Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Di sản hồ chí minh 12 chữ vàng...

Tài liệu Di sản hồ chí minh 12 chữ vàng

.DOCX
5
284
124

Mô tả:

Di sản Hồ Chí Minh: 12 chữ vàng "Độc lập" là quyền của cả một nước, cả một dân tộc; còn "tự do" là quyền của mỗi người dân trong dân tộc đó. Mất quốc hiệu Việt Nam Trong 5 lần nước ta mất quốc hiệu, lần gần đây nhất là khi thực dân Pháp đặt nền đô hộ lên xứ Đông Dương. Nước ta bị xé thành 3 mảnh (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ), bị đặt dưới các chế độ khác nhau, ghép với 2 xứ Cao Miên và Ai Lao để thành “Đông Dương thuộc Pháp” (Indochine française). Chân lý đơn giản là đã mất nước, thì mất cả tên nước, dù là thời nay hay thời xưa. Thời thuộc Pháp, thế giới không biết nước nào có tên gọi là Việt Nam, nói gì biết tới nó nằm ở đâu. Ngay một tính từ liên quan tới Việt Nam cũng bị thực dân gọi là annamite khiến trong mọi văn bản chính thức không có từ nào gợi nhớ tới Việt Nam nữa. Dẫu vậy, người Việt yêu nước vẫn tự coi mình là dân của nước Việt Nam. Đa số các tổ chức và đảng phái bài Pháp vẫn đưa Việt Nam vào danh xưng của mình. Một số đưa An Nam, Tân Việt, Đại Việt vào danh xưng. Một điều thú vị là mặc dù một số tổ chức Cộng sản sơ khai ở nước ta (vì tự xác định phạm vi hoạt động của mình là toàn xứ Đông Dương) nên trong danh xưng chưa có “Việt Nam”, nhưng khi được Nguyễn Ái Quốc hợp nhất lại, ông vẫn đề nghị tên gọi là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tên gọi này tồn tại 8 tháng (2-1930 đến 10-1930 mới được Quốc tế CS III đổi thành Đảng Cộng Sản Đông Dương. Với viễn kiến của Hồ Chí Minh, tên nước ta – ngoài cộng hoà, còn có thêm dân chủ. Tuyên ngôn với thế giới lấy lại tên Việt Nam, và còn hơn thế Chỉ 2 tuần sau khi lấy được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã có bản Tuyên ngôn Độc lập với thế giới, mà tác giả chính là Hồ Chí Minh. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là cách viết câu Hán-Việt của thời trước, trong đó tính từ đứng trước danh từ. Nay, nếu viết theo ngữ pháp Việt thì phải là nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam. Tới giữa thế kỷ 20, xu thế chung là những chế độ phong kiến cuối cùng chuyển sang chế độ dân chủ, các vương quốc chuyển sang nước cộng hoà. Đương nhiên, Việt Nam hoà nhập vào xu thế này. Nhưng với viễn kiến của Hồ Chí Minh, tên nước ta – ngoài cộng hoà, còn có thêm dân chủ. Té ra, một nước đã là cộng hoà, vẫn có thể bị đặt dưới chế độ phát xít, độc tài, quân phiệt, hay toàn trị. Giới cầm quyền các nước này vẫn có thể tước đoạt hoặc hạn chế quyền dân chủ và tự do của người dân. Đức, Ý, Nhật, Tây Ban Nha và một số trường hợp khác... là những ví dụ nhãn tiền thời đó. Không phải sau ngày 2-9-1945 dân ta mới được nghe từ “độc lập”. Chính phủ Trần Trọng Kim trong 4 tháng tồn tại cũng đã hứa hẹn xây dựng một nước Việt Nam độc lập. Họ đã làm được một số việc mang tính yêu nước. Tên nước đã được gọi chính thức là Việt Nam, đã có quốc kỳ, quốc ca... tuy chưa công bố với thế giới. Chính hai từ thiêng liêng “Việt Nam độc lập” thời đó đã làm bừng tỉnh và nô nức lòng người, nhất là thanh niên và trí thức. Nhiều vị trí thức nổi tiếng, yêu nước và trong sạch đã tham gia chính phủ này. Nhưng chính phủ này không thể nói đến dân chủ, vì Việt Nam vẫn là nước có vua, cho dù vua Bảo Đại chấp nhận lập hiến và tuyên bố “dân vi quý”. Có độc lập, có cộng hoà dân chủ, phải có cả tự do “Nước độc lập mà dân chưa tự do thì độc lập cũng không có ý nghĩa” - Hồ Chí Minh. Chân lý trên đơn giản và dễ hiểu. Có thể suy ra trong hoàn cảnh nào mà Hồ Chí Minh phải nhắc lại cái điều “đơn giản, dễ hiểu” này. Câu nói trên còn cho thấy một điều minh bạch không kém: "Độc lập" là quyền của cả một nước, cả một dân tộc; còn "tự do" là quyền của mỗi người dân, của từng cá nhân trong dân tộc đó. Khác nhau lắm! Đấu tranh cho độc lập thể hiện tính yêu nước của một đoàn thể; đấu tranh cho tự do thể hiện tính yêu dân của đoàn thể đó. Khác nhau lắm! Dưới thời thuộc Pháp có rất nhiều tổ chức yêu nước; nhưng có yêu dân hay không, thì phải đợi sau khi giành lại được nước. Trong hoàn cảnh mất nước thì đấu tranh cho độc lập phải thực hiện trước và là điều kiện để đấu tranh tiếp cho tự do, chứ không phải hễ có độc lập và cộng hoà thì đương nhiên có tự do. Một đằng là chống ngoại bang đô hộ nước mình; một đằng là chống cường quyền trong nội bộ dân tộc mình. Khác nhau lắm! Khi ra Tuyên ngôn độc lập, có nghĩa là nước ta đã tự xem là có độc lập. Tiếp theo, chỉ là xây dựng và bảo vệ nền độc lập đó. Khi một nước đã độc lập rồi, thì nổi lên hàng đầu là quyền tự do của mỗi người dân. Không phải ngẫu nhiên hay tuỳ tiện mà trong lời tuyên bố kết thúc bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đặt “tự do” trước “độc lập”. Giữa hai từ, chủ tịch đặt chữ “và” hoặc dấu phẩy. ...chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. (trích Tuyên Ngôn Độc Lập). Trích dẫn Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, vừa mới “Hỡi đồng bào cả nước” là tác giả nêu ngay một câu trích trong Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ. Nhưng phải nghe cho hết, cho “thủng”, câu đó, đồng bào mới biết xuất xứ của nó. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Nhận định dễ dãi nhất mà mọi học sinh đều phải nhớ, là vị chủ tịch dùng ngay những lời tốt đẹp trong Tuyên ngôn Độc lập của “kẻ thù” để vạch bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của “chúng”. Tuy nhiên, xin hãy biểu lộ sự tôn trọng hơn nữa với một con người tầm cỡ như Hồ Chí Minh. Với tầm uyên bác của mình, Hồ Chí Minh không thiếu danh ngôn Đông, Tây, kim, cổ để trích dẫn. Nhưng khi soạn thảo một văn bản lập quốc - mang tính trường tồn - hẳn là vị Chủ tịch đã cân nhắc đầy đủ khi chọn một câu trích mà ông đánh giá là bất hủ. Nó bất hủ vì bao quát được những ước vọng lớn nhất, bao trùm nhất và từ nay là nóng bỏng nhất của con người - kể từ khi con người vừa xuất hiện trên trái đất, cho đến muôn đời sau. Nó phân biệt một con người với một con vật. Quyền sống, quyền tự do và quyền tư hữu của con người đã được triết gia John Lock nêu từ thế kỷ 16, trong đó quyền tư hữu được Jefferson nâng lên thành quyền mưu cầu hạnh phúc khi ông soạn Tuyên Ngôn Độc lập Hoa Kỳ. Hạnh phúc phải do mưu cầu mà có, chứ không thể ăn sẵn; một chế độ tốt đẹp phải tạo cơ hội để mỗi người có thể mưu cầu hạnh phúc cho mình. Muốn mưu cầu hạnh phúc, con người phải có tư hữu: tư hữu thể chất, tư hữu kỹ năng lao động chân tay và trí óc, tư hữu phương tiện sản xuất (nông dân tư hữu đất đai, nhà tư bản tư hữu vốn, trí thức tư hữu năng lực tư duy...); và cuối cùng là tư hữu của cải kiếm được. Một con người không tư hữu gì, chỉ còn cách trông vào sự cưu mang của đồng loại. Bản Hiến pháp Hoa Kỳ bắt nguồn từ Tuyên ngôn độc lập trở thành bản đầu tiên của thế giới, chưa bao giờ bị thay thế - mà chỉ sửa đổi, bổ sung, tu chính. Do vậy có tuổi thọ cao nhất. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Chủ thuyết của nhà cách mạng Tôn Trung Sơn được gói ghém trong 3 mục tiêu đấu tranh: Dân tộc - (phải) độc lập; Dân quyền - tự do; Dân sinh - hạnh phúc. Các mục tiêu cao cả và bao quát này thích hợp với những nước còn nô lệ ngoại bang hoặc đang bị ngoại bang đe doạ. Do vậy, nó cũng thích hợp với nước ta giai đoạn từ sau 1945. Độc lập là mục tiêu và cũng là điều kiện để thực hiện tự do, mà không bao giờ tự nó đem lại tự do. Điều này dễ hiểu. Trong tiến trình lịch sử, phương Đông với nền văn minh chói lọi từ 4000 hay 5000 năm trước đã bị phương Tây vượt qua. Khi giai cấp tư sản đủ lớn mạnh để tiến hành cách mạng ở Pháp (1789) thì ở phương Đông chỉ có cuộc chiến giữa các quốc gia phong kiến. Mười ba năm sau, đất nước ta thống nhất, vua Gia Long lên ngôi đã chọn những bậc túc nho làm thầy dạy đạo Khổng cho hoàng tử Đảm, dù vị vua này đã tiếp xúc rất nhiều với văn minh phương Tây. Khái niệm tự do, dân chủ không thể ra đời dưới chế độ phong kiến, mà do phương Tây truyền sang, được Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh tiếp thu. Suốt cuộc đời mình, hai vị chưa bao giờ phân biệt tự do “kiểu phương Tây” với tự do “kiểu phương Đông”.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan