Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn tỉnh hà tĩnh”...

Tài liệu Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn tỉnh hà tĩnh”

.PDF
97
493
147

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ THỊ TÂM TÌNH DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ TĨNH LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÀ NỘI, 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ THỊ TÂM TÌNH DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ TĨNH Chuyên ngành : Công tác xã hội Mã số : 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Võ Khánh Vinh. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./. Học viên Ngô Thị Tâm Tình MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI ..... 7 1.1. Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi....... 7 1.2. Chính sách pháp luật về dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi ..... 11 1.3. Các dịch vụ công tác xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt Nam......... 15 1.4. Nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội khi làm việc với người cao tuổi ... 16 1.5. Những phẩm chất đạo đức và nguyên tắc cơ bản khi nhân viên công tác xã hội tiếp xúc với người cao tuổi .................................................................... 17 Chương 2. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI TỈNH HÀ TĨNH ......................................................................... 21 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .................................................................... 21 2.2. Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại tỉnh Hà Tĩnh ............. 23 2.3. Đặc điểm tâm sinh lý và nhu cầu của người cao tuổi ............................... 28 2.4. Cách tiếp cận và nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội khi làm việc với người cao tuổi ................................................................................................... 33 2.5. Những kết quả đạt được của dịch vụ công tác xã hội tại tỉnh Hà Tĩnh .... 41 2.6. Nguyên nhân của những hạn chế và nhu cầu cung cấp dịch vụ công tác xã hội của người cao tuổi tại tỉnh Hà Tĩnh ........................................................... 45 Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI TỈNH HÀ TĨNH ................... 50 3.1. Định hướng về phát triển mạng lưới dịch vụ xã hội đối với người cao tuổi tại tỉnh Hà Tĩnh ................................................................................................ 50 3.2. Các giải pháp tăng cường dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi ... 55 3.3. Mô hình và quy mô các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng ....... 58 3.4. Các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và thái độ làm việc đối với nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp người cao tuổi tại tỉnh Hà Tĩnh ....................... 62 KẾT LUẬN....................................................................................................... 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 71 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Từ, cụm từ viết tắt AAR Nghĩa của từ, cụm từ viết tắt Nghiên cứu tuổi già và người cao tuổi BHYT Bảo hiểm y tế CTXH Công tác xã hội CLB Câu lạc bộ CSSK Chăm sóc sức khỏe ESCAP Kinh tế của Liên Hiệp Quốc và Ủy ban xã hội Châu Á Thái Bình Dương LĐTBXH Lao động thương binh xã hội NCT Người cao tuổi NV.CTXH Nhân viên công tác xã hội TTBTXH Trung tâm Bảo trợ xã hội TW Trung ương DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1. Tốc độ tăng số lượng người cao tuổi tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 2015 .................................................................................................................. 24 Bảng 1.2: Cơ cấu người cao tuổi tỉnh Hà Tĩnh năm 2015 ............................... 25 Bảng 1.3: Tỷ lệ người cao tuổi phân chia theo độ tuổi .................................... 26 Bảng 1.4. Những bệnh người cao tuổi tỉnh Hà Tĩnh thường mắc trong 12 tháng vừa qua. .................................................................................................. 29 Bảng 1.5. Số bệnh của người cao tuổi tỉnh Hà Tĩnh ........................................ 30 Bảng 1.6. Người cao tuổi tỉnh Hà Tĩnh biết về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ...... 30 Bảng 1.7. Hình thức kiểm tra chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tỉnh Hà Tĩnh .................................................................................................................. 31 Bảng 1.8. Sự quan tâm của các thành viên trong gia đình đối với sức khỏe người cao tuổi ................................................................................................... 36 Bảng 1.9. Sự tham gia các tổ chức xã hội của người cao tuổi tỉnh Hà Tĩnh ... 37 Bảng 1.10. Những đóng góp của người cao tuổi cho gia đình ........................ 38 Bảng 1.11. Những đóng góp của người cao tuổi cho xã hội............................ 39 Bảng 1.12. Các hoạt động vui chơi giải trí người cao tuổi tỉnh Hà Tĩnh......... 39 Bảng 1.13. Tình hình kinh tế của người cao tuổi so với nhu cầu sinh hoạt hàng ngày .................................................................................................................. 40 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam trong quá trình đổi mới toàn diện, hơn hai thập kỷ qua đã tạo ra những thay đổi tích cực về kinh tế - xã hội, mức sống và có nhiều dịch vụ phúc lợi của đại bộ phận dân cư được nâng lên. Tuy vậy đi kèm với những đổi mới trên là tồn tại một khoảng cách lớn giữa những người được hưởng lợi và những đối tượng yếu thế. Vì thế đòi hỏi cần có những dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp để có thể giải quyết các vấn đề một cách khoa học và hiệu quả nhằm thúc đẩy an sinh xã hội. Người cao tuổi nước ta là lớp người “cây cao, bóng cả”, có vai trò quan trọng trong việc kết nối các giá trị truyền thống về đạo đức, lịch sử và văn hoá giữa các thời đại. Là lớp người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ, có công lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Là lớp người đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Nước ta được đánh giá là một nước có số người cao tuổi ngày càng gia tăng nhanh. Điều đó tạo áp lực cho hệ thống hạ tầng cơ sở hiện có, hệ thống dịch vụ sức khỏe, giao thông, đi lại… cho người cao tuổi cũng như quan hệ gia đình, tâm lý, lối sống, chăm sóc người cao tuổi và đảm bảo chất lượng chăm sóc người cao tuổi…chắc chắn sẽ làm cho những vấn đề kinh tế - xã hội, môi trường thêm khó khăn và có nhiều biến động không thể lường trước. Từ đó tạo ra các khó khăn, thách thức đối với nhà nước, xã hội, gia đình và người cao tuổi. Để thích ứng với già hóa dân số, việc chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để đáp ứng nhu cầu của dân số già là một thách thức rất lớn đối với các nhà lập kế hoạch và hoạch định chính sách khi Việt Nam đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các dịch vụ, chính sách của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy an sinh xã hội sẽ làm gì và làm như thế nào trước vấn đề đó? Đây chính là vấn đề cần nghiên cứu cụ thể. Ở Việt Nam dịch vụ công tác xã hội được xem là một lĩnh vực quan trọng 1 trong việc tăng cường an sinh xã hội và hỗ trợ cho sự phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững. Với vai trò của công tác xã hội trong hệ thống an sinh, thiết nghĩ hoạt động công tác xã hội đối với người cao tuổi sẽ mang lại những ý nghĩa thực tiễn góp phần giải quyết những vấn đề đã nêu. Hà Tĩnh hiện có hơn 159.220 người cao tuổi trên tổng 263 xã phường chiếm gần 12,5% dân số của tỉnh. Trong những năm gần đây chính quyền, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã có nhiều cố gắng trong việc quan tâm, chăm lo mọi mặt đời sống vật chất cũng như tinh thần đối với người cao tuổi. Do vậy đời sống của người cao tuổi ở tỉnh đã phần nào được ổn định và cải thiện. Song, với điều kiện kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn nên việc chăm sóc, giúp đỡ mới chỉ có thể đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của họ mà chưa thể đáp ứng những nhu cầu đa dạng khác, cũng như chưa thể giải quyết tốt những vấn đề mang tính chất cá nhân, nhóm đối tượng đặc thù. Do đó cần thực hiện những dịch vụ của công tác xã hội với những phương pháp đặc thù của công tác xã hội nhằm hỗ trợ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người cao tuổi trên mọi phương diện. Bên cạnh đó, công tác xã hội với người cao tuổi là lĩnh vực khoa học khá mới, nghề công tác xã hội đang được chú ý và coi trọng nhằm trợ giúp các nhóm đối tượng yếu thế, gặp khó khăn trong cuộc sống. Vì những lý do trên tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Dịch vụ Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua nghiên cứu của giảng viên Nguyễn Thị Như Hương đã bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ với đề tài:“Công tác xã hội với thương bệnh binh tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình” [33] và Luận văn thạc sỹ “Trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi tại cộng đồng (Nghiên cứu tại xã Trực Tuấn, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định)” của Đồng Thị Minh Phúc [34], luận án tiến sỹ “Một số giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi 2 Việt Nam” của giảng viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân Phạm Vũ Hoàng [35], đã cho thấy việc nghiên cứu đa dạng với các khía cạnh khác nhau về người cao tuổi nhưng chủ yếu dừng lại ở các nghiên cứu mang tính chất của chuyên ngành xã hội học là chủ yếu. Đề tài thuộc lĩnh vực nghiên cứu của công tác xã hội đối với người cao tuổi còn rất ít. Những nghiên cứu trên chỉ mới tiếp cận ở khía cạnh chủ yếu như: tìm hiểu về chăm sóc sức khỏe hoặc phân tích thực trạng cũng như các đặc điểm lao động và sắp xếp công việc trong gia đình của người lao động hay đánh giá hiệu quả chính sách của công tác xã hội. Cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh. Có chăng các nghiên cứu về dịch vụ xã hội mới chỉ đi vào đánh giá nhu cầu hay dịch vụ xã hội một cách chung nhất hoặc cũng đã đề cập tới khía cạnh dịch vụ xã hội nhưng chưa chú trọng tới các dịch vụ trợ giúp xã hội từ góc độ công tác xã hội. Vì vậy để đưa ra căn cứ khoa học phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ về trợ giúp xã hội tôi xin nghiên cứu đề tài: “Dịch vụ Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh” nhằm góp phần phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội đối với người cao tuổi trong thời gian tới tại tỉnh Hà Tĩnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tìm hiểu thực trạng đời sống của người cao tuổi tại tỉnh Hà Tĩnh. Từ đó phân tích các dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại tỉnh Hà Tĩnh hiện nay. Để nhận diện những vấn đề, nhu cầu mà người cao tuổi cần sự trợ giúp từ công tác xã hội. Từ đó đưa ra các dịch vụ hỗ trợ phù hợp và những yêu cầu với nhân viên công tác xã hội hoạt động trong các lĩnh vực này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu đã đặt ra của đề tài thì nghiên cứu cần phải giải quyết những nhiệm vụ sau: 3 - Xây dựng những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật về dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi. - Thu thập và xử lý thông tin để tìm hiểu thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại Hà Tĩnh. - Nghiên cứu phân tích, đánh giá những thực trạng nhằm đưa ra định hướng và giải pháp can thiệp từ góc nhìn công tác xã hội, bảo đảm thực hiện tốt dịch vụ công tác xã hội cho người cao tuổi trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ hỗ trợ của công tác xã hội đối với người cao tuổi tại tỉnh Hà Tĩnh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng người cao tuổi giai đoạn 2010 - 2015 và đề xuất kiến nghị giai đoạn 2016 – 2020 trên địa bàn Hà Tĩnh. - Phạm vi không gian: Khảo sát trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. - Giới hạn nội dung nghiên cứu: Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Các tài liệu, Luật Người cao tuổi, các chính sách, các tài liệu có liên quan đến dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi. Phân tích các thông tin đã thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó tổng hợp và đưa ra các nhận xét, đánh giá. Đồng thời, sử dụng phương pháp này nhằm thu thập, tổng hợp, phân tích tài liệu từ sách, báo, tạp chí và các báo cáo khoa học để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu a) Phương pháp phỏng vấn bảng hỏi 4 Đây là phương pháp chính được tác giả sử dụng trong đề tài nghiên cứu của mình. Phương pháp này tác giả sử dụng trên đối tượng là những NCT và cán bộ hội NCT trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, phòng Lao động - Thương binh xã hội các huyện, thị xã . Đối tượng phỏng vấn 150 người thuộc ba nhóm đối tượng trên. Với phương pháp này ở nội dung phỏng vấn cán bộ Hội NCT, Phòng Lao động – Thương binh - Xã hội các huyện, thị chúng tôi thu thập những thông tin nhằm tìm hiểu những vấn đề: Các dịch vụ xã hội nào đã được triển khai và đáp ứng ở địa phương, cộng đồng người cao tuổi sinh sống? Nhu cầu của người cao tuổi đối với các dịch vụ Công tác xã hội, những khó khăn cũng như những thuận lợi khi tiếp cận với các dịch vụ đó… b) Phương pháp đàm thoại. Đàm thoại với 13 cán bộ Phòng Lao động thương binh xã hội của các huyện, thị và 26 người thuộc Hội NCT, 50 gia đình người trực tiếp chăm sóc NCT, 61 người cao tuổi trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Thông qua các cuộc trò chuyện bằng mẫu bảng hỏi để khai thác thêm thông tin, hỗ trợ các phương pháp khác trong việc xử lý phân tích và đưa ra kết luận khách quan. Nội dung đàm thoại là những hoạt động mà Hội và xã hội đang triển khai trợ giúp cho NCT như thế nào, đánh giá kết quả đạt được, nhu cầu của NCT hiện nay, những dịch vụ CTXH mà NCT đã được tiếp cận. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Đề tài này thuộc nhóm đề tài nghiên cứu ứng dụng lý thuyết, phương pháp công tác xã hội vào việc giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể. Cụ thể là việc sử dụng hệ thống khái niệm, lý thuyết, phương pháp công tác xã hội vào việc đánh giá, phân tích và đưa ra phương pháp hỗ trợ thích hợp. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ những chủ trương, chính sách hỗ trợ, chế độ trợ cấp của Đảng và Nhà nước ta đối với người cao tuổi. 5 Kết quả nghiên cứu cũng góp phần giúp những người quản lý, những nhà lãnh đạo, có thêm cái nhìn toàn diện, sâu sắc tích cực trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, Luật pháp của Đảng và Nhà nước đến với người cao tuổi, gia đình người cao tuổi cũng như cộng đồng mà người cao tuổi đang sinh sống. Giúp cho người cao tuổi nhận ra vấn đề và tiềm năng giải quyết vấn đề của mình. Bên cạnh đó, hiểu rõ các chế độ trợ cấp đối với họ và các dịch vụ trợ giúp của công tác xã hội trong lĩnh vực này. Giúp cho nhân viên công tác xã hội nói riêng và các ngành có liên quan hiểu biết thêm về các chế độ trợ cấp, các dịch vụ hỗ trợ của công tác xã hội đối với người cao tuổi và những yêu cầu cần thiết để trở thành nhân viên xã hội chuyên nghiệp trong lĩnh vực chăm sóc, trợ giúp người cao tuổi. Bản thân sau khi nghiên cứu đề tài sẽ củng cố, mở rộng kiến thức về công tác xã hội nói chung và các dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi nói riêng, từ đó rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực này. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, các phụ lục luận văn còn có 3 chương, gồm: Chương 1: Những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật về dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại Hà Tĩnh Chương 3: Định hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã hội tại tỉnh Hà Tĩnh 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI 1.1. Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi Trên thế giới, công tác xã hội phát triển như một nghề nhằm giải quyết các vấn đề xã hội. Thông qua hỗ trợ và tác động đối với cá nhân, gia đình, nhóm đối tượng, cộng đồng và hệ thống xã hội, CTXH nhằm giải quyết vấn đề xã hội, tăng cường phúc lợi và công bằng xã hội. Công tác xã hội đã ra đời do nhu cầu xã hội trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa; đã có quá trình phát triển hơn 100 năm qua trên thế giới. Công tác xã hội chuyên nghiệp đã tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, đối với Việt Nam nghề công tác xã hội mới chỉ ở bước đầu hình thành, chưa được phát triển theo đúng ý nghĩa của nó trên tất cả các khía cạnh. Công tác xã hội hiện đang là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng và đang giành được nhiều quan tâm của nhiều nhà xã hội học cũng như của các nhà nghiên cứu và các cấp lãnh đạo. Mục tiêu đưa công tác xã hội đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội tại các cấp. Hiện nay, nghề CTXH đã được khẳng định ở Việt Nam về mã số, ngạch bậc, thực hiện ở các cấp, bước đầu đã có cơ sở pháp lý - đó là Quyết định 32/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [26]. Việc tồn tại và phát triển CTXH ở Việt Nam đã trở thành một nhu cầu xã hội. Không phải đến đầu những năm 1990 CTXH mới được biết đến thông qua các khóa tập huấn ngắn hạn, qua các chương trình đào tạo ở một số trường đại học, cao đẳng, hoặc khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành mã số đào tạo cho CTXH là một ngành học ở cấp cao đẳng và đại học 2004, hay đến khi có Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của TTgCP về phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã 7 hội ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020…[26]. Trên thực tế, CTXH với những biểu hiện cụ thể của nó đã được đề cập trong pháp luật Việt Nam từ rất sớm, ngay những năm 40 - 50 của thế kỷ trước thông qua các hoạt động trợ giúp, hỗ trợ người cao tuổi, trẻ em mồ côi, khuyết tật, những người gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do cá nhân, tổ chức như Hội Chữ thập đỏ, phụ nữ, thanh niên …thực hiện. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực này đã có tiền đề và là một thuận lợi để chúng ta hoàn thiện. - Đã có những văn bản có liên quan đến hoạt động CTXH được quy định trong các lĩnh vực cụ thể là cơ sở thuận lợi cho việc bổ sung, điều chỉnh, xây dựng các quy định pháp luật về nghề CTXH trong thời gian tới. Nhiều nội dung liên quan đến CTXH đã được qui định trong pháp luật Việt Nam, có liên quan đến nhiều lĩnh vực của các Bộ, ngành. Pháp luật Việt Nam đã có một số văn bản quy định trực tiếp về CTXH như Luật nuôi con nuôi, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật nuôi con nuôi, Nghị định 67 và Nghị định 13 về chính sách bảo trợ xã hội…[5,6,7]. Bên cạnh đó có nhiều văn bản mặc dù không quy định cụ thể về CTXH nhưng đã có quy định thể hiện khá rõ nét bản chất của CTXH và dịch vụ công tác xã hội [2,3,4]. - Việc tổ chức thực hiện các quy định có liên quan đến công tác xã hội và dịch vụ công tác xã hội về cơ bản đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, lãnh đạo các ban ngành, tổ chức quan tâm chỉ đạo, triển khai và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, đó là cơ sở để từng bước đóng góp vào sự phát triển, hoàn thiện ngành, nghề CTXH ở Việt Nam [9,20,21,22]. 1.1.1.Các khái niệm 1.1.1.1. Dịch vụ Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể (hữu hình) như hàng hóa nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội. 8 Dịch vụ xã hội là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân, nhóm người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội. 1.1.1.2. Công tác xã hội Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự phát triển xã hội, giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ tương tác, tăng năng lực và tạo khả năng giải phóng con người nhằm thúc đẩy an sinh xã hội. Sử dụng các học thuyết về hành vi con người trong môi trường xã hội, công tác xã hội can thiệp vào những điểm khi con người tương tác với các môi trường của mình. Nhân quyền và công bằng xã hội là những nguyên tắc nền tảng của nghề công tác xã hội. Theo từ điển công tác xã hội định nghĩa: “CTXH đó là một ngành khoa học xã hội ứng dụng nhằm giúp con người thực hiện chức năng tâm lý xã hội của mình một cách có hiệu quả và tạo ra những thay đổi trong xã hội để đem lại sự an sinh cao nhất cho con người.” Nó còn là “Một nghệ thuật, một khoa học, một nghề nhằm giúp người dân giải quyết vấn đề từ cấp độ cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng” [22]. Công tác xã hội giúp con người phát triển hài hòa, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho con người. 1.1.1.3. Người cao tuổi Người cao tuổi hay người già là một thuật ngữ dùng để chỉ những người nhìn chung đã có nhiều tuổi. Lâu nay ta vẫn quen dùng khái niệm “người già”. Theo từ điển tiếng Việt, già tức là “ở vào tuổi có những hiện tượng sinh lý suy yếu dần trong giai đoạn cuối của quá trình sống tự nhiên”[9]. Như vậy, về mặt thuật ngữ “người già” hoặc “người cao tuổi” cũng chỉ là hai cách gọi khác nhau mang cùng một nội dung chỉ “người đã nhiều tuổi so với tuổi đời trung bình”. Theo quy đinh hành chính quốc tế, người từ 60 tuổi trở lên gọi là người cao tuổi [9]. Trong đề tài này sử dụng thuật ngữ “người cao tuổi”. Với đặc thù là một nghề trợ giúp xã hội, CTXH nhìn nhận NCT như sau: NCT với những thay đổi về tâm sinh lý, lao động - thu nhập, quan hệ xã hội 9 sẽ gặp nhiều khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do đó, NCT là một đối tượng yếu thế, đối tượng cần sự trợ giúp của CTXH. 1.1.1.4. Dịch vụ công tác xã hội Dịch vụ công tác xã hội cho nhóm yếu thế là các hoạt động có chủ đích của con người nhằm phòng ngừa - hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ bản và thúc đẩy khả năng hòa nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế. 1.1.1.5. Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi Từ những phân tích trên có thế thấy rằng dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi dù ở cộng đồng hay ỏ các cơ sở xã hội đều có những khó khăn khác nhau trong cuộc sống, ngay cả khi họ được nhà nước tạo cơ hội để có những dịch vụ trợ giúp. Khó khăn ở mỗi đối tượng có thể khác nhau ở mức độ và một số khía cạnh cụ thể, song khó khăn nổi trội nhất vẫn là khía cạnh sức khỏe, tài chính, những bất ổn tâm lý và sự hòa nhập xã hội. Điều này cho thấy cần có các dịch vụ khác nhau để cung cấp nhu cầu đa dạng cho nhóm đối tượng người cao tuổi trong xã hội. Việc này đòi hỏi người cung cấp dịch vụ phải xác định được nhu cầu của từng đối tượng và khả năng trợ giúp để đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp và hiệu quả nhất. Do vậy, người cung cấp dịch vụ cần tính tới một kế hoạch trợ giúp tổng thế với sự trợ giúp của các cơ sở dịch vụ khác nhau để đảm bảo vấn đề của họ được giải quyết càng nhiều khía cạnh càng tốt như vậy sự trợ giúp sẽ mang tính bền vững. Một cơ sở thường không có khả năng đáp ứng được hết các nhu cầu của đối tượng, muốn vậy người cung cấp dịch vụ mà ở đây là nhân viên CTXH cần kết nối và chuyển gửi đối tượng tới những cơ sở cung cấp dịch vụ khác. Đối với người cao tuổi việc cung cấp các dịch vụ không chỉ là các dịch vụ cơ bản mà còn có các dịch vụ nâng cao về mặt tinh thần, ổn định đời sống văn hóa cho người cao tuổi. Nếu được trợ giúp một 10 cách chuyên nghiệp, đảm bảo tính liên tục của các dịch vụ xã hội sẽ giúp cho người cao tuổi giải quyết vấn đề một cách xuyên suốt, không bị ngắt đoạn. 1.2. Chính sách pháp luật về dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi 1.2.1. Những chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam Sau khi Hội Người cao tuổi Việt Nam được thành lập (10/5/1995), Ban Bí thư TW đã ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc người cao tuổi”, quy định: “Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Hội Người cao tuổi Việt Nam mới được thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và mở rộng hoạt động ở cơ sở. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các ban đảng, các đoàn thể nhân dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối hợp với Hội trong việc vận động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy người cao tuổi phục vụ công cuộc đổi mới. Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban của Đảng, các ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp phối hợp với Hội nghiên cứu, soát xét các chính sách luật pháp hiện hành, đề xuất những văn bản pháp quy của Nhà nước nhằm bảo vệ, chăm sóc và phát huy người cao tuổi. Nhà nước cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Trước hết cần quan tâm chăm sóc những người cao tuổi có công, cô đơn không nơi nương tựa, tàn tật và bất hạnh, nhanh chóng xoá bỏ tình trạng người già lang thang trên đường phố, ngõ xóm. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ Hội người cao tuổi Việt Nam về kinh phí và điều kiện hoạt động”[5]. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ hưu, những người cao tuổi thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng 11 nhu cầu thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội; nêu gương tốt, giáo dục lý tưởng và truyền thống cách mạng cho thanh niên, thiếu niên…”[16]. Thông báo số: 12 TB/TW ngày 13 tháng 6 năm 2001 đã khẳng định Hội Người cao tuổi Việt Nam là tổ chức xã hội của người cao tuổi, có các nhiệm vụ đã được quy định cụ thể tại Pháp lệnh Người cao tuổi; Hội có Ban đại diện ở cấp tỉnh và cấp huyện; Cấp tỉnh có từ 2 đến 3, cấp huyện có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách đồng thời khẳng định: “Nhà nước tiếp tục trợ cấp kinh phí hoạt động cho Hội. Các cơ quan có chức năng của Nhà nước tạo thuận lợi, bảo đảm cấp kinh phí kịp thời cho Hội”. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng ghi rõ: “Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa…”[24]. Như vậy, từ Chỉ thị 59/CT-TW, các văn kiện Đại hội Đảng và Thông báo số: 12 TB/TW của Ban Bí thư TW Đảng đều khẳng định: Người cao tuổi là nền tảng của gia đình, là tài sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển xã hội. Vì thế, chăm sóc và phát huy tốt vai trò người cao tuổi là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và đạo đức người Việt Nam, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh [5]. 1.2.2. Chính sách và pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi 1.2.2.1. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về người cao tuổi Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trong đó người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên được hưởng cấp bảo hiểm y tế miễn phí, trợ cấp hàng tháng 270.000 đồng/tháng, được hỗ trợ mai tang phí khi từ trần…[10]. 12 Thông tư liên tịch số 29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 24 tháng 10 năm 2014 về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội [1]. Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, thực hiện theo Quyết định số 06/2015/QĐUBND ngày 13 tháng 2 năm 2015 về việc quy định mức trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh. Điều chỉnh mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội quy định tại khoản 1,2 điều 25 Nghị định số 136/2013 áp dụng theo mức lương cơ sở hiện hành: hệ số 1,0 (khi có sự điều chỉnh mức lương cơ sở thì được điều chỉnh theo) [29]. Như vậy, ngoài nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, chăm sóc của gia đình, người thân, Nhà nước có những cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp và bổ sung, tăng dần theo xu thế đà tăng trưởng của nền kinh tế để bảo đảm chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi [12]. 1.2.2.2. Pháp luật liên quan đến người cao tuổi Quan điểm trên của Đảng và Bác Hồ được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946, Điều 14 quy định: “Những công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ”. Điều 32 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Giúp đỡ người già, người đau yếu và tàn tật. Mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức khoẻ và cứu trợ xã hội…”. Điều 64 của Hiến pháp 1992 quy định: “…Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái. Con cái có trách nhiệm kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ… ”. Và Điều 87 Hiến pháp ghi rõ: “Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”… [13] Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 2 Điều 104 quy định:“Cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại; trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại không có con để nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng”…[14]. 13 Luật Bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã dành một chương riêng: Bảo vệ sức khoẻ người cao tuổi… trong đó, khoản 1 Điều 41 của Luật này quy định: “Người cao tuổi… được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khoẻ của mình”[5]. Luật Lao động sửa đổi năm 2012 quy định tại Mục 2 Điều 166: “Người lao động cao tuổi được rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian” Và tại Mục 2 Điều 167: “Không được sử dụng người lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người lao động cao tuổi, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ” và trong điều này có ghi “Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ của người lao động cao tuổi tại nơi làm việc”. Điều 151 của Bộ luật Hình sự quy định: “Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” và Điều 152 quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. Bên cạnh đó, luật cũng quy định một số tình tiết giảm nhẹ khi “người phạm tội là người già”. Từ ngày 1/7/2010, Luật Người cao tuổi có hiệu lực, Luật Người cao tuổi thể hiện rất rõ nét tính ưu việt cũng như truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của xã hội ta. Ngoài việc được Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể chúc thọ, mừng thọ theo quy định, người cao tuổi sẽ được chăm sóc sức khỏe thông qua việc định kỳ khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế, đặc biệt ưu tiên cho người đủ 80 tuổi trở lên. Các bệnh viện sẽ thành lập các khoa lão khoa hoặc dành một số giường để điều trị người bệnh cao tuổi. Người cao tuổi được chăm sóc đầy đủ hơn về đời sống tinh thần trong hoạt động văn hoá, giáo dục, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch, hưởng phúc lợi từ các công trình công cộng 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan