghiệm về Trẻ khuyết tật chứ họ không thật sự có hiểu biết đúng đắn về về vấn đề này. Đồng thời, kiến thức về phòng ngừa khuyết tật, phát hiện và can thiệp sớm của các bậc phụ huynh tham gia nghiên cứu cũng bị hạn chế về thái độ, nhìn chung các bậc phụ huynh thường chấp nhận Trẻ khuyết tật như là những thành viên gia đình bị thiệt thòi, vì thế thường có xu hướng dành nhiều hỗ trợ và sự quan tâm về mặt tình cảm cho con họ, nhưng các trường hợp này hầu như là ở các gia đình có đủ điều kiện kinh tế. Bài viết kinh nghiệm triển khai dịch vụ công tác xã hội tại một số nước trên thế giới trên Website của Bộ Lao động TB&XH năm 2014 nêu rõ ở các nước trên thế giới, công tác xã hội thường phát triển theo hướng trở thành dịch vụ tại cộng đồng và góp phần cải thiện tính hiệu quả của dịch vụ phúc lợi xã hội. Cơ cấu các dịch vụ công tác xã hội có sự kết hợp của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ. Mối quan hệ này khác nhau giữa các nước do lịch sử phát triển của hệ thống phúc lợi xã hội, yếu tố văn hóa, xã hội và kinh tế chính trị của mỗi nước. một số nước như Anh, c, nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội cho người dân. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, sự tham gia của khu vực phi Chính phủ chủ yếu dựa trên các hợp đồng với Chính phủ, hoạt động với tư cách là 6 đại diện cho chính phủ và được chính phủ trả tiền. Còn tại nước Mỹ, công tác xã hội thu phí cao đối với những người giàu.Tại Philippines, công tác xã hội được tập trung vào vấn đề chính sách và phát triển cộng đồng, trong đó, các cán bộ hoạt động trực tiếp đóng vai trò là người cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội, đáp ứng nhu cầu của cá nhân và gia đình. Các cán bộ xã hội làm việc tại cơ quan trung ương là Bộ hoặc tại các dự án của tổ chức phi Chính phủ, văn phòng trung ương và cấp tỉnh. Các dịch vụ chuyên biệt được cung cấp tại các trung tâm dành cho người có nhu cầu hợc ở cấp vùng, cấp quốc gia. Tất cả các công trình nghiên cứu trên đều nghiên cứu về Trẻ khuyết tật, Người khuyết tật và Dịch vụ công tác xã hội. Tuy nhiên các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức đánh giá thực trạng hay nêu lên các quyền của Trẻ khuyết tật, chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật. Từ năm 2011 đến nay, trên địa bàn tỉnh Bình Phước chưa có những chương trình cũng như đề tài nghiên cứu về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật nhằm đưa ra những khuyến nghị hợp lý và xác thực để có hướng giúp đỡ các em vì vậy đề tài mà tôi lựa chọn là hoàn toàn không bị trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng của Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị về giải pháp hỗ trợ cho Trẻ khuyết tật phù hợp với nhu cầu và hiệu quả hơn góp phần phát triển Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về Trẻ em, Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khuyết tật, Trẻ khuyết tật, công tác xã hội, Dịch vụ công tác xã hội, Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật. 7 Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng Dịch vụ công tác xã hội với Trẻ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Đề xuất những định hướng, giải pháp về những Dịch vụ công tác xã hội dành cho Trẻ khuyết tật tỉnh Bình Phước trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loại hình Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu các loại hình Dịch vụ công tác xã hội với Trẻ khuyết tật tại tỉnh Bình Phước gồm có dịch vụ hỗ trợ giáo dục; dịch vụ hỗ trợ y tế và phục hồi chức năng; dịch vụ hỗ trợ tâm lý- xã hội; dịch vụ hỗ trợ pháp lý; dịch vụ hỗ trợ các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, giải trí cho Trẻ khuyết tật. Về không gian và thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu Dịch vụ CTXH đối với trẻ khuyết tật từ năm 2010 – 2014. Thời gian thực hiện nghiên cứu: Từ tháng 02/2016 đến 06/2016. Khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu 120 Trẻ khuyết tật trong độ tuổi từ 10-16 tuổi hoặc cha mẹ của các em trong trường hợp Trẻ khuyết tật không tự trả lời câu hỏi được , 50 người dân trong cộng đồng, 11 cán bộ phụ trách công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em của các huyện, thị xã, 4 cán bộ của Sở Lao động Thương binh và Xã hội. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài áp dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, tổng hợp nhằm xem xét việc cung cấp các Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình Phước trong mối quan hệ với các yếu tố như chính 8 sách, môi trường xã hội, gia đình, cộng đồng. Các đối tượng được nghiên cứu trong đề tài sẽ được đánh giá theo mốc thời gian, mang tính lịch sử rõ ràng. Qua đó các vấn đề và các yếu tố quan trọng trong đề tài nghiên cứu có sự so sánh, đối chiếu, đảm bảo tính chính xác trong trình bày kết quả nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để tìm hiểu thực trạng của Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã tương xứng với nhu cầu thực tế hay chưa, nhu cầu của Trẻ khuyết tật gồm những gì, luận văn sử dụng các phương pháp sau đây: 5.2.1. Điều tra bằng bảng hỏi Điều tra bằng bảng hỏi tiến hành phỏng vấn trực tiếp với khách thể nghiên cứu nhằm thu thập thông tin để làm rõ thực trạng nhu cầu hỗ trợ từ các chính sách, dịch vụ đối với Trẻ khuyết tật. Điều tra và lấy thông tin từ người được hỏi, tác giả tiến hành chọn 170 mẫu, trong đó có 120 Trẻ khuyết tật hoặc cha mẹ, người chăm sóc Trẻ khuyết tật) từ 1016 tuổi của 03 huyện Hớn Quản, Lộc Ninh và Đồng Phú để thu thập thông tin, số liệu về những loại hình Dịch vụ công tác xã hội mà các em đang được hưởng có đủ và phù hợp với các em hay không, những mong muốn của các em; 50 người dân trong cộng đồng nhằm thu thập thông tin về nhận thức của cộng đồng đối với nhằm thu thập thông tin, số liệu về thực trạng đời sống của Trẻ khuyết tật, sự hiểu biết về vấn đề khuyết tật và nhận thức của cộng đồng với vấn đề Trẻ khuyết tật. Những thông tin thu thập từ bảng hỏi sẽ làm cơ sở cho tác giả đề xuất những giải pháp thiết thực để cung cấp các Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật đạt hiệu quả hơn. 5.2.2. Phương pháp quan sát Trong thời gian thực hiện đề tài, tác giả đã tiến hành quan sát thực trạng đời sống, kinh tế, xã hội tại địa phương và đời sống tâm lý của Trẻ khuyết tật thông qua qua các hoạt động thường ngày. Phương pháp quan sát thực tế góp phần làm rõ thêm những kết quả của nghiên cứu định lượng. 5.2.3. Phỏng vấn sâu 9 Sử dụng phương pháp này để có nhận định về nghiên cứu một cách đầy đủ, có cơ sở khoa học và hiểu rõ hơn vấn đề đang nghiên cứu. Với phương pháp phỏng vấn sâu, những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu sẽ được cụ thể hóa thành một bảng hướng dẫn được chuẩn bị trước để người phỏng vấn sử dụng trong quá trình phỏng vấn. Phương pháp này sẽ khai thác được các thông tin như những nguồn lực, dịch vụ xã hội hỗ trợ cho Trẻ khuyết tật đã đáp ứng nhu cầu của các em hay chưa; những chính sách, pháp luật về Trẻ khuyết tật đã được triển khai ở địa phương như thế nào. Phỏng vấn sâu được tiến hành với 15 người gồm có 11 người là cán bộ phụ trách công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại 11 huyện, thị xã, 4 cán bộ lãnh đạo của Sở Lao động Thương binh và Xã hội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động đào tạo tại các cơ sở đào tạo nói chung và công tác xã hội nói riêng. Đồng thời là tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho những ai quan tâm về lĩnh vực Dịch vụ công tác xã hội, vai trò của lý thuyết Dịch vụ công tác xã hội đối với hoạt động và hiệu quả của các Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật. Kết quả nghiên cứu của đề tài là cái nhìn tổng quan hơn về dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật, qua đó có thể bổ sung vào việc đóng góp ý kiến, tham vấn chính sách pháp luật trong hoàn thiện cơ chế, chính sách cho Trẻ khuyết tật đối với cơ quan nhà nước cũng như công tác truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng về các chính sách, dịch vụ hỗ trợ cho Trẻ khuyết tật. Kết quả nghiên cứu giúp có cái nhìn đúng đắn, xác thực về Dịch vụ công tác xã hội tại tỉnh Bình Phước hiện nay đang ở mức như thế nào, đã đáp ứng với nhu cầu thực tế của Trẻ khuyết tật hay chưa qua đó có cái nhìn tích cực hơn khi xem xét thực trạng này. 10 Nghiên cứu cũng góp phần cung cấp thông tin với địa phương và các tổ chức xã hội, đề xuất các phương án cũng như khuyến nghị để có các chính sách hỗ trợ kịp thời và phù hợp giúp Trẻ khuyết tật có cuộc sống tốt hơn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật. Chương 2: Thực trạng Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật ở tỉnh Bình Phước. Chương 3: Giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các Dịch vụ công tác xã hội. 11 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của Trẻ khuyết tật 1.1.1. Một số khái niệm Khái niệm Trẻ em Điều 1 Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Khái niệm Trẻ em theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 của Việt Nam: “trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Trong Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 sử dụng khái niệm “người chưa thành niên” là người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Trong quá trình thực hiện một số chính sách trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta vẫn vận dụng cho những người trong độ tuổi vị thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi như chính sách trợ cấp xã hội, chính sách trợ giúp về giáo dục, y tế khi các đối tượng này vẫn trong hoàn cảnh khó khăn và hiện tại vẫn theo học các trường phổ thông hoặc các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp. Đối với trẻ em là người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam thì chúng ta vẫn tôn trọng thực hiện theo quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, nhưng số lượng trẻ em này không có nhiều và cũng không thuộc nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Như vậy có rất nhiều định nghĩa về trẻ em và tất cả định nghĩa đều thừa nhận rằng trẻ em dùng để chỉ một giai đoạn phát triển của con người từ lúc sinh ra đến dưới 16 tuổi. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt 12 Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa; trẻ khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật [ 9]. Như vậy TKT là một trong 10 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã được luật pháp quy định. Khuyết tật Có rất nhiều cách hiểu và giảng giải khác nhau về khuyết tật, xuất phát từ sự đa dạng của khuyết tật, sự phức tạp về mức độ khuyết tật, công cụ đo lường và đánh giá, cũng như sự khác biệt về văn hóa xã hội của mỗi quốc gia. Sự khác biệt này cho thấy khái niệm khuyết tật rất khó đo được và khó định nghĩa. Chúng ta có thể hiểu từ khuyết nghĩa là không đầy đủ, thiếu mất một bộ phận hoặc một phần. Từ tật có nghĩa là có điều gì đó không được bình thường, ít nhiều khó chữa ở vật liệu, dụng cụ, máy móc. Còn ở người là sự bất thường, nói chung không thể chữa được của một cơ quan trong cơ thể do bẩm sinh mà có, hoặc do tai nạn hay bệnh gây ra theo Từ điển tiếng Việt Nxb Khoa học – xã hội, Hà Nội, 1988 . Khuyết tật có thể được hiểu là khiếm khuyết thực thể ở một bộ phận nào đó hoặc khiếm khuyết chức năng ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức của cơ thể và khiếm khuyết đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống. Như vậy, định nghĩa khuyết tật theo cách tiếp cận mới được hiểu là tình trạng thiếu hụt chức năng hay rối loạn chức năng so với chuẩn sinh lý bình thường làm cho cá nhân bị trở ngại trong học tập, làm việc, giao tiếp, vui chơi giải trí và sinh hoạt [43,tr.8]. 13 Khái niệm Trẻ khuyết tật Theo Luật NKT 2010 : NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Theo Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em: TKT là TE dưới 16 tuổi không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật, bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn [2; tr.252 ]. 1.1.2. Biểu hiện tâm lý và nhu cầu của Trẻ khuyết tật 1.1.2.1.Biểu hiện tâm lý của Trẻ khuyết tật: Do sự thiếu hụt về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của TKT bị suy giảm vì vậy ở TKT sẽ có những đặc điểm chung như sau: Về tính cách Các em thường bi quan, chán nản, mặc cảm, tự ti, tủi phận, cho mình là người bỏ đi, là gánh nặng của gia đình, người thân, ngại giao tiếp với mọi người. Tuy nhiên, đại đa số các em là những người giàu nghị lực để vượt qua khó khăn, tật nguyền đạt thành tích cao trong học tập, lao động nếu được sự hỗ trợ thích hợp của gia đình và xã hội. Về trí tuệ Nhìn chung là trí tuệ có giảm sút tùy thuộc vào từng dạng tật khiếm thị, khiếm thính. . . do đó số lượng cảm giác, tri giác giảm và ảnh hưởng tới độ chính xác. Khái niệm hình thành không trọn vẹn, thiếu chính xác ở trẻ khiếm thị ; trí tuệ kém phát triển, tư duy trừu tượng kém, nghèo nàn do thiếu ngôn ngữ ở trẻ điếc bẩm sinh; trẻ bị thiểu năng trí tuệ . Về đời sống tình cảm Nhìn chung các em rất cởi mở và muốn được giao tiếp. Mặt khác, do mặc cảm tàn tật nên các em hay tự ái, dễ bị kích động, hay nghi ngờ những người xung 14 quanh. Bi quan, hay lo lắng. Đời sống nội tâm của các em rất nhạy cảm, tế nhị, dễ thông cảm với những khó khăn của khác và cũng dễ bị tổn thương hơn so với những trẻ em khác [ 2, tr. 252]. 1.1.2.2. Nhu cầu của Trẻ khuyết tật Để tồn tại, con người cần phải được đáp ứng những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của cuộc sống như ăn, mặc, nhà ở, đi lại, chăm sóc y tế. . để phát triển, con người cũng cần được đáp ứng những nhu cầu cao hơn như nhu cầu học hành, được an toàn, được yêu thương, tôn trọng và khẳng định. . .việc đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của con người cũng chính là động lực phát triển, thúc đẩy con người tham gia vào hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội [8, tr.163]. Theo quan điểm của nhà tâm lý học người Mỹ AbrahamMaslow, con người có 5 loại nhu cầu cơ bản được xắp xếp theo bậc thang từ thấp tới cao. Các nhu cầu có liên quan chặt chẽ với nhau. Trước tiên cần được đáp ứng là những nhu cầu ở mức độ thấp. Sau đó mới đến các nhu cầu ở bậc thang cao hơn. Các nhu cầu không tồn tại độc lập mà luôn nằm trong mối quan hệ gắn kết, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau. Maslow đã xắp xếp các nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc: - Nhu cầu cơ bản: ăn, uống, hít thở, không khí, khi các nhu cầu này được thỏa mãn thì con người có xu hướng tìm kiếm cách đáp ứng nhu cầu bậc cao hơn. - Nhu cầu an toàn: có cảm giác an toàn về thân thể, tình yêu thương, nhà ở, việc làm, sức khỏe, gia đình đây là những nhu cầu giúp con người có cuộc sống an toàn, bình yên, ổn định. - Nhu cầu xã hội: nhu cầu được hòa nhập, giao lưu tình cảm, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè. - Nhu cầu được tôn trọng, kính mến: được chấp nhận có một vị trí trong nhóm người, cộng đồng, xã hội, cần có cảm giác được tôn trọng, kính mến, được tin tưởng. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan