1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và ý nghĩa của đề tài
Trải qua hơn 20 năm đổi mới, ngành ngân hàng Việt Nam đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ của mình, luôn giữ vai trò quan trọng là huyết mạch của nền kinh tế,
là hơi thở trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, là nhân tố không thể thiếu để tập
trung nguồn lực vốn cho phát triển đất nước. Những thành tựu kinh tế xã hội rực rỡ mà
Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới, vai trò, vị thế của Việt Nam ngày càng
được khẳng định trên trường quốc tế là có sự đóng góp rất lớn của ngành ngân hàng.
Cũng vì lẽ đó mà hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm, nếu không tạo điều kiện đảm bảo
an toàn thì dễ gây tổn thương nặng nề cho nền kinh tế.
Việc mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính là xu thế tất yếu trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhậpWTO đã mang lại rất nhiều cơ
hội cũng như thách thức cho hệ thống NHTM Việt Nam. Các NHTM Việt Nam phải
đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn từ các ngân hàng nước ngoài đến từ các khu vực tài
chính phát triển như Mỹ, Châu Âu, Singapore, Nhật Bản, ... và chịu tác động của
những biến động trên thị trường tài chính quốc tế nhiều hơn. Cuộc khủng hoảng tài
chính và suy giảm kinh tế toàn cầu kéo dài từ năm 2008 và đến nay vẫn còn để lại hậu
qua nặng nề ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Mỹ mà nguyên nhân chính là sự yếu kém
của hệ thống NHTM. Điều đó buộc các quốc gia phải quan tâm, đánh giá lại toàn bộ
hoạt động của các NHTM. Việc tái cấu trúc hệ thống NHTM đã trở nên phổ biến và
cấp thiết ở mỗi quốc gia để đảm bảo cho các NHTM thích nghi được với nhu cầu phát
triển mới trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đầu biến động. Ở Việt Nam, khi mà thị
trường chứng khoán chưa phát triển, gánh nặng về vốn còn dồn lên vai các NHTM thì
việc giữ cho hệ thống NHTM ổn định và lành mạnh càng cần phải đặc biệt quan tâm.
Đến nay, có thể nói nền kinh tế cũng như hệ thống NHTM Việt Nam đã cơ
bản vượt qua cơn khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, những hệ lụy của nó đã bộc lộ
nhiều vấn đề bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng đó là: thanh khoản khó khăn, nợ xấu có
dấu hiệu tăng cao, năng lực quản trị điều hành hạn chế, sản phẩm dịch vụ nghèo nàn,
lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, rủi ro cao ảnh hưởng đến an toàn hệ thống, ...
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
2
Bên cạnh đó, vấn đề sở hữu chéo; hệ thống mạng lưới các NHTM phát triển với tốc độ
quá nhanh, số lượng nhiều, chất lượng hoạt động chưa cao, không ít NHTM hoạt động
vì lợi ích cục bộ, chạy đua lãi suất gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và thị
trường tiền tệ. Do đó, nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời sẽ có nguy cơ xảy ra
rủi ro gây mất an toàn hệ thống.
Xuất phát từ nhận thực về tầm quan trọng của tái cấu trúc hệ thống NHTM
và với mong muốn đề ra các giải pháp hữu ích nhằm đóng góp cho quá trình tái cấu
trúc hệ thống NHTM Việt Nam thành công, tác giả chọn đề tài: “Tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam” làm đề tài luận án nghiên cứu sinh kinh tế
tài chính, ngân hàng của mình.
2. Tổng quan về công trình nghiên cứu
Liên quan đến nội dung “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam” đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
- Tác giả Nguyễn Hồng Sơn, bài viết “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng:
kinh nghiệm quốc tế và một số hàm ý về tư duy cho Việt Nam” tại Hội thảo quốc tế
“Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng” ngày 21 tháng 11 năm 2011, trình bày các vấn đề
sau: (i) Lý do tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là hệ thống ngân hàng rơi vào khủng
hoảng hoặc một ngân hàng lớn bị rơi vào khủng hoảng; (ii) vì sao cần thực hiện tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng; (iii) những nguyên tắc cần đảm bảo trong quá trình tái cấu
trúc; (iv) NHTW độc lập và tăng cường năng lực. Như vậy bài viết trên chỉ trình bày
được lý do tái cấu trúc ngân hàng chủ yếu là do khủng hoảng kinh tế, mà chưa coi tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng là công việc cần thực hiện thường xuyên, liên tục để duy
trì sự ổn định và phát triển. Bài viết cũng chưa đánh giá được thực trạng tái cơ cấu hệ
thống NHTM và cũng chưa đề cập đến giải pháp tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt
Nam.
-
Tác giả Sameer Goyal, bài viết “Tái cấu trúc hệthống ngân hàng có vấn
đề, các bài học từkinh nghiệm toàn cầu “tại Hội thảo quốc tế”, “Tái cấu trúc hệthống
ngân hàng” ngày 21 tháng 11 năm 2011, đềcập đến: (i) Động cơtái cấu trúc; (ii) Mục
tiêu tái cấu trúc (duy trì sự ổn định của hệthống ngân hàng, ngăn ngừa sựlây lan, khôi
phục niềm tin vào hệ thống ngân hàng); (ii) Những thách thức đối với ngành ngân
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
3
hàng Việt Nam, dẫn chứng những bất ổn của hệthống ngân hàng Việt Nam và (iii) Gợi
ý giải pháp tái cấu trúc. Bài viết trên nhấn mạnh những dấu hiệu cho thấy bất ổn của
ngành ngân hàng Việt Nam và chỉdẫn những kinh nghiệm tái cấu trúc ngân hàng. Tuy
nhiên bài viết cũng chỉ nêu được những vấn đề tổng quát và các giải pháp chỉ dừng lại
ở kinh nghiệm.
Nhìn chung, trong tất cả các nghiên cứu mà tác giả có điều kiện tham khảo
về các nội dung liên quan đến tái cấu trúc NHTM Việt Nam, cho tới thời điểm hiện nay
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về tái cấu trúc hệ thống NHTM
Việt Nam trong bối cảnh từ 2008 đến 2012 và đề xuất các giải pháp đến 2020. Vì vậy,
trong luận án, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận về NHTM và tái cấu trúc hệ thống
NHTM; ý nghĩa của việc tái cấu trúc hệ thống NHTM, nội dung tái cấu trúc hệ thống
NHTM; các biện pháp tái cấu trúc hệ thống NHTM và kinh nghiệm quốc tế về tái cấu
trúc hệ thống NHTM.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tái cấu trúc hệ thống NHTM
- Phân tích thực trạng hoạt động và thực trạng tái cấu trúc hệ thống NHTM
Việt Nam nhằm chỉ ra những hạn chế trong cấu trúc của hệ thống NHTM Việt Nam
trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến 2012. Đồng thời xác định nguyên nhân của
những hạn chế trong cấu trúc của hệ thống NHTM Việt Nam.
- Đề xuất hệ thống giải pháp, kiến nghị góp phần thúc đẩy tiến trình tái cấu
trúc hệ thống NHTM Việt Nam đến 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Tái cấu trúc hệ thống NHTM
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam
là một phạm trù rộng nên luận án tập trung vào nghiên cứu những vấn đề: tái cấu trúc
tài chính, tái cấu trúc hoạt động kinh doanh, tái cấu trúc hệ thống quản trịvà tái cấu trúc
sở hữu.
-
Phạm vi nghiên cứu về không gian: được giới hạn tại mười hai NHTM
đại diện cho các nhóm NHTM được phân chia theo hình thức sởhữu (NHTM Nhà nước
và NHTM cổphần, trong đó NHTM Nhà nước bao gồm NHTM do Nhà nước sở hữu
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
4
100% vốn điều lệvà NHTM cổphần do Nhà nước sởhữu trên 50% vốn điều lệ) và vốn
điều lệ tính đến ngày 31/12/2012, bao gồm: BIDV, VCB, Vietinbank, Eximbank,
Techcombank, MB, ACB, Sacombank, Maritimebank, Saigonbank, Bao Viet bank,
Ocean bank.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp thống kê, mô tả, phân tích định tính, so sánh,
quy nạp, tổng hợp, logic, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn cùng tham khảo các tài liệu
để thực hiện nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng
biểu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục nội dung của luận án gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam.
Chương 3: Giải pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁI CẤU TRÚC
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tính cấp thiết và ý nghĩa của đề tài
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương mại đã có tác động rất lớn
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
5
và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng
hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM
cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được.
Theo quy định tại điều 4, Luật các Tổchức tín dụng của nước Cộng hoà xã
hội chủnghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá 12 thông qua,“Ngân hàng thương mại là
loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộhoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Trong đó, hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên
các nghiệp vụsau đây: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụthanh toán qua tài
khoản.
Từnhững cách định nghĩa khác nhau trên vềNHTM, có thểrút ra:
- Ngân hàng thương mại là một tổchức trung gian tài chính làm cầu nối giữa
khu vực tiết kiệm với khu vực đầu tưcủa nền kinh tếvới nghiệp vụcơbản là nhận tiền
gửi, cho vay.
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp cung cấp danh mục
các dịch vụtài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụthanh toán.
Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụtài chính khác nhằm thoảmãn tối đa nhu
cầu vềsản phẩm dịch vụtài chính của xã hội.
1.1.2. Khái niệm ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai
trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này,
ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho
vay. Lợi nhuận của ngân hàng là khoản chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt
động cho vay và chi phí huy động vốn, từ đó góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên
tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
Là trung gian tín dụng nên hoạt động của hệ thống NHTM có ảnh hưởng lan
tỏa đối với nền kinh tế, xã hội. Một khi cấu trúc của hệ thống ngân hàng có bất ổn sẽ
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
6
làm suy yếu hệ thống ngân hàng, nguy cơ mất an toàn của hệ thống ngân hàng sẽ có
ảnh hưởng lan truyền, đe dọa sự ổn định của nền kinh tế.
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Với chức năng này, NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và
cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản
tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi
như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, … Tùy
theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ
đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ,
gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào
đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất
nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung
đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn,
từ đó góp phần phát triển kinh tế.
1.1.2.3. Chức năng cung ứng các dịch vụ tài chính
Ngoài chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán NHTM còn cung
ứng các dịch vụ tài chính đa dạng cho nền kinh tế xã hội, như: tư vấn tài chính, quản lý
tài chính cá nhân, kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh, ...
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo
lập và cung cấp các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho các tổ chức kinh tế và dân cư. Thành
công trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc vào các yếu tố như: năng
lực quản trị điều hành, nền tảng công nghệ, đội ngũ nhân sự, chất lượng và tính đa
dạng của sản phẩm dịch vụ cung cấp, ….
1.1.3.1. Hoạt động tạo lập nguồn vốn
Hoạt động huy động vốn là hoạt động mang tính chất tiền đề nhằm tạo lập
nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Do đó, để đảm bảo nguồn vốn trong hoạt động 20
kinh doanh của mình, các NHTM có thể thực hiện hoạt động huy động vốn từ những
nguồn sau:
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
7
-
Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn ban đầu và được bổ sung trong quá trình
hoạt động của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của mỗi ngân hàng được hình thành do tính
chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ, các quỹ
trữ hình thành trong quá trình kinh doanh và các tài sản nợ khác của chủ sở hữu theo
quy định của Nhà nước.
Các NHTM sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu để tài trợ cho việc xây dựng hội
sở, văn phòng, mua sắm tài sản cố định, các phương tiện làm việc và quản lý theo một
tỷ lệ nhất định do Nhà nước quy định. Ngoài ra, các NHTM còn có thể sử dụng nguồn
vốn chủ sở hữu của mình để góp vốn liên doanh, cấp vốn cho các công ty con và các
hoạt động kinh doanh khác.
- Tiền gửi của khách hàng: Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền gửi của tổ
chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền
gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa
thuận. Trên thực tế, các ngân hàng có thể đưa ra nhiều hình thức gửi tiền nhưng có thể
xếp thành các loại tiền gửi chính: Tiền gửi tiết kiệm, Tiền gửi thanh toán, Tiền gửi có
kỳ hạn.
-
Phát hành giấy tờ có giá: là chứng nhận của ngân hàng phát hành để huy
động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả một khoản tiền trong một thời hạn nhất định,
điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa ngân hàng với người mua. Ngân
hàng được phát hành các giấy tờ có giá như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài. Nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của
khách hàng cũng như sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các NH, các NHTM phát
hành các loại giấy tờ có giá với nhiều loại kỳ hạn, lãi suất khác nhau và có thể ghi danh
hoặc không ghi danh.
- Vay tổ chức tín dụng khác và ngân hàng Trung ương: Ngoài các hình
thức huy động vốn nói trên, khi cần thiết (nhu cầu vay vốn của khách hàng gia tăng
mạnh hoặc ngân quỹ bị thiếu hụt do nhiều dòng tiền rút ra) các NHTM huy động bằng
cách đi vay của các tổ chức tín dụng khác hay vay vốn của ngân hàng Trung ương.
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
8
Hoạt động tạo lập nguồn vốn đi kèm với phát sinh chi phí sử dụng vốn, vì
vậy để hoạt động tạo lập nguồn vốn phát huy kết quả, NHTM cần chú trọng đến sử
dụng nguồn vốn huy động.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn là cơ sở tạo ra thu nhập của NHTM, đảm bảo cho
hoạt động tạo lập nguồn vốn phát huy tác dụng. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM
bao gồm:
-
Hoạt động tín dụng: Một cách khái quát, hoạt động tín dụng của ngân
hàng có thể hiểu là hoạt động kinh doanh thông qua sự chuyển giao có thời hạn một
lượng giá trị từ phía ngân hàng cho người đi vay, với sự cam kết hoàn trả cả gốc và lãi
từ phía người đi vay khi đáo hạn.
Hoạt động tín dụng thực hiện quá trình cung ứng vốn cho nền kinh tế nhằm
đáp ứng nhu cầu sản xuất, đầu tư và tiêu dùng cho các chủ thể trong nền kinh tế. Hoạt
động cấp tín dụng của NHTM cho các tổ chức được thể hiện dưới các hình thức: Cho
vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định.
Tại nhiều quốc gia, hoạt động tín dụng được coi là hoạt động quan trọng
nhất đối với các NHTM. Bởi phần lớn lợi nhuận của các NHTM có được chủ yếu là
thu từ hoạt động này.
Để thiết lập quy trình tín dụng thích hợp và nâng cao hiệu quả hoạt động,
hoạt động tín dụng được phân chia theo những tiêu chí khác nhau như mục đích, thời
hạn, mức độ tín nhiệm, phương pháp hoàn trả, phương thức cấp tín dụng.
Đặc thù của NHTM là kinh doanh tiền tệ. Nếu gặp rủi ro từ hoạt động tín
dụng thì không chỉ ngân hàng và người gửi tiền, đầu tư ảnh hưởng mà sẽ kéo theo
nhiều hậu quả cho nền kinh tế. Bởi vậy đặt ra yêu cầu các NHTM phải đặc biệt chú ý
dành nhiều nguồn lực để quản trị các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động này.
- Hoạt động ngân quỹ: là hoạt động duy trì khả năng thanh toán thường
xuyên cho khách hàng và ngân hàng bằng việc duy trì một mức dự trữ thanh toán bắt
buộc có thể do NHTW quy định hoặc do NHTM tính toán cũng như việc đảm bảo cơ
cấu của các loại tiềnđể thanh toán cho khách hàng. Các khoản dự trữ này có thể là tiền
mặt tại quỹ, tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác, hoặc giấy tờ có giá có thể chuyển
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
9
thành tiền trong thời gian ngắn như tín phiếu kho bạc hoặc các chứng khoán ngắn hạn
có tính thanh khoản cao.
Hoạt động này mang lại lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng: khách hàng
không phải tốn nhiều thời gian và công sức trong thanh toán công nợ, được ngân hàng
đảm bảo tính an toàn và hưởng lãi; ngân hàng được hưởng lợi ích từ việc khách hàng
duy trì số dư trên tài khoản.
- Hoạt động đầu tư: là hoạt động cho phép NHTM tự đầu tư vốn ra bên
ngoài với mục đích gia tăng lợi nhuận hay chia sẻ lợi ích và trách nhiệm với doanh
nghiệp khác.
Với hoạt động này, NHTM thực hiện đầu tư trên thị trường chứng khoán
thông qua việc mua các chứng khoán do chính phủ, công ty phát hành hoặc trực tiếp
góp vốn vào doanh nghiệp để có thể tạo sự đa dạng trong sử dụng cũng như giảm rủi
ro, tăng thu nhập và hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết. Hoạt động đầu tư trên thị trường
chứng khoán của các ngân hàng có thể tự thực hiện hoặc thông qua các công ty con để
tìm kiếm lợi nhuận từ việc mua – bán chứng khoán nhằm hưởng chênh lệch giá hoặc
hưởng thu nhập từ lãi nếu nắm giữ chứng khoán đến ngày đáo hạn. Trong quá trình
phân bổ vốn, ưu tiên của hoạt động đầu tư thấp hơn so với mục tiêu đảm bảo dự trữ bắt
buộc, dự phòng thanh khoản và cho vay.
1.1.3.3. Các hoạt động khác
Đây là nhóm hoạt động ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đa
dạng hoá hoạt động ngân hàng, giảm rủi ro của ngân hàng cũng như mang lại những
khoản thu nhập với tỷ trọng ngày càng lớn. Mục đích của các hoạt động này là nhằm
tăng thêm nguồn thu nhập cho tổ chức tín dụng và thoả mãn những yêu cầu của nền
kinh tế. Các hoạt động dịch vụ khác bao gồm:
- Dịch vụ bảo lãnh (thu phí): Là hình thức tổ chức tín dụng cam kết với
bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụđã
cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận.
Bên được bảo lãnh có thể là chính doanh nghiệp hoặc các tổ chức/cá nhân khác mà
doanh nghiệp muốn ngân hàng bảo lãnh.
- Dịch vụ ủy thác
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
10
Theo “Từ điển kinh tế học hiện đại” của D.W Pearce, nghiệp vụ ủy thác là
việc tài sản của một người được giao cho người khác quản lý và thực hiện các yêu cầu
của người sở hữu. Người giao tài sản không có quyền nắm giữ, quản lý tài sản. Người
nhận có trách nhiệm quản lý tài sản, không được hưởng lợi nhuận sinh ra từ tài sản mà
chỉ được hưởng một khoản tiền mà người ủy thác trả gọi là phí uỷ thác.
Các dịch vụ ủy thác của khách hàng cá nhân bao gồm: thanh lý tài sản, điều
hành ủy thác cá nhân, ủy thác giám hộ và bảo quản tài sản, ủy thác đại diện, ...
Các dịch vụ ủy thác của khách hàng doanh nghiệp bao gồm: trợ cấp hưu trí,
phân chia lợi nhuận và chia tiền thưởng cổ phần, phát hành trái phiếu, mua lại các quỹ,
thanh toán, ...
Các nội dung của dịch vụ ủy thác bao gồm ủy thác vốn, ủy thác đầu tư, ủy
thác thực hiện công việc.
- Dịch vụ tư vấn: Ngân hàng cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng
như tư vấn về ngân hàng gửi, thời hạn và số lượng tiền gửi hiệu quả; thẩm định và tái
thẩm định các dự án đầu tư, các phương án tài chính, các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật của
dự án, các rủi ro của dự án và các phương án tài chính của dự án; tư vấn đầu tư tài
chính vào các dự án hoặc các doanh nghiệp; tư vấn cổ phần hóa; tư vấn niêm yết, tư
vấn đăng ký giao dịch chứng khoán; tư vấn thuế, …
- Dịch vụ ngân hàng giám sát: Ngân hàng cung cấp dịch vụ lưu ký và giám
sát việc quản lý quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán. Các dịch vụ ngân hàng
giám sát bao gồm lưu ký tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán; quản
lý tách biệt tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán và các tài sản khác
của ngân hàng giám sát; giám sát nhằm đảm bảo công ty quản lý quỹ, giám đốc hoặc
tổng giám đốc công ty đầu tư chứng khoán quản lý tài sản của công ty tuân thủ các quy
định của Luật Chứng khoán và điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán, điều lệ công ty đầu tư
chứng khoán; thực hiện hoạt động thanh toán và chuyển giao tiền, chứng khoán liên
quan đến hoạt động quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán theo yêu cầu hợp pháp
của công ty quản lý quỹ hoặc giám đốc/tổng giám đốc công ty đầu tư chứng khoán.
- Dịch vụ môi giới tiền tệ: là việc làm trung gian có thu phí môi giới để thu
xếp thực hiện các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác giữa các tổ
chức tín dụng, tổ chức tài chính khác.
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
11
- Dịch vụ kinh doanh ngoại hối: bao gồm các dịch vụ liên quan đến việc
mua, bán ngoại tệ bao gồm kinh doanh ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng và kinh
doanh ngoại tệ với khách hàng là các doanh nghiệp, các tổ chức hoặc cá nhân.
Các ngân hàng thường giao dịch mua bán ngoại tệ với các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Các doanh nghiệp nhập khẩu mua ngoại tệ để thanh toán cho người bán… cá
nhân mua ngoại tệ để đáp ứng các nhu cầu hợp lý như đi công tác nước ngoài, đi du
lịch, chữa bệnh, du học…
Cung cấp dịch vụ ngoại hối giúp các ngân hàng hưởng thu nhập từ khoản
chênh lệch tỷ giá từ hoạt động mua bán.
- Các dịch vụ khác: Dịch vụ tư vấn du học, dịch vụ Bankdraft đa ngoại tệ,
dịch vụ chi trả kiều hối, dịch vụ cho thuê và quản lý kho, định giá tài sản, dịch vụ môi
giới trung gian và đại lý, dịch vụ bảo hiểm, …
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ
ngân hàng
Cùng với những cơ hội từ việc toàn cầu hóa và mở cửa thị trường ngân hàng,
tài chính, việc gia tăng áp lực cạnh tranh từ các tổ chức tín dụng trong nước, nước
ngoài và nhu cầu ngày càng phát triển của khách hàng đã đặt các NHTM trong tình
trạng không ngừng nghiên cứu để mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ
cung cấp cho khách hàng. Các NHTM đã phải phát huy tối đa những lợi thế của mình,
liên tục nâng cấp công nghệ để có thể đưa ra những sản phẩm dịch vụ tốt nhất đáp ứng
nhu cầu của khách hàng mới có thể tồn tại và phát triển.
1.1.4.2. Sự gia tăng cạnh tranh
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết
liệt không chỉ giữa các NHTM trong nước với nhau mà còn giữa NHTM trong nước
với NHTM nước ngoài và các tổ chức được cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Sự cạnh tranh này được thể hiện rất rõ qua việc cạnh tranh về danh mục sản phẩm dịch
vụ cung cấp, cụ thể là các sản phẩm: tín dụng, tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư
vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò
như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.
1.1.4.3. Sự gia tăng chi phí vốn
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
12
Sự nới lỏng các quy định kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí
trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng buộc
các NHTM phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định. Đồng thời, việc chính
phủ nhiều quốc gia yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn –
một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình buộc NHTM phải tìm
cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân viên, thay thế các thiết
bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại đã tạo ra một khoản chi phí không
nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi).
1.1.4.4. Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
Các qui định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách
hàng khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ việc chuyển những khoản tiền
gửi trong các tài khoản tiết kiệm với lãi suất thấp và các tài khoản giao dịch không
sinh lợi sang các tài khoản có mức lãi suất cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ lãi suất
thay đổi theo điều kiện thị trường. Vì vậy, ngân hàng phải đối mặt với những khách
hàng nhạy cảm với lãi suất hơn.
1.1.4.5. Cách mạng trong công nghệ ngân hàng
Đối mặt với sự canh tranh ngày càng gay gắt hơn, từ nhiều năm gần đây các
ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử
thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận
tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách
hàng. Những sản phẩm điển hình của cách mạng trong công nghệ ngân hàng có thể
kể đến là: máy rút tiền tự động, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi
của họ 24/24 giờ; máy thanh toán tiền được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán
hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; hệ thống
máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế
giới, …
1.2. Cơ sở lý luận về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm
Tái cấu trúc hệ thống ngânhàng thương mại là thực hiện các biện pháp nhằm
khắc phục các khiếmkhuyết của hệ thống ngân hàng thương mại nhằm mục đích duy trì
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
13
sự pháttriển ổn định (bền vững, an toàn) và hiệu quả chức năng trung gian tài chínhcủa
hệ thống ngân hàng thương mại trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng
thanh toán và trung gian tín dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động củacác
NHTM.
1.2.1.2. Đặc điểm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
Tái cấu trúc hệ thống NHTM có những đặc điểm sau:
- Một là, tính quyết liệt trong của công cuộc tái cấu: Hoạt động của
NHTM có tầm ảnh hưởng rộng khắp và lan truyền, chính vì vậy khi hệ thống ngân
hàng yếu kém sẽ kéo theo sự suy yếu của tất cả các lĩnh vực khác. Chỉ cần một ngân
hàng đổ vỡ, nguy cơ đổ vỡ toàn hệ thống rất lớn, và lan truyền rộng khắp còn gọi là
hiện tượng Domino. Chính vì vậy tái cơ cấu hệ thống NHTM đòi hỏi phải thực hiện
một cách quyết liệt.
- Hai là, tái cơ cấu hệ thống NHTM là chương trình mang tầm cỡ
quốcgia: Như trên đã đề cập về tầm ảnh hưởng của hệ hống NHTM đối với nền kinh tế
xã hội của một quốc gia, vì vậy tái cơ cấu hệ thống ngân hàng không chỉ liên quan đến
riêng ngành ngân hàng mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác. Nếu chỉ để riêng hệ
thống ngân hàng tái cấu trúc thì sẽ không đạt mục tiêu đề ra. Như vậy, tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng phải đảm bảo có sự tham gia, phối hợp tích cực, hiệu quả của nhiều
cơ quan quản lý nhà nước.
1.2.2. Lý do tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
- Lý do thứ nhất để thực hiện tái cấu trúc hệ thống NHTM khi hệ thống
ngân hàng phát sinh những vấn đề bất ổn và có nguy cơ đẩy hệ thống NHTM rơi vào
khủng hoảng kéo theo nguy cơ khủng hoảng kinh tế - xã hội hoặc một ngân hàng lớn bị
rơi vào khủng hoảng có nguy cơ lan rộng ra toàn hệ thống. Trong trường hợp này tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng là nhằm hồi sinh hệ thống NHTM.
- Lý do thứ hai để thực hiện tái cấu trúc hệ thống NHTM là nhằm mục
đích duy trì sự phát triển ổn định, hiệu quả chức năng trung gian tài chính của hệ thống
NHTM. Khi nền kinh tế phát triển sẽ đòi hỏi hệ thống NHTM phải thay đổi để thích
ứng, đảm bảo các mặt hoạt động có hiệu quả. Sự thay đổi trong điều kiện này phải theo
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
14
nguyên lý vòng xoáy ốc dẫn đến, do vậy cần thiết phải tái cấu trúc hệ thống NHTM
cho mục tiêu phát triển. Việc tái cấu trúc không chỉ thực hiện khi hệ thống NHTM
trong tình trạng khủng hoảng với mục tiêu hồi sinh, mà việc tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng còn là công việc thường xuyên ngay cả khi hệ thống NHTM đang hoạt động bình
thường hay hoạt động tốt hướng tới mục tiêu phát triển. Tái cấu trúc hệ thống NHTM
nếu được xem là công việc thường xuyên sẽ tránh gây những hậu quả xấu cho hệ thống
ngân hàng và nền kinh tế, giảm thiểu được chi phí cho việc tái cấu trúc.
1.2.3. Nội dung tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Tái cấu trúc tài chính
- Tăng quy mô và chất lượng vốn tự có của các NHTM
- Tạo nền tảng cho hoạt động của NHTM: Vốn tự có là nguồn vốn dài hạn
để đầu tư cho văn phòng, thiết bị, công nghệ. Mặt khác nó còn là nguồn vốn để góp
vốn, mua cổ phần của các công ty khác hoặc thành lập các công ty trực thuộc (cho thuê
tài chính, bảo hiểm, công ty chứng khoán, …).
- Bảo đảm sự an toàn cho NHTM: Vốn tự có là nguồn bù đắp các tổn thất
khi có rủi ro trong cho vay và đầu tư; kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán; rủi ro hoạt
động, … mà không có nguồn bù đắp. Vì vậy, mặc dù không thể thay thế cho việc quản
trị điều hành kém hiệu quả nhưng vốn tự có của ngân hàng cần thiết như là “tấm đệm”,
tăng khả năng của ngân hàng trong việc chống đỡ những rủi ro không dự tính trước
được.
-
Duy trì niềm tin và điều chỉnh hoạt động của NHTM: Vốn tự có một mặt
tạo niềm tin đối với khách hàng, mặt khác là yếu tố điều chỉnh chính sách của ngân
hàng như cho vay, đầu tư, các trạng thái kinh doanh của ngân hàng.
Từ năm 1988 đến 2010, Ủy ban Basel đã 4 lần giới thiệu các hệ thống đo
lường tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu của các NHTM (CAR). Nội dung cốt lõi quy
định về chí tiêu an toàn vốn tối thiểu của Basel 2 là yêu cầu các NHTM phải có tỷ lệ
vốn bắt buộc tối thiểu tính trên tổng tài sản điểu chỉnh theo hệ số rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường, rủi ro hoạt động ở mức an toàn là 8% trong điều kiện thông thường:
Trong đó:
* Vốn tự có được chia thành 3 cấp:
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
15
Vốn cấp 1: Vốn góp của chủ sở hữu (vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần
thường) và lợi nhuận giữ lại.
Vốn cấp 2: Thặng dư vốn cổ phần, chênh lệch do đánh giá lại tài sản, các
khoản dự phòng tổn thất, vốn bổ sung từ các công cụ nợ hỗn hợp (trái phiếu chuyển
đổi, cổ phiếu ưu đãi, …), các khoản nợ dài hạn thỏa mãn điều kiện nhất định.
Vốn cấp 3: Tùy theo quy định của cơ quan giám sát ngân hàng mà các
NHTM có thể được sử dụng các khoản nợ thứ cấp ngắn hạn dành cho mục đích duy
nhất đáp ứng một phần yêu cầu về vốn đối với rủi ro thị trường.
Vì tính ổn định và khả năng chủ động trong việc sử dụng các nguồn vốn nói
trên, tiêu chuẩn đã đặt ra quy định: Vốn cấp 1 >= Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3.
* Rủi ro tín dụng = Tổng tài sản “Có” rủi ro
* Rủi ro hoạt động: nguy cơ xảy ra tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do quy
trình xử lý nội bộ không được tuân thủ đầy đủ, do hoạt động của con người hoặc do hệ
thống hay là những sự kiện khách quan bên ngoài,. Ủy ban Basel mong muốn các ngân
hàng giữ vốn để phòng ngừa các rủi ro hoạt động gây ra. Các ngân hàng có thể lựa
chon một trong 3 phương pháp tính vốn cần thiết dự phòng rủi ro hoạt động với mức
độ phức tạp và nhạy cảm rủi ro tăng dần: Phương pháp chỉ số cơ bản (BIA – The Basic
indicator approach); Phương pháp chuẩn (TSA – The Standardized Approach); Phương
pháp đo lường nâng cao (AMA – advanced measurement Approoaches). Khi hoạt động
của NHTM càng phức tạp thì cần phải áp dụng phương pháp có độ phức tạp cao hơn,
đồng thời không cho phép các ngân hàng chuyển ngược trở lại phương pháp đơn giản.
* Rủi ro thị trường theo Ủy ban Basel đó là rủi ro xảy ra sự mất mát trong
trạng thái giao dịch khi giá cả biến động thất thường. Thông thường rủi ro thị trường sẽ
gắn liền với bốn loại rủi ro cơ bản trên các giao dịch sổ sách đó là rủi ro lãi suất, rủi ro
trạng thái vốn, rủi ro tỷ giá và rủi ro hàng hoá.
1.2.3.2. Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh
- Tái cấu trúc về sản phẩm, dịch vụ của NHTM
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng bao hàm toàn bộ các hoạt động mà ngân hàng
cung ứng cho khách hàng liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, …
thông qua các kênh phân phối khác nhau nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu dịch vụ tài chính
của khách hàng mà pháp luật cho phép.
Các ngân hàng cần phải:
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
16
Tập trung củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính, loại bỏ các
lĩnh vực kinh doanh rủi ro, kém hiệu quả.định.
Tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống và nghiến
cứu, triển khai, phát triển nhanh các dịch vụ ngân hàng hiện đai (dịch vụ thanh toán
điện tử, ngoại hối, đầu tư, quản lý tài sản,...).
Mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động ngân hàng ở khu vực có tiềm
năng phát triển và giảm các chi nhánh, điểm giao dịch hoạt động kém hiệu quả.
- Tái cấu trúc về nhân sự
Nguồn nhân lực ở bất cứ ngân hàng nào là lợi thế so sánh quan trọng vì
chính con người là yếu tố “động nhất” trong mọi quá trình sản xuất. Nguồn nhân lực 36
của NHTM được đánh giá thông qua hai chỉ tiêu cơ bản là số lượng lao động và chất
lượng nguồn nhân lực.
Số lượng lao động: là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh nguồn nhân lực của một
NHTM. Nếu số lượng lao động hợp lý ở mỗi chi nhánh, mỗi điểm giao dịch thì sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để mở rộng các hoạt động kinh doanh cho các chi nhánh và toàn bộ
hệ thống NHTM.
Chất lượng nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực của một ngân
hàng được đánh giá qua các chỉ tiêu: trình độ học vấn; trình độ ngoại ngữ; trình độ tin
học; các kỹ năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, năng lực giải quyết các vấn đề phát
sinh, tinh thần trách nhiệm, sự nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp, kinh nghiệm chuyên
môn. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng góp phần trong quá trình chực
hiện việc nâng cao năng lực tài chính của NHTM.
- Tái cấu trúc về công nghệ
Công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt là
trong thời kỳ hội nhập, sự cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng mạnh trên thế giới.
Theo quy luật, ngân hàng yếu sẽ bị thất bại, ngân hàng mạnh sẽ giành thế chủđộng trên
thị trường.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động
Thông thường cơ cấu tổ chức hoạt động của các NHTM trước khi tái cấu
trúc thường mang tính chồng chéo và thiếu khoa học dẫn đến việc điều hành cũng như
thực hiện các hoạt động trong hệ thống ngân hàng không có hiệu quả. Bởi vậy, khi tái
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
17
cấu trúc NHTM, nội dung về hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động ngân hàng được
xem như một tất yếu.
Các nội dung cơ bản khi tiến hành tái cấu trúc tổ chức và quản lý NHTM:
Rà soát và tái cấu trúc bộ máy tổ chức sao cho vừa tinh gọn vừa đảm bảo thực hiện
hoạt động của ngân hàng được tiến hành thông suốt, hiệu quả, phòng ngừa rủi ro hữu
hiệu. Phân tách giữa chức năng điều hành và chức năng giám sát để đảm bảo sự kiểm
tra toàn diện và cân bằng về nguồn lực.
1.2.3.3. Tái cấu trúc hệ thống quản trị
Các NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt với đặc thù là tổ chức kinh doanh
“tiền” nên có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn đối với hệ thống tài chính và toán
bộ nền kinh tế. Chính vì vậy, quản trị công ty đối với NHTM càng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới luôn biến động khó lường thì quản trị
công ty nói chung và quản trị NHTM càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chính vì vậy,
một trong những trọng tâm của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam là
nâng cao năng lực quản trị công ty của các ngân hàng, cải thiện và hướng tới chuẩn
mực quốc tế về quản trị công ty, đảm bảo an toàn, tăng cường tính minh bạch, từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.
1.2.3.4. Tái cấu trúc sở hữu
Sở hữu là quan hệ cơ bản, quan hệ xuất phát trong quan hệ sản xuất. Khi
phân tích đặc trưng của mọi phương thức sản xuất người ta phải chỉ rõ vai trò quy định
của các quan hệ sở hữu đó với các quan hệ sản xuất và đối với toàn bộ các mặt của xã
hội nói chung. Bản chất của sở hữu là lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế. Nếu không có
lợi ích thì bản thân sở hữu sẽ không có ý nghĩa.
Trong lĩnh vực ngân hàng, sở hữu quyết định chức năng, nhiệm vụ, phạm vi
hoạt động và việc tuân thủ quy định pháp luật của từng loại hình NHTM. 40 Theo hình
thức sở hữu, có thể phân chia các NHTM thành những nhóm sau:
- Ngân hàng thuộc sở sữu tư nhân: Là ngân hàng do cá thể thành lập bằng
vốn của cá nhân. Loại ngân hàng này thường nhỏ, phạm vi hoạt động thường là trong
từng địa phương và thường gắn liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương.
- Ngân hàng thuộc sở hữu của các cổ đông (Ngân hàng thương mại cổ
phần): Ngân hàng này được thành lập thông qua phát hành cổ phiếu, việc nắm giữ các
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
18
cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt động của ngân
hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của ngân hàng đồng thời phải chịu tổn thất có
thể xảy ra. Các ngân hàng cổ phần có khả năng huy động vốn nhanh, quy mô lớn, vì
vậy các NHTMCP thường là các ngân hàng lớn và có phạm vi hoạt động rộng, đa
năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con.
- Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước: là loại hình ngân hàng mà vốn sở
hữu do nhà nước cấp. Các ngân hàng này thường được thành lập nhằm thực hiện một
số mục tiêu nhất định của chính phủ. Các NHTM thuộc sở hữu công thường được nhà
nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản.
- Ngân hàng liên doanh: được hình thành trên góp vốn của hai hay nhiều
bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng lợi
thế của nhau.
1.2.4. Vai trò của ngân hàng trung ương trong quá trình tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng thương mại
Với vị trí là cơ quan quản lý của các NHTM, NHTW chịu trách nhiệm đảm
bảo an toàn hoạt động cho toàn bộ hệ thống NHTM sẽ không thể đứng ngoài quá trình
tái cấu trúc. Vai trò quan trọng của NHTW khi tham gia vào quá trình tái cấu trúc hệ
thống NHTM thể hiện qua những nội dung:
1.2.4.1. Tổ chức quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
Với vai trò là đầu kéo của quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM, NHTW tổ
chức quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM qua những công việc cụ thể sau:
- Rà soát, đánh giá tình hình hoạt động của toàn hệ thống NHTM: Thông
qua việc rà soát, đánh giá toàn diện hoạt động của các NHTM, NHTW nhận diện
những mặt yếu kém của hệ thống NHTM về cấu trúc tài chính, cấu trúc hoạt động kinh
doanh, cấu trúc về quản trị và cấu trúc sở hữu. Trên cơ sở đó NHTW tiến hành phân
loại các NHTM thành các nhóm: lành mạnh, trung bình, yếu kém nhằm thiết lập
phương án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
- Lập phương án tái cấu trúc hệ thống NHTM trình chính phủ phê duyệt:
Trong phương án tái cấu trúc NHTM cần làm rõ quan điểm tái cấu trúc, định hướng tái
cấu trúc và các biện pháp thực hiện, trong đó:
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
19
Quan điểm tái cấu trúc lại hệ thống NHTM cần chỉ rõ mục tiêu, nguyên
tắc thực hiện (tự nguyện hay xử lý đặc biệt) và tiêu chuẩn của NHTM phải đạt được
sau khi tái cấu trúc.
Định hướng tái cấu trúc cần chỉ rõ những nội dung cần tái cấu trúc theo
từng nhóm NHTM. Các nhóm NHTM có thể chia theo sở hữu, cũng có thể chia theo
cấp độ: lành mạnh, trung bình, yếu kém.
Các biện pháp thực hiện chia theo từng nhóm ngân hàng và theo từng nội
dung tái cấu trúc.
1.2.4.2.
Ngân hàng Trung ương điều phối, hỗ trợ thực hiện tái cấu trúc
hệ thốngNHTM
NHTW đánh giá kết quả thực hiện tái cấu trúc theo từ ng giai đoạn và đưa ra
điều chỉnh biện pháp hay chấn chỉnh kịp thời những bất cập trong quá trình thực hiện
tái cấu trúc hệ thống NHTM. Những công việc cụ thể của NHTW gồm có:
- Ngân hàng Trung ương hỗ trợ giải quyết vấn đề thanh khoản: Quá trình
tái cấu trúc sẽ làm cho thị trường tài chính trở nên bất ổn, rủi ro tín dụng tăng cao, lòng
tin giữa các thành viên thị trường suy giảm. Vì vậy, với vai trò là người cho vay cuối
cùng, NHTW cần phải giải quyết tốt vấn đề thanh khoản để tạo dựng lại niềm tin và
đảm bảo tính ổn định của thị trường tài chính.
- Ngân hàng Trung ương làm trung gian giữa các ngân hàng thương mại:
Trong quá trình tái cấu trúc, các hình thức như: mua lại, hợp nhất hay sáp nhập là
những biện pháp rất phổ biến để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng
đã được áp dụng tại rất nhiều quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế, các NHTM thường
không chủ động sáp nhập ngay cả khi tình hình đã trở nên cực kỳ khó khăn do việc
điều phối lợi ích giữa các bên tham gia là rất phức tạp. Vì vậy, NHTW phải đóng vai
trò là cơ quan trung gian, là cầu nối cho việc đàm phán tái cấu trúc giữa các bên có liên
quan.
-
Ngân hàng Trung ương thực hiện và làm đầu mối hoàn chỉnh các quy
định pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng thương mại: Trong quá trình tái
cấu trúc, có rất nhiều vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn, thậm chí là những vấn đề chưa
từng xảy ra trong lịch sử mà pháp luật hiện hành chưa bao quát hết. Vì vậy, để có thể
hỗ trợ đắc lực cho các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trong giai
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
20
đoạn phát triển mới, NHTW làm đầu mối để hoàn thiện hệ thống pháp luật đã ban hành
đồng thời xây dựng các văn bản pháp luật trong quyền hạn của mình và tham mưu cho
Chính phủ để cải thiện các quy định pháp luật có liên quan.
- Ngân hàng Trung ương kiểm soát môi trường vĩ mô: Các biện pháp tái
cấu trúc hợp lý là điều kiện cần, môi trường vĩ mô là điều kiện đủ. Tuy nhiên các yếu
tố môi trường vĩ mô thường thay đổi không ngừng vì vậy để quá trình tái cấu trúc có
thể diễn ra thuận lợi, NHTW có trách nhiệm theo dõi các diễn biến kinh tế vĩ mô và
điều hành chính sách tiền tệ phù hợp, tránh tình trạng các mối quan hệ kinh tế trên thị
trường bị méo mó.
- Cải thiện lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài: Khi nguồn lực trong
nước là không đủ để tài trợ cho quá trình tái cấu trúc, các nhà đầu tư nước ngoài là mục
tiêu được chính phủ các nước hướng đến để bù đắp cho các nguồn vốn thiếu hụt. Mặt
khác, tái cấu trúc NHTM chắc chắn không tránh khỏi những xáo trộn trong nước từ đó
dẫn đến những quan ngại của các nhà đầu tư nước ngoài về triển vọng ổn định, phát
triển của quốc gia đó. Vì vậy, việc cải thiện lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài để
họ có thể yên tâm đầu tư vào các NHTM trong nước là điều vô cùng quan trọng, đặc
biệt là đối với các quốc gia có nguồn ngân quỹ hạn hẹp.
1.2.4.3. Ngân hàng Trung ương đánh giá, đúc rút bài học kinh nghiệm
về tái cấutrúc hệ thống ngân hàng thương
Việc đánh giá chương trình tái cấu trúc hệ thống NHTM cần thực hiện trong
suốt quá trình tái cấu trúc ngân hàng theo từng giai đoạn mà còn cần thực hiện sau khi
kết thúc toàn bộ chương trình. Đánh giá chương trình cần tập trung vào các vấn đề: kết
quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và đúc rút bài học kinh nghiệm. Tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng không phải là công việc có tính nhất thời mà là công việc phải
thực hiện thường xuyên, vì vậy việc đánh giá và rút bài học kinh nghiệm sẽ hữu ích
cho các chương trình tiếp theo.
1.2.5. Những khó khăn và rủi ro của quá trình thực hiện tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng thương mại
Quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM có thể gặp một số khó khăn, rủi ro
như sau:
Viếết thuế luận văn thạc sĩ – Phone:0972.162.399
- Xem thêm -